✨Động vật trong Phật giáo
Động vật trong Phật giáo chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "Chúng sinh bình đẳng" (Tiracchāna-yoni), kêu gọi không sát sinh (Pāṇāṭipātā paṭivirati), ăn chay và khuyến khích phóng sinh (Tsethar). Có nhiều loài động vật được đề cập đến trong Kinh Phật, chúng là biểu trưng của Thuyết vật linh và thuyết hình người (động vật là hiện thân của thần thánh). Theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó, và do sự tạo tác của tâm thức hay hành nghiệp của chúng sinh và đưa ra luận thuyết chúng sinh bình đẵng, kể cả những loài súc sinh.
Các lý thuyết
Cội gốc
nhỏ|phải|Một con [[hổ con đang nghe tụng kinh tại Chùa Hổ, Thái Lan]] Thuyết vật linh và thuyết hình người là phổ biến trong những người Ấn Độ cổ đại. Động vật được xem như là một hiện thân của thần linh, hay những vị thần của chính tổ tiên, một số bản kinh Phật giáo sơ kỳ cho thấy rằng động vật chia sẻ bản chất tôn giáo của con người, mà những hiện tượng được quán sát như vậy là rõ ràng về sự liên kết giữa con người, muôn thú và thần linh. Quan điểm của Phật giáo về luân hồi ngang qua các loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và động vật. Phật giáo đã chế định những giới luật quan trọng mà chúng khẳng định rằng giết hại những chúng sanh khác là một sự vi phạm những quy tắc đạo đức cơ bản nhất của vũ trụ. Giới đầu tiên là cam kết tránh hủy hoại đời sống. Những Phật tử thời kỳ đầu chấp nhận quan điểm rằng tất cả muông thú thuộc về một lãnh vực mà nó thấp hơn lãnh vực của con người.
Trong lịch sử Ấn Độ, những vị thần muông thú có trước những vị thần hình nhân (thần dạng người lai thú). Trong suốt thời kỳ Mauryan, những bức tượng hoàn toàn thuộc về thế giới muông thú. Trong thời kỳ theo sau, hình ảnh tập trung nhiều vào muông thú hơn là con người. Muông thú chiếm ưu thế như là đặc điểm trong các câu chuyện Jātaka và những vị anh hùng không phải con người mà là muông thú. Nhân loại nhận nước từ một con rắn, lửa từ một con ếch và giấc ngủ từ một con thằn lằn. Những muông thú mà chúng được khắc họa trong văn học và nghệ thuật Phật giáo luôn là những động vật có tốc độ và sức mạnh ấn tượng như ngựa, trâu, hươu, cọp, sư tử, gấu, tê giác. Nhưng động vật cũng có thể được đề cập như Bồ-tát chỉ bởi vì chúng đầy những bí ẩn.
- Khi làm một vị thái tử đã hy sinh mạng sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Phật là tấm gương về việc xả thân cứu độ loài vật, Phật đã hy sinh thân mạng của mình để cứu sống một con cọp cái và hai con cọp con đang đói, bị mắc kẹt trong tuyết. Ngoài ra đức Phật cũng cấm không được ăn 10 loại thịt: thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu. Đây không phải là sự kiêng kỵ riêng cho một số loài nào (như Hồi giáo kiêng thịt heo, Ấn giáo kiêng thịt bò) mà vì những lý do sau: Thịt người thì không thể ăn vì quá dã man; thịt voi và thịt ngựa vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù Trong một số kinh sách tiếng Phạn (kinh Lăng Già và kinh Đại Bát Niết Bàn) của Phật giáo Đại thừa thì đức Phật dạy các đệ tử của mình không được ăn thịt cá.
