✨Plutarchus

Plutarchus

Plutarchus (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Πλούταρχος, Ploutarchos), còn được viết theo tên tiếng Anh, tiếng Đức là Plutarch, và tiếng Pháp là Plutarque, (46 - 120) là một nhà tiểu luận và nhà tiểu sử học La Mã cổ đại, ông là người gốc Hy Lạp. Là một học giả lớn trong lịch sử, ông đã để lại một gia tài văn học đồ sộ cho nhân loại. Ông rất thông thái, am hiểu sâu sắc về tôn giáo, thuật hùng biện và cả triết học. Không những thế, có người còn xem ông là một nhà sử học quân sự, ông đã giúp cho nhân loại có được am hiểu về nền quân sử Hy Lạp - La Mã xưa kia thông qua bộ "Tiểu sử sóng đôi" trứ danh. Ông viết nên nhiều tác phẩm, và trong số đó, ông có công kích bộ sử "Historiai" của Herodotos, Đơn cử như ông so sánh vua Pyrros xứ Ipiros với quan Tổng tài Caius Marius của La Mã. Những tiểu sử hào hùng này được ông tập hợp lại trong bộ "Tiểu sử sóng đôi", và đưa tên tuổi của ông trở nên lừng danh., vai trò làm nhà đạo đức học của ông còn lớn hơn cả nhà sử học, do trong cuốn tiểu sử Alexandros Đại Đế, ông viết rằng ông quan tâm đến nhân cách hơn là lịch sử. Tác phẩm của ông đã ảnh hưởng lớn lao đến không ít nhà sử học và những nhà văn các thể loại khác, hay ông vua - chiến binh Phổ kiệt xuất Friedrich II Đại Đế.

Thời niên thiếu

thumb|Moralia, 1531 Vào năm 46, tại một thị trấn tĩnh lặng và chẳng rộng lớn chi tại Boetia (miền Nam Hy Lạp) là Chaeronea (cách điện thờ Delphi 20 dặm), nhà sử học Plutarchus chào đời. Tên người ông của Plutarchus là Lamprias, theo như ông xác nhận trong Moralia và trong cuộc đời của Antony. Anh em của ông, Timon và Lamprias, thường xuyên được đề cập trong bài tiểu luận và đối thoại của ông, nơi Timon được nói đến trong các điều tình cảm nhất. Rualdus, trong cuộc đời công việc của Plutarchus, phát hiện lại tên của vợ Plutarch, Timoxena, từ bằng chứng nội bộ bởi tác phẩm của ông. Một lá thư vẫn còn tồn tại, gửi bởi Plutarchus cho vợ mình

Plutarchus học toán học và triết học tại Học viện Athena dưới sự dạy bảo của thầy Ammonius - một nhà triết học theo thuyết Plato Từ đây, thầy Ammonius luôn luôn có ảnh hưởng sâu đậm đến sự nghiệp tri thức, triết học của Plutarchus.

Ông sống phần lớn cuộc đời của mình tại Chaeronea, và tham gia vào việc thờ cúng vị thần Hy Lạp Apollo.Tuy nhiên, nhiệm vụ của ông như là một trong hai tăng lữ tối cao của thần Apollo tại điện thờ Delphi (nơi ông chịu trách nhiệm giải thích sấm truyền của Pythia) dường như việc này chiếm ít thời gian của ông.

Trong nhiều năm, Plutarchus trở thành một trong hai vụ giáo sĩ tại điện thờ thần Apollo ở Delphi, cách Delphi hai mươi dặm. Nhờ những tác phẩm của ông và các bài thuyết giảng, danh thơm của Plutarchus trở nên vang xa trên khắp đế chế La Mã rộng lớn, nhưng ông vẫn tiếp tục cư trú tại nơi ông được sinh ra, và tích cực tham gia trong các vấn đề địa phương, thậm chí còn làm Thị trưởng nữa. Tại điền trang ở quê hương ông, các vị khách từ khắp nơi trong đế chế đã ngồi lại, tham gia vào cuộc trò chuyện về đạo lý, chủ trì bởi Plutarch trên ghế đá cẩm thạch của ông. Rất nhiều trong số những cuộc đối thoại đã được ghi lại và xuất bản, và 78 bài tiểu luận cùng các công trình khác đã tồn tại bây giờ được gọi chung là Moralia.

