✨Phật giáo Phương Tây

Phật giáo Phương Tây

Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau khi các cuộc xâm lược các quốc gia châu Á hoàn tất vào thế kỉ thứ 19 thì những khái niệm mang tính học thuật hơn của Phật giáo mới chính thức phổ biến ở người Phương Tây.

Trong Lịch sử Cổ đại

nhỏ|upright|trái|Tôn tượng ngài Bồ tát [[Di Lặc thế kỷ thứ 1-2 sau Công nguyên tại Trung Á]]

Thời Hy Lạp Cổ đại

Sự tiếp xúc giữa nền văn hóa châu Âu với thế giới Phật giáo đã diễn ra vào thời kì Cổ đại mà có lẽ là năm 334 trước Công nguyên, khi Alexander Đại đế thực hiện những cuộc chinh phạt của mình vào miền Trung Á. Đây chính là bàn đạp cho sự pha trộn văn hóa giữa Vương quốc Seleukos với nền văn minh Hy Lạp cổ đại, kết hợp với Phật giáo, hình thành nên hình thái Phật giáo Hy Lạp.

Mặt khác, nhà lãnh đạo của Đế quốc Maurya – Hoàng đế Asoka (273–232 trước Công nguyên) sau khi chứng kiến cảnh máu đổ kinh hoàng vùng Kalinga (Orissa ngày nay) tại miền đông Ấn Độ trong Cuộc chiến Kalinga do chính ông phát động đã cải sang đạo Phật, thành tâm sám hối những lỗi lầm của mình cũng như tuyên bố sẽ chấm dứt những cuộc chinh phạt sau này. Điều đáng nói là ông là một trong những người có công lớn nhất trong việc phát triển và truyền bá Phật giáo ra bên trong thậm chí ra ngoài phạm vi Ấn Độ với hàng ngàn tháp Phật và trụ đá còn sót lại đến ngày hôm nay.

Một trong những ví dụ điển hình nhất có lẽ là Bảo tháp Sanchi ở Ấn Độ. Ngôi bảo tháp này đã được xây dựng vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên và được mở rộng không lâu sau đó. Nó được xem là một trong những công trình kiến trúc hoàn hảo nhất của Nền hội họa Phật giáo tại Ấn Độ cổ đại. Ngoài ra, vua Asoka còn cho xây dựng đường sá, bệnh viện, đại học Phật giáo cùng hệ thống tưới tiêu trên khắp đất nước. Ông đã sống chuẩn mực trong tinh thần đạo Phật – đối xử bình đẳng với tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, thể chế chính trị và đẳng cấp xã hội. nhỏ|[[Đế quốc Maurya dưới thời Vua Asoka ]] Đây cũng là thời kỳ đánh dấu bước phát triển của Phật giáo ra ngoài phạm vị Ấn Độ. Theo các chỉ dụ còn lưu lại trên các trụ đá của vua Asoka, các nhà truyền giáo được phái đến hàng chục tiểu vương quốc khác nhau từ Sri Lanka cho đến Đế quốc Hy Lạp, và Vương quốc Hy Lạp-Bactria cũng không phải là ngoại lệ, thậm chí còn xa hơn khi đến vùng Địa trung Hải.

Trong thời kỳ Thiên chúa giáo thịnh hành, tư tưởng Phật giáo đã dần xâm nhập vào Châu Âu thông qua Trung Đông. Câu chuyện của hai vị thánh - Barlaam và Josaphat đã được "Công giáo hóa" từ chính câu chuyên thật của Cuộc đời của Đức Phật, được dịch ra từ tiếng Ấn sang Tiếng Ba Tư rồi sang Tiếng Ả - rập để cuối cùng chuyển ngữ thành Tiếng Hy Lạp, và ngôn ngữ tôn giáo lại dần dần sai biệt hẳn so với bản gốc trong việc phiên dịch. Mặt khác, cuộc gặp gỡ được ghi chép đầu tiên giữa Phương Tây và Phật giáo là vào năm 1253 khi vua nước Pháp cử William of Rubruck làm Sứ giả cho triều đình Mông-Nguyên. Sau đó ít lâu, vào thế kỷ thứ 17, những người Phật tử Mông Cổ theo truyền thống Phật giáo Tạng truyền đã thành lập nên Kalmykia, quốc gia Phật giáo duy nhất tại châu Âu, ngay tại miền cực Đông của châu lục này.