Phóng sinh
nhỏ|phải|Phóng sinh rùa tai đỏ ở chùa Ngọc Hoàng Nghi Lễ Phóng Sanh (Tsethar) là một cách thực hành của Phật giáo để cứu súc vật, chim chóc, cá khỏi bị giết hại hay giam nhốt vĩnh viễn. Chúng được thả vào một cuộc sống mới mẻ về thể chất và tâm linh. Nghi thức này là ví dụ điển hình về giáo pháp căn bản của Phật giáo là từ bi đối với tất cả chúng sanh. Một đệ tử của Phật phải duy trì tâm từ bi và tu hành hạnh giải thoát chúng sanh. Tất cả chúng sanh nam đã từng là cha của tôi và tất cả chúng sanh nữ đã từng là mẹ của tôi. Không có một chúng sanh nào mà không sanh ra tôi trong những kiếp trước, vì vậy tất cả chúng sanh trong sáu nẻo đều là cha mẹ của tôi. Vì vậy, khi một người giết và ăn thịt bất cứ chúng sanh nào, người đó đã giết hại cha mẹ tôi. Bất cứ khi nào vị Bồ tát thấy kẻ khác chuẩn bị giết một con vật, vị Bồ tát nên tìm một phương tiện khéo léo để cứu vớt và bảo vệ con vật đó, giải thoát nó khỏi sự đau khổ và khó khăn.
Cấm sát sinh
nhỏ|phải|Một con gà bị cắt tiết Theo thuyết của Phật giáo thì theo tinh thần bình đẳng nên súc sinh cũng cần được tôn trọng do đó Phật giáo đề ra ngũ giới trong đó có quy định không sát sinh tức là không giết người và giết các loài súc sinh nói chung (bất tổn sinh hay bất hại). Đồng thời cũng có khi vì tế độ chúng sinh, Bồ Tát đôi khi cũng chuyển hóa vào hạng súc sanh. Như đức Phật Thích Ca từng sinh ra làm cá để cứu bịnh thời khí, làm công để thuyết diễn đạo lý, làm nai để tỏ cái đức từ bi cứu thế một số loài súc sinh biết giác ngộ sẽ trở thành cao quý như như những loài chim quý, lạ ở Cực Lạc thế giới, do sức thần thông của đức Phật A Di Đà mà hóa sinh để thuyết pháp cho các nhà tu học ở đó nghe.
Một số văn bản về sau có những bước đi dài hơn khi ghép những người hủy hoại những loại đời sống muông thú khác nhau dưới những tình huống khác nhau với những địa ngục tương xứng, thậm chí không được làm bị thương một con thú, một Tăng sĩ đào một cái hố và một con thú rơi vào trong đó, nếu con thú chết, tội buộc phải sám hối. Kinh Saddharmasm-tyupasthana, một bản kinh Sanskrit có niên đại thế kỷ IV-V sau Công nguyên. Theo văn tự trong cuốn Kinh sách này thì:
- Những người giết hại chim hay hươu mà không hối hận thì bị đọa vào một địa ngục thấp được gọi là địa ngục Phân dơ.
- Những người nấu sống lạc đà, heo, cừu, thỏ, gấu, và những loài như vậy thì bị trừng phạt trong địa ngục Vạc nấu.
- Những người mà đánh đập rùa hay bóp chết cừu thì bị đày vào địa ngục Tối tăm. Theo Phật giáo nguyên thủy, trên thế gian, có hai loại nhân: một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi trồng nhân thiện thì gặt quả thiện, khi trồng nhân ác thì gặt quả ác. Nếu tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm, thì tương lai sẽ thọ quả báo của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cái nhân ác lớn nhất là sát sinh. Con người nếu phạm Ngũ Giới (sát, đạo, dâm, vọng, tửu) thì sẽ rất dễ đọa vào ba ác đạo và cũng rất dễ thành kẻ đầy rẫy tri kiến sai lầm, tà vọng, không tin Phật Pháp, không kính Tam Bảo. Đọa vào ba đường ác rồi thì khổ ải. Tội lỗi lớn nhất là sát sinh, ăn thịt. Nếu ăn thịt của người thì sau đó người sẽ ăn thịt lại. Hỗ tương ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương chém giết, hỗ tương đọa lạc. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được, đó là điều hết sức nguy hiểm, là đi vào "hiểm lộ".