Làm việc là một quan tòa và đại sứ

Ngoài công việc của mình là một tu sĩ của đền thờ Delphi, Plutarch cũng là một thẩm phán ở Chaeronea và ông đã đại diện cho quê nhà của ông trong các nhiệm vụ khác nhau đi tới các nước khác trong những năm trưởng thành đầu tiên của ông. Plutarch đã giữ chức Archon ở thành phố quê hương ông

Cuộc đời của các hoàng đế La Mã

Tác phẩm tiểu sử đầu tiên được viết bởi Plutarch là cuộc đời của các Hoàng đế La Mã từ Augustus đến Vitellius. Trong số này, chỉ có cuộc đời của Galba và Otho vẫn còn tồn tại. Cuộc đời của Tiberius và Nero chỉ còn là những đoạn nhỏ, được ghi lại bởi Dasmascius (Cuộc đời của Tiberius, cf. Cuộc đời của ông về Isidore) và bản thân Plutarch (cuộc đời của Nero, cf. Galba 2,1), tương ứng. Những tiểu sử của các vị hoàng đế đầu này có lẽ đã xuất bản dưới triều đại Flavius hay trong triều đại Nerva (CE 96-98CN)

Tiểu sử sóng đôi

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Plutarchus là Tiểu sử sóng đôi, bao gồm một loạt các tiểu sử những danh nhân lịch sử của hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã vẻ vang, sắp xếp thành từng cặp để so sánh những đức tính đáng kính của họ, cũng như những khuyết điểm của các danh nhân này. Tiểu sử sóng đôi còn sót có 23 cặp danh nhân lịch sử, mỗi một đôi là tiểu sử của một vị anh hùng Hy Lạp và một anh hùng La Mã, cũng như bốn cuộc đời đơn lẻ.

Trong đoạn mở đầu của cuộc đời Alexandros, Plutarchus có lời lý giải:

Một số tiểu sử, chẳng hạn như của Heracles, Philippos II của Macedonia và Scipio Africanus, không còn tồn tại, nhiều cuộc đời còn lại bị cắt ngắn, có thiếu sót rõ ràng hoặc đã bị giả mạo bởi các nhà văn sau này. Tiểu sử còn tồn tại bao gồm của Solon, Themistocles, Aristides, Pericles, Alcibiades, Nicias, Demosthenes, Pelopidas, Philopoemen, Timoleon, Dion của Syracuse, Alexandros Đại đế, Pyrros, Romulus, Numa Pompilius, Coriolanus, Aemilius Paullus, Tiberius Gracchus, Gaius Gracchus, Gaius Marius, Sulla, Sertorius, Lucullus, Pompey, Julius Caesar, Cicero, Mark Antony và Marcus Junius Brutus. Về tính không thật sự chính xác của những câu chuyện, Plutarchus có lời bàn trong phần mở đầu trong tiểu sử của vị vua khai quốc Athena là Theseus:

Qua tác phẩm này, người ta thấy được chủ nghĩa anh hùng của người Hy Lạp và La Mã năm xưa. Nó gắn liền với những ông vua tung hoành khắp nơi mà tranh hùng tranh bá như Alexandros Đại Đế hay Pyrros, những chiến tướng dũng mãnh như Aristides hay Philopoemen, cũng như những nhà làm luật kiệt xuất như Lycurgus hay Solon - đem lại sự lớn mạnh cho nước nhà Athena và Sparta. Bằng việc so sánh các anh hùng Hy Lạp và La Mã, ông đã đưa hai nền văn hóa vĩ đại này trở nên gắn bó với nhau hơn.