Phật giáo và các vương quốc Hy Lạp cổ đại

nhỏ|upright|trái|Tôn tượng đầu Đức Phật Thích Ca tại [[Afghanistan, mang rõ dáng dấp các bức tượng Hy Lạp và La Mã cổ đại]]

Nền văn minh Hy Lạp cổ đại, khi đã có sức ảnh hưởng lan tỏa, theo sau là Vương quốc Seleukos cùng với sự ra đời của Vương quốc Hy Lạp-Bactria và Vương quốc Ấn-Hy Lạp, hòa quyện với Phật giáo theo phong cách Phật giáo thời kỳ Hy Lạp hóa, đã tạo ra một loại hình Nghệ thuật mới- Nghệ thuật Hy Lạp Cổ đại-Phật giáo.

Đây chính là một sự kết hợp văn hóa độc đáo giữa Hy Lạp cổ Đại với văn hóa đạo Phật, được phát triển rực rỡ đến tận 8 thế kỷ tại Trung Á từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.

Phật giáo và Đế quốc La Mã cổ đại

nhỏ|up left|[[Thánh Barlaam|Barlaam và Josaphat, hai vị "Thánh Công giáo" đến từ Ấn Độ lại là chế bản của câu chuyện từ cuộc đời thật của Đức Phật]]

Những cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa người La Mã với Phật giáo đã được ghi chép bởi các học giả kinh điển cũng như các giáo sĩ Thiên chúa. Lịch sử La Mã đã thuật lại và miêu tả rất chi tiết về đoàn sứ giả tên Porus do Quốc Vương Ấn Độ Pandion (có thể là Pandya?) cử đến, để gặp mặt Augustus năm 13 Sau Công nguyên. Đoàn sứ giả này được gửi đến với một bức thư ngoại giao, được viết bằng Tiếng Hy Lạp cổ đại, và trong phái đoàn này có một giáo sĩ Ấn Độ (sramana) đã tự thiêu tại Athens để thể hiện đức tin của mình. Sự kiện này đã làm xôn xao cộng đồng La Mã bấy giờ, thậm chí người ta ví nó như một Nicolaus của Damascus. Ngôi mộ dành cho ông vẫn còn tồn tại đến tận thời của Plutarchus, nó đã được khắc lên dòng chữ, "ΖΑΡΜΑΝΟΧΗΓΑΣ ΙΝΔΟΣ ΑΠΟ ΒΑΡΓΟΣΗΣ" ("Vị sramana (tạm dịch là giáo sĩ) đến từ Barygaza, Ấn Độ").

Điều này ít nhất cũng khẳng định đã từng có một vị giáo sĩ Ấn Độ (sramana) đến vùng Địa Trung Hải. Thế nhưng cho đến hôm nay, vẫn có nhiều giả thiết khác nhau về tôn giáo của vị giáo sĩ này, bởi lẽ từ "sramana" không chỉ dành riêng cho các tu sĩ đạo Phật mà có ý nói đến các tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Ājīvika.

Thế kỉ 19

nhỏ|upright|phải|Chân dung của [[Arthur Schopenhauer - một trong những người có công đầu trong việc truyển bá Phật học ở Phương Tây]]

Vào thế kỉ thứ 19, đạo Phật cũng như các tôn giáo và Triết học phương Đông lại trở thành đề tài được quan tâm trong giới học thức Tây phương.