Nghiệp chướng
Nghiệp của một chúng sanh trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác tùy thuộc nó thiện hay bất thiện. Sau khi chết, thân xác tan rã và một cá nhân tái sanh trong một trạng thái hiện hữu thỏa đáng (sugati) chẳng hạn là một con người nếu hành vi của nó là tương đối tốt hay một trạng thái hiện hữu đau khổ (duggati) chẳng hạn như một con thú hay thậm chí tệ hơn nếu hành vi của nó là xấu, những cá nhân mà họ đi cùng với đời sống này, thì nếu họ là những thợ săn tay đẫm máu, hay những tên trộm thì có khả năng tái sanh vào trong hình thức của một sinh vật vụng trộm hay bò trườn như một con rắn, một con bò cạp, một con rết, một con cầy mangut, một con mèo, một con chuột, một con cú. Theo cách khác một con thú có thể sanh làm một con người.
Muông thú cũng được Phật giáo xem như là chủ đề đối với nghiệp của họ. Một số lớn Jātaka coi nghiệp tốt và xấu được thực hiện trong quá khứ bởi những loại thú khác nhau. Những nghiệp này sau đó nối kết với hiện tại, những sinh vật tốt được nhận biết thông qua tiến trình tái sanh với Phật và những đệ tử của ông, còn những kẻ xấu với Đề Bà Đạt Đa và những người như vậy. Do đó, một người có thể sanh làm thú và ngược lại tùy thuộc vào nghiệp. Một câu chuyện về người là thánh nhập lưu (sơ quả A La Hán hay srota-aapanna) sanh vào một gia đình đồ tể. Người đó ở ngưỡng cửa tuổi trưởng thành. Mặc dầu người ta mong đợi anh sẽ tiếp tục theo nghề nghiệp của gia đình, nhưng anh không thể giết thú vật.
Cha mẹ anh đưa anh một con dao và một con cừu, nhốt anh vào trong một căn phòng và nói với anh: "Nếu con không giết con cừu, chúng ta sẽ không cho con ra ngoài để thấy mặt trời, mặt trăng hay cho con thức ăn, nước uống để được sống." Anh tự nghĩ: "Nếu tôi giết con cừu này, thì tôi sẽ [bị bắc buộc] theo nghề nghiệp này suốt đời. Làm sao tôi có thể làm tội ác đại ác này [chỉ ] vì cái thân này?" Sau đó anh cầm dao lên và tự sát. Cha mẹ của anh mở cửa để xem, thấy con cừu đang đứng cạnh anh [đang nằm] đã chết. Vào lúc đó, khi tự sát, anh được sanh lên cõi trời. Nếu người nào giống như vậy, thì đây là không màng sanh mạng [của chính mình] để giữ gìn [sự nguyên vẹn] của tịnh giới.
Tưởng Uẩn
Tưởng uẩn hay hay tưởng thức hay uẩn (Saṃjñā/sañña/saṅkhāra/行) là một trong những Ngũ giới có liên quan đến động vật. Saññā hiện khởi trong Tiracchānabhūmi, có ba loại saññā hiện khởi cho các loài bàng sanh là: Kāmasaññā (Biết hưởng dục), Gocarasaññā (Biết kiếm ăn), Maraṇasaññā (Biết sợ chết) và Dhammasaññā (Biết Pháp). Phần nhiều các loại Bàng sanh khác chỉ có ba loại tưởng. Trong ba loại saññā này, Maraṇasaññā (Biết sợ chết), là hiện khởi nhiều nhất cho loài Bàng sanh, vì sự nguy hại đến sanh mạng có rất nhiều đối với các loài bàng sanh, tức là thú nhỏ thường bị thú lớn bức hại, những con nhỏ tị thì thằn lằn, rắn mối ăn, mèo ăn thằn lằn, cọp ăn mèo.
Đây được xem là mối nguy hại giữa các loài Bàng sanh với nhau, ngoài ra còn có những mối nguy hại đến sanh mạng bằng cách khác nữa, như thiếu thốn, đói khát, vất vã khó khăn về chỗ ở và thường bị nhân loại bức hại do đó tuổi thọ loài bàng sanh rất ngắn ngũi, chỉ vài giờ, vài ngày, vài năm chẳng hạn như các loài chó có tuổi thọ từ 10-35 năm, bò, trâu, ngựa có tuổi thọ từ 20-30 năm cũng có, hoặc bằng loài người, voi có tuổi thọ từ 60-100 năm, không nhất định, tuổi thọ bàng sanh vô hạn định.