Cuộc đời của Alexandros Đại Đế

Tiểu sử vua Alexandros Đại Đế của Plutarchus, được viết như là một tiểu sử song song với tiểu sử Julius Caesar, là một trong năm tài liệu cổ còn tồn tại về những cuộc chinh phục của Quốc vương Alexandros Đại đế xứ Macedonia một thời oanh liệt. Nó bao gồm những giai thoại và mô tả các sự kiện không xuất hiện trong nguồn khác, như là hình ảnh của Numa Pompilius của Plutarch, vị vua huyền thoại thứ hai của La Mã.

Di sản

Trong thời đại Phục Hưng vào thế kỷ thứ XVI, nhà văn Pháp Michel de Montaigne coi Plutarch là nhà sử học vĩ đại hơn cả. Không những thế, nhà soạn kịch lừng danh Anh Shakespeare cũng rất ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng sâu đậm từ ông. Là một "bạn đọc" lớn của Plutarch, Ngoài ra, bản dịch Plutarch của nhà dịch thuật Thomas North cũng được Shakespeare dùng làm tư liệu tham khảo cho các vở kịch Julius Caesar, CoriolanusTimon thành Athens, người ta còn nói rằng các vở kịch không nói về La Mã của Shakespeare cũng dùng nguồn từ Plutarch luôn. Dù là người kịch liệt đả kích, xúc xiểm văn học Shakespeare, vị Quốc vương đa tài có tác phẩm của Plutarchus trong thư viện của Quốc vương tại Hoàng cung Phổ, và luôn luôn mê say nền văn học Plutarchus (cùng với nhiều danh tác Hy Lạp - La Mã cổ khác) trong suốt đời mình. Cuối đời vua Friedrich II Đại Đế, Quốc vương thường giao cho một chàng trai trẻ đọc Plutarchus cho ông nghe.