Sự quan tâm từ giới triết học

Một trong số này phải kể đến nhà triết học người Đức Schopenhauer, người đã nghiên cứu sách Phật học và những tôn giáo khác tại châu Á để đưa ra học thuyết của mình. Ngoài ra, một nhà triết học Mỹ khác là Henry David Thoreau cũng đã dịch một bản kinh Phật từ Tiếng Pháp sang Tiếng Anh.

Năm 1895, một nhà khoa học Tây phương khác - Friedrich Nietzsche đã cho xuất bản cuốn sáchThe Anti-Christ, đã tán dương đạo Phật rằng "nó thực tiễn gấp hàng trăm lần so với giáo lý đạo Thiên chúa". Thậm chí Robert Morrison-một nhà truyền giáo Phương Tây đến Trung Hoa đại lục từng nói: "... giữa chúng có một sự cộng hưởng sâu sắc ..." và "... Chúng nhắm đến sức mạnh nội tại của con người tại một vũ trụ không có thượng đế, cũng như không tìm cầu đến những sinh vật hay quyền năng bên ngoài cho những giải pháp riêng về vấn đề sinh tử ...".

Sự quan tâm từ công chúng

Vào nửa cuối thế kỉ thứ 19, đạo Phật đã thực sự trở thành tâm điểm ở phạm vi rộng hơn, không chỉ trong giới học thuật mà còn trong mọi tầng lớp trong xã hội, điển hình là trong các bài viết của Lafcadio Hearn.

Và vào thời điểm này cũng là lúc mà những người Phương Tây đầu tiên cải sang đạo Phật, đáng nói nhất là hai nhân vật Henry Steel Olcott và Helena Blavatsky vào năm 1880. Những cuộc cải đạo sang Phật giáo diễn ra từ những người công nhân nhập cư như U Dhammaloka vào năm 1884 cho đến tỳ kheo từng là người nổi tiếng như Asoka (H. Gordon Douglas), Ananda Metteyya và Nyanatiloka vào những năm cuối thế kỷ này.

Thế kỷ 20

Luồng Phật tử châu Á nhập cư

nhỏ|upright|phải|Chân dung của [[Nyanatiloka Maha Thera - một trong những tỳ kheo đầu tiên ở Phương Tây]]

Những nhà sư nhập cư sang Hoa Kỳ không những giảng đạo cho những người gốc Á mà còn truyền bá tôn giáo của mình cho những người phương Tây. Những người Phật tử đầu tiên đến Tây phương không ai khác chính là những người công nhân giá rẻ Trung Hoa trong việc xây dựng đường sắt và mở rộng công nghiệp, họ đã thành lập những ngôi đền, chùa ngay tại nơi họ định cư dọc theo những đường ray tàu hỏa. Cũng vào khoảng thời gian này, những đồn điền và nông trại tại Hawaii và trung tâm California đã bắt đầu xuất hiện những người Nhật nhập cư. Vào năm 1899, họ thành lập Hiệp hội Truyền giáo ngay tại Bắc Mỹ. Sau đó, nó được đổi tên thành Buddhist Churches of America.

Vào năm 1893, Soyen Shaku – một trong 4 vị Thiền sư cùng hai người Phật tử tại gia, đã giới thiệu dòng thiền Lâm Tế, Tịnh độ chân tông, Nhật liên tông, cùng khác tông phái khác của Phật giáo, tạo ra những đại biểu ưu tú của Nhật Bản để dự Đại hội Tôn giáo tại Chicago vào năm 1893. Năm 1897, thiền sư D.T. Suzuki đến thăm Hoa Kỳ để cùng làm việc và nghiên cứu với giáo sư triết học Paul Carus. Ông cũng là người quan trọng nhất trong việc truyền bá Thiền tông đến Phương Tây. Những công trình của Suzuki đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nên Chủ nghĩa Phật giáo hiện đại, một dạng thuyết hổ lốn của đạo Phật,giúp hòa quyện giữa bản sắc Phật giáo Á Đông với Thuyết Tiên nghiệm phương Tây

Trước Chiến tranh thế giới

Bản dịch Tiếng Anh đầu tiên của quyển sách Tibetan Book of the Dead, được dịch sang Tiếng Việt là Tử thư (Tây Tạng), ấn hành vào năm 1927 và được tái bản năm 1935 kèm với lời nhận xét của C. G. Jung - bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học Thụy Sĩ cũng như là nhà tâm lý học hiện đại đầu tiên cho rằng: "Tinh thần của con người là nền tảng của mọi tôn giáo’’ đã thu hút nhiều người Phương Tây đến với Phật giáo Tạng truyền.

Tuy nhiên, trên thực tế, vào những năm đầu khi ngành nghiên cứu Phật học ở Tây phương ra đời đã vấp phải không ít khó khăn mà cụ thể là những bản dịch kinh Phật nghèo nàn về ngôn từ cũng như chiều sâu (do không phải là bản dịch từ cuốn kinh gốc mà được dịch lần lượt qua nhiều ngôn ngữ), nhưng điều này đã sớm được giải quyết khi các học giả phương Tây, đáng nói nhất là Max Müller bắt đầu học ngôn ngữ châu Á và dịch kinh Phật từ những bản gốc. Cũng vào thời gian này, cuốn tiểu thuyết Siddhartha, được dịch ra tiếng Việt là Câu chuyện dòng sông được viết bởi một nhà văn người Đức tên Hermann Hesse xuất bản như một món quà thể hiện niềm tin yêu của ông đối với các tôn giáo phương Đông

Trong những năm 1950

Vào những năm 50 của thế kỷ, Jack Kerouac - một nhà văn người Mỹ thuộc trường phái Beat Generation đã trở nên nổi tiếng với tiểu thuyết The Dharma Bums (tạm dịch là "Sự bùng nổ của Chánh pháp") cùng nhiều tác phẩm khác. Một nhà triết học khác tên Alan Watts, cũng đã thành công khi cho xuất bản nhiều tác phẩm về Thiền và Đạo Phật. Vào cuối những năm 60 và đầu những năm 70 của thế khỉ trước, phong trào " nghiệm lại văn hóa’’ những người hippie đã mở ra một cuộc khám phá lại những giá trị của đạo Phật, điều mà họ tin rằng đang hứa hẹn sẽ vạch ra những con đường đi đến hạnh phúc thực tiễn và rốt ráo hơn đạo Thiên Chúa, cũng như một lối thoát cho hiện tượng thoái trào về đức tin tâm linh và cuộc sống bộn bề Phương Tây. và một số nước châu Âu.

Tuy nhiên lại có một sự sai biệt đáng kể giữa đạo Phật chính thống và đạo Phật được mang vào bằng những người nhập cư gốc Á, đó có thể là Phật giáo Đại thừa, tính ngưỡng pha tạp, và Phật giáo dành cho những người mới cải đạo, thường thấy ở phái Thiền, Tịnh độ, Vipassana hay Phật giáo Tây Tạng. Thậm chí trong số họ lại không theo một pháp môn riêng biệt nào, mà chấp nhận và thực hành tất cả, một điều hiếm gặp ở Phật giáo của các nước Phương Đông.

Phật tử gốc Do Thái

thumb|Shinzen Young một người Phật Tử người Do Thái giảng dạy triết lý Phật giáo tinh thần Nhà Phật cho các sinh viên Mỹ ở Viện Đại học Harvard năm 2012 Người Do Thái xuất hiện và có mặt rất nhiều trong thế giới Phật giáo Hoa Kỳ và người Do Thái là những tín đồ Phật giáo mà có cha mẹ không phải là Phật tử, và vô di sản Phật giáo, với khoảng một phần năm và 30% của tất cả các tín đồ Phật tử ở Mỹ là người Do Thái mặc dù chỉ có 2% người Mỹ là người Do Thái. Tên gọi Jubus, một số lượng người Phật Tử gốc Do Thái ngày càng tăng cao ở Mỹ và người Do Thái đã bắt đầu áp dụng tinh thần thực tiễn của Phật giáo. Những người Phật Tử Do Thái Hoa Kỳ nổi tiếng bao gồm: Robert Downey, Jr. Allen Ginsberg, Goldie Hawn và con gái Kate Hudson, Steven Seagal, Adam Yauch của nhóm nhạc rap The Beastie Boys, và Garry Shandling. Nhà sản xuất phim ảnh Anh em nhà Coen đã được ảnh hưởng bởi Phật giáo trong khoảng một thời gian.