Một trong những người hâm mộ lớn nhất của Plutarchus ở châu Âu thời đó là đại văn hào Pháp Jean-Jacques Rousseau, thường ngợi khen ông trong các tác phẩm của mình.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Plutarchus** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Πλούταρχος, _Ploutarchos_), còn được viết theo tên tiếng Anh, tiếng Đức là **Plutarch**, và tiếng Pháp là **Plutarque**, (46 - 120) là một nhà tiểu luận và nhà tiểu
**Ngụy Plutarchus** là tên thông thường để ám chỉ các tác giả khuyết danh của một số ngụy thư gán cho tên tuổi của nhà sử học La Mã Plutarchus. Tác phẩm chính trong số
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Demosthenes** (; ; ; 384 TCN – 12 tháng 10 năm 322 TCN) là một chính khách và nhà hùng biện người Athens thời Hy Lạp cổ đại. Các bài hùng biện của ông đã trở
**Lykourgos** (; , _Lykoûrgos_, ; 820 TCN) là nhà lập pháp bán huyền thoại của thành bang Sparta, người đã thiết lập cải cách kiểu quân sự hóa xã hội Sparta đúng theo Lời tiên
**Pyrros**, (; 319 – 272 trước Công nguyên) là nhà quân sự, chính trị Hy Lạp cổ đại. Pyrros làm vua xứ Ipiros lần đầu từ năm 306 đến 302 trước Công nguyên, lần hai
**Timoléo̱n** (, 411-337 TCN) là một tướng lĩnh và là một chính trị gia người Hy Lạp nguyên quán ở Korinthos và là một bạo chúa của Siracusa trong giai đoạn 345-336 TCN. Ông được
**Phokion** (Φωκίων) hay **Phocion**, sinh năm 402 TCN và mất năm 318 TCN, là một chính khách và thống soái quân đội (_strategos_) của thành Athena cổ đại. Ông được biết với biệt danh "Người
**Kyphi** là một loại hương hỗn hợp được sử dụng cho mục đích tôn giáo và y học tại Ai Cập cổ đại. ## Từ nguyên Kyphi được Latinh hóa từ κυ̑φι trong tiếng Hy
**Menandros I Soter** (; _Ménandros A' ho Sōtḗr_, "Menandros I Vua cứu độ"; còn được biết đến là **Milinda** trong tiếng Pali Ấn Độ, có thể được dịch ra tiếng Việt là **Mi Lan Đà**
phải|nhỏ|Bức tranh "The Knight's Dream" (Giấc mơ của Hiệp sĩ) của Antonio de Pereda. **Mơ** hay **giấc mơ** là những trải nghiệm, ảo tưởng trong trí óc khi ngủ. Hiện tượng mơ không chỉ xảy
Những vị trí địa lý liên quan đến cuộc đời của Philopoemen. **Philopoemen** (tiếng Hy Lạp: Φιλοποίμην**,** _Philopoímēn_; 253 TCN, Megalopolis – 183 TCN, Messene) là một danh tướng và chính trị gia tài năng
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Mặt Trăng** hay **Trăng**, **Nguyệt**, **Cung Hằng**, **Cung Trăng** (tiếng Anh: _Moon_, chữ Hán: 月) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất. Với độ sáng ở bầu trời chỉ sau Mặt Trời,tr.120
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Định lý Pythagoras**
Tổng diện tích của hai hình vuông có cạnh là hai cạnh vuông của tam giác vuông (_a_ và _b_) bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền (_c_). Trong
**Trận Salamis** (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, _Naumachia tēs Salaminos_), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
**Herodotos** xứ Halikarnasseus, còn gọi là **Hérodote** hay **Herodotus** (tiếng Hy Lạp: Hρόδοτος Aλικαρνασσεύς Hēródotos Halikarnāsseús, phiên âm dựa theo tiếng Pháp _Herodote_ là **Hê-rô-đốt**) là một nhà sử học người Hy Lạp sống ở
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**_Cuộc đời các danh nhân Hy Lạp và La Mã_**, còn gọi là **Tiểu sử song đôi** (tiếng Hy Lạp: _Bíoi parálleloi_; tiếng Latinh: _Vitae parallelae_) là một tác phẩm nổi tiếng của Plutarchus viết
Hình minh họa có gà và trứng từ sách _[[Tacuinum Sanitatis_, thế kỷ 14]]**Gà hay trứng** là một nghịch lý về quan hệ nhân quả nổi tiếng. Nghịch lý này thường được diễn tả dưới
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