Phật giáo Tạng truyền

Khác với những pháp môn khác, Phật giáo Tạng truyền khi được đưa đến Phương Tây vẫn giữ nguyên cho mình những tín ngưỡng, học thuyết truyền thống. Họ đã thành lập một Tổ chức có tên gọi là "Tổ chức gìn giữ các giá trị truyền thống Đại thừa" (FPMT) với mong muốn làm cầu nối cho các trung tâm Phật giáo mang tính chất Tạng truyền. Được thành lập vào năm 1975 bởi vị lạt - ma Thubten Yeshe và ngài Thubten Zopa Rinpoche – những người có công không nhỏ trong việc giảng dạy giáo lý Tây Tạng cho những người Phương Tây, tổ chức FPMT đã phát triển mãnh mẽ để hướng đạo cho 142 trung tâm thuyết pháp tại 32 quốc gia. Cũng giống như những tổ chức Phật giáo Tây Tạng khác, FPMT không có những "thành viên" ứng cử trong mỗi kỳ, mà chỉ được lãnh đạo bởi nhóm lạt-ma có uy tín trong suốt một khoảng thời gain dài (trong tiếng Anh gọi là "head lama").

Một tổ chức khác có tên gọi là New Kadampa Tradition được khai sang năm 1991 bởi vị lạt-ma Geshe, Kelsang Gyatso – người đã có ba năm được tập huấn tại Tharpaland, Dumfried. Ngày nay, tổ chức này có hơn 1100 trung tâm tại 40 quốc gia song song với việc duy trì Dự án Tự viện Liên Hiệp quốc (the International Temples Project) với mong muốn xây dựng những Tu viện Phật giáo Kadampa tại khắp các thành phố lớn nhất Thế giới.

Văn hóa cộng đồng

Chánh điện chùa [[Hsi Lai (Tây Lai tự), San Fransico., Hoa Kỳ]]

Hình ảnh Phật giáo đang được sử dụng nhiều hơn trong lĩnh vực giải trí và thương mại. Điều này vô tình lại là sự xúc phạm đối với cộng đồng Phật tử khi các quán bar ăn chơi trác táng lại để ảnh hay tôn tượng Đức Phật, hay hình ảnh đức Đạt-lai Lạt-ma lại được sử dụng trong chiến dịch tổ chức hàng ngũ lãnh đạo trong Công ty phần mềm máy tính Apple Inc.. Tương tự, hình ảnh các tự viện Tây Tạng lại được sử dụng trong các bảng quảng cáo của một số hang nước hoa.

Hệ thống tự viện

Ngôi chùa lớn nhất Nam Bán Cầu là chùa Nam Thiên ("Nam Thiên tự"), tọa lạc tại Wollongong, Australia, trong khi ngôi chùa lớn nhất Bán cầu Tây là chùa Tây Lai ("Tây Lai Tự"), ở California, Mỹ đều được tổ chức Phật Quang Sơn, Đài Loan xây cất. Vào năm 2003 Pháp sư Hải Đào, mong muốn chùa Nam Thiên có thể gầy dựng một cộng đồng Phật tử bản địa trong vòng ba mươi năm tới.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau
nhỏ|phải|Nhà thờ Cơ Đốc giáo trên khắp nơi ở phương Tây **Tôn giáo phương Tây** (_Western religions_) là những tôn giáo bắt nguồn từ văn hóa phương Tây (hay còn gọi là Âu Mỹ), do
nhỏ|phải|Vị Phật sống [[người Tây Ban Nha Hita y Torres]] nhỏ|phải|Vị nữ Phật sống [[người Mỹ Catharine Burroughs (tên khai sinh là _Alyce Louise Zeoli_), sinh ra tại Canarsie, Brooklyn ở Mỹ]] Một vị **Phật
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura
nhỏ|phải|Một thiền sư thế tục **Phật giáo thế tục** (_Secular Buddhism_) hay **Phật giáo thực dụng** (_Pragmatic Buddhism_) là một thuật ngữ nghĩa rộng chỉ về một loại hình Phật giáo ngày nay dựa trên
thumb|right|upright=1.7|Thế giới phương Tây bắt nguồn từ cuốn sách _Xung đột giữa các nền văn minh_ năm 1996 của Samuel P. Huntington: [[Xanh dương|màu xanh nhạt là Châu Mỹ Latinh và thế giới Chính thống
thumb|Tỉ lệ phần trăm Phật tử ở các nước, theo [[Trung tâm Nghiên cứu Pew.]] **Phật giáo ** là tôn giáo có số lượng tín đồ vào khoảng 488 triệu người trên khắp thế giới,
nhỏ|phải|Một ấn phẩm Phật giáo tại Lào, có chú thích bằng tiếng Anh **Phật giáo hiện đại** (_Buddhist modernism_ hay _Neo-Buddhism_) là những phong trào Phật giáo tân thời dựa trên sự diễn giải lại
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
nhỏ|phải|Bánh xe Pháp luân **Biểu tượng Phật giáo** (_Buddhist symbolism_) là việc sử dụng các biểu tượng (_pratīka_) như một phương pháp thể hiện nghệ thuật nhằm trình bày các phương diện triết lý Phật
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
thumb|Văn hóa phương Tây, trong hầu hết lịch sử của nó, gần như tương đương với [[văn hóa Kitô giáo, và một phần lớn dân số của bán cầu Tây có thể được mô tả
**Biến cố Phật giáo 1963**, còn được gọi là **sự kiện đàn áp Phật giáo 1963, pháp nạn Phật giáo Việt Nam 1963 **hay gọi đơn giản là **phong trào Phật giáo 1963 **là một
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
thumb|Tháp Phước Duyên thuộc [[chùa Thiên Mụ - biểu tượng đặc trưng ở Thừa Thiên Huế]] **Tháp** (chữ Hán: 塔) còn được gọi là **bảo tháp** (bửu tháp), **Phật tháp** hay **tháp chùa** là công
**Chiêm tinh học phương Tây** là hệ thống chiêm tinh phổ biến nhất ở các quốc gia phương Tây. Chiêm tinh học phương Tây có nguồn gốc lịch sử từ tác phẩm _Tetrabiblos_ của Ptolemy
[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|**Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông**:
**Đỏ**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Bắc truyền** vào Đông Á.
**Xanh**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Nam truyền** vào Đông
thumb|[[Zoketsu Norman Fischer Thiền sư Phật giáo người Do Thái đang luyện công]] **Người Do Thái theo Phật giáo** là những người Do Thái thực hành đức tin của Phật Giáo và những lời dạy,
nhỏ|phải|[[Phật giáo là tôn giáo châu Á lâu đời và đậm chất minh triết phương Đông]] nhỏ|phải|Tín ngưỡng thờ Mẫu là nét đặc trưng trong tín ngưỡng bản địa ở miền Đông Nam Á **Tôn