**Marcus Antonius **(trong tiếng Latin: M·ANTONIVS·M·F·M·N) (khoảng 14 tháng 1 năm 83 TCN - 1 tháng 8 năm 30 TCN) được biết đến trong tiếng Anh là **Mark Antony**, là một chính trị gia và
**Trận Philippi** là trận đánh cuối cùng trong các cuộc chiến tranh của liên minh tam hùng lần thứ 2 giữa quân đội của Marcus Antonius và Octavianus (Liên minh tam hùng lần thứ hai)
**Dracon** (; , _Drakōn_) (? - ?) là nhà lập pháp Hy Lạp cổ đại đầu tiên của thành bang Athena, sống vào thế kỷ thứ 7 TCN. Ông là người đã thay thế toàn
**Publius Valerius Laevinus** là viên chỉ huy quân La Mã trong cuộc chiến tranh Pyrros. Ông thống lĩnh một đội quân tinh nhuệ trong trận đánh tại Heraclea vào năm 280 TCN, và bị vua
**Cineas** là một người Thessaly thời Hy Lạp cổ đại, rất uyên bác thâm sâu. Theo tiểu sử _Pyrros_ của Plutarchus, ông từng là đồ đệ của nhà hùng biện lừng danh Demosthenes, và là
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95
**Kassandros** (tiếng Hy Lạp: Κάσσανδρος Ἀντιπάτρου, _Kassandros con trai của Antipatros_; kh. 350 TCN – 297 TCN), còn gọi là **Cassander** trong ngôn ngữ hiện đại, ông là vua của Macedonia từ năm 305 đến
nhỏ| Tập thứ ba của phiên bản 1727 của [[Plutarchus|Lutarch 's _Cuộc đời các danh nhân Hy Lạp và La Mã_ được Jacob Tonson in ấn ]] **Tiểu sử** là một mô tả chi tiết
**Agesilaos II**, hoặc là **Agesilaus II** (tiếng Hy Lạp: ****, 444 trước Công Nguyên – 360 trước Công Nguyên) là một vị vua nhà Eurypond của Sparta, trị vì từ khoảng năm 400 trước Công
Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau
**Chiến tranh nô lệ lần ba** (73-71 TCN) hay còn được Plutarchus gọi là **Chiến tranh đấu sĩ** hoặc **Chiến tranh Spartacus**, là cuộc chiến cuối trong một loạt các cuộc khởi nghĩa nô lệ
**Bạo chúa** (tiếng Hy Lạp: , _tyrannos_) ban đầu là một người sử dụng sức mạnh của dân chúng một cách trái với thông lệ để chiếm đoạt và kiểm soát quyền lực của chính
**Trận Pharsalus** là một trận đánh quyết định của cuộc nội chiến Caesar. Diễn ra vào ngày 9 tháng 8 năm 48 TCN tại Pharsalus ở miền trung Hy Lạp, Gaius Julius Caesar và đồng
thumb|Từ phải sang: Isis, Osiris, con trai của họ Horus - các nhân vật chính trong huyền thoại Osiris **Huyền thoại Osiris** là câu chuyện phức tạp và giàu ảnh hưởng nhất trong thần thoại
_Để tìm hiểu về một trận đánh trước đó, xem bài Trận Chaeronea (338 TCN)_ **Trận Chaeronea** là chiến thắng của quân La Mã do quan Tổng tài Lucius Cornelius Sulla chỉ huy trước vua
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Hryhorii Savych Skovoroda** (; 3 tháng 12 năm 1722 - 9 tháng 11 năm 1794) là một triết gia người gốc Cossack Ukraine sinh sống và làm việc tại Đế quốc Nga. Ông là một
**Octavia chị** (trước 69 TCN – sau 29 TCN), cũng được biết với tên **Octavia Major/Maior**, **Octavia lớn**, là con gái của quan tổng đốc và nguyên lão La Mã Gaius Octavius với người vợ
**Critola** (Ancient Greek: Κρίτολα, 550 BC) là một công chúa Libya-Hy Lạp của Cyrenaica có thủ đô tại Cyrene và là một thành viên triều đại Battiad. Cô là con gái của Arcesilaus I, vị
nhỏ|Đồng bạc [[denarii do Licinius đúc ở La Mã khoảng năm 84 TCN
Mặt ngửa: bán thân thần Veiovis. Mặt sấp: Thần Minerva cầm giáo và khiên trên xe tứ mã]] **Caius Licinius Macer** (k.
**Thrasybulus** (/ˌθræsɨˈ
**Tiếng Hy Lạp Koine**, hay **tiếng Hy Lạp Thông Dụng** (_tiếng Hy Lạp hiện đại_: , _nghĩa đen_: "phương ngữ phổ thông"), còn gọi là **tiếng Attica phổ thông** hoặc **phương ngữ Alexandria**, là dạng
thumb|Hình vẽ nghệ thuật so sánh chiếc mũi người thumb|Minh họa chiếc mũi khoằm **Mũi khoằm** (còn gọi là **mũi quặp** hoặc **mũi két**) là loại mũi người với phần xương sống mũi nhô ra