phải|nhỏ|305x305px|Bản đồ các trung tâm địa lý chính của các trường phái Phật học lớn ở Nam Á, vào khoảng thời gian [[Huyền Trang du hành đến vào thế kỷ VII.
* Màu đỏ: trường
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các cộng đồng Tăng đoàn (_Sangha_) đã nhóm họp định kỳ để giải quyết các tranh chấp về giáo lý và kỷ luật cũng như sửa đổi và chỉnh
Phật giáo, từng được coi là một tôn giáo bí ẩn từ phương Đông giờ đã trở nên rất phổ biến ở phương Tây, bao gồm cả Hoa Kỳ. Vì Phật giáo không yêu cầu
**Thiên** (zh. 天, sa., pi. _deva_), còn gọi là **Thiên nhân**, **Thiên thần**; với nguyên nghĩa Phạn _deva_ là "người sáng rọi", "người phát quang", trong văn hóa Phật Giáo là một trong 8 loại
**Đại Ly giáo** hay **Ly giáo Đông–Tây** là sự kiện chia rẽ Kitô giáo xảy ra vào thời Trung Cổ mà kết quả là hai hệ phái Kitô giáo được hình thành: phương Đông (theo
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
nhỏ|Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo nhỏ|phải|Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo [[Huỳnh Phú Sổ]] **Phật giáo Hòa Hảo** là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939,
nhỏ|phải|Đức Pháp vương [[Gyalwang Drukpa được cho là hóa thân của Tùng Tán Can Bố]] **Hoá thân** (tiếng Phạn: _Nirmāṇa-kāya_; tiếng Tây Tạng: _Tulku_ སྤྲུལ་སྐུ་; tiếng Trung Quốc: _huàshēn_ 化身; tiếng Nhật: _keshin_), còn gọi
**Giác ngộ** (zh. 覺悟, sa., pi. _bodhi_), danh từ được dịch nghĩa từ chữ _bodhi_ (bồ-đề) của Phạn ngữ, chỉ trạng thái tỉnh thức trong Phật giáo. ## Giải nghĩa của _bodhi_ và Phật thành
nhỏ|phải|Chuỗi tràng hạt Phật giáo **Chuỗi tràng hạt** là một vật dụng trong việc tụng kinh Phật giáo gồm một vòng xâu hạt. Hạt có thể làm bằng hàng thảo mộc, bằng xương, bằng đá
:_Xem các nghĩa khác tại sen_ nhỏ|[[Sen|Hoa sen một trong những biểu tượng của Phật giáo]] Thai tạng giới Mạn-đà-la (sa. garbhadhātumaṇḍala) Sen được đặt bên cạnh tượng Phật Thích-ca tại Minh Nhật Hương Thôn,
nhỏ|phải|Bức tượng Đức Phật Thích Ca (Kim thân Phật tổ) tại Chùa Giác Ân ở Thành phố Hồ Chí Minh **Đạo đức Phật giáo** (_Buddhist ethics_) hay **đạo đức nhà Phật** là đạo đức, lẽ
nhỏ|phải|[[VOA]] nhỏ|phải|[[BBC]] **Truyền thông phương Tây** (_Western media_) là phương tiện truyền thông đại chúng của thế giới phương Tây. Trong Chiến tranh Lạnh, truyền thông phương Tây đối lập với truyền thông Liên Xô.
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
_Bài này viết về một thuật ngữ trong Phật giáo, các nghĩa khác xem Giới (định hướng)_. Có hai thuật ngữ **Giới** đồng âm dị nghĩa trong Phật học. ## Giới (戒) **Giới(戒) là gì?**
**Chấn hưng Phật giáo** hay **Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam** là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát
[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|**Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông**:
**Đỏ**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Bắc truyền** vào Đông Á.
**Xanh**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Nam truyền** vào Đông
nhỏ|phải|Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni tại chùa Phật Cô đơn (Thanh Tâm tự) ở Bình Chánh nhỏ|phải|Tượng Phật tại chùa Long Hương ở Đồng Nai **Văn hóa Phật giáo** (_Culture of Buddhism_) là một
**Phật giáo** chiếm khoảng 0,9% dân số Bangladesh. Khoảng 1,5 triệu người ở Bangladesh tuân thủ theo Phật giáo tại Bangladesh. Hơn 65% dân số theo đạo Phật tập trung ở khu vực Chittagong, nơi