Các loài
Con bò
nhỏ|phải|Một con bò trắng Ấn Độ Trong đạo Phật, bò cũng được đưa vào một số bài kinh để làm ví dụ giảng giải. Như bài kinh thứ 33 trích trong Kinh Trung Bộ từ tiếng Pali. Kinh này Phật dạy người chăn bò phải có đầy đủ 11 đức tính mới có thể chăn giữ được đàn bò của mình tốt đẹp. Mười một đức tính đó bao gồm: Không biết rõ các sắc. Không khéo phân biệt các tướng. Không từ bỏ trứng của con bò chét. Không biết băng bó vết thương cho bò. Không biết xông khói cho bò tránh muỗi, đàn bò sẽ không tốt. Không biết chỗ nước có thể lội qua, Người chăn bò không biết chỗ nước để cho bò lội qua, không biết chỗ nào sông cạn sông sâu.
Không biết chỗ uống nước, người chăn bò không biết rõ chỗ nước uống. Không biết con đường. Không khéo đối với các đàn bò. Nếu không biết chỗ nào có nước tốt, ăn ngon mà cho bò uống nước đục thì bò không lớn nổi. Người chăn bò phải biết khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ. Vắt sữa bò đến khô kiệt. Không chú ý săn sóc đặc biệt con bò đầu đàn, con bò lớn tuổi. Đối với người chăn bò phải biết quan tâm, chăm sóc bò cao tuổi, tức là những con bò già, chậm chạp. Người chăn bò có 11 đức tính kể trên thì đàn bò mới được hưng thịnh, giúp cho đàn bò phát triển tốt đẹp, hữu dụng.
Theo giáo lý Phật giáo, con bò có khả năng biến ước mơ thành hiện thực với điều kiện bạn phải tử tế với nó và không được ăn thịt nó. Vì lý do này mà nhiều phật tử Trung Hoa không ăn thịt bò. Tương tự như thế, thần thoại Phật giáo đòi lại cho vị giáo chủ của mình vị trí của con bò đực trong kinh Vệ Đà. Bò đực được phổ biến coi như một con vật của mặt trăng, quan hệ với đêm. Cái sừng tuyệt mỹ của Shiva là vừng trăng lưỡi liềm. Hầu như ở khắp châu Á, bò đực gắn với sự chết. Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, người ta nghĩ rằng, quy y cho các loài động vật, gieo duyên cho chúng để tái sinh hết kiếp này để ra kiếp sau trở thành người.
Việc gắn đức Phật với con bò cũng được nhắc đến trong một Phật thoại Khmer (Camuchia và miền Tây). Truyện kể giải thích nguồn gốc của năm vị Phật (Ngũ Phật), ba vị Phật quá khứ là Phật Câu Lưu Tôn (Krakucchanta), Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni), Phật Ca Diếp (Kasyapa) và Phật hiện tại Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) và Phật tương lai là Phật Di Lặc (Maitreya) sẽ ra đời vào kiếp kế tiếp, nói chung, nhóm phật này đều liên quan đến bò. Truyền thuyết Khmer kể rằng: Có vợ chồng quạ đẻ được năm quả trứng. Một hôm, khi vợ chồng quạ đi kiếm mồi thì năm quả trứng bị mưa bão nước cuốn trôi, tứ tán và mỗi quả được một con vật nhặt được đem về ấp nở ra năm đứa trẻ về sau trở thành năm vị Phật. Quả trứng được con bò nhặt được nở ra Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tại Việt Nam, một ngôi chùa ở Bình Chánh đã cho một con bò quy y. Trong một lần được người thương lái đưa ra lò mổ, khi đi ngang qua cổng chùa Pháp Hải (huyện Bình Chánh), con bò bỗng dừng lại không chịu đi. Chứng kiến cảnh tượng ấy, nên các sư trong chùa đã mua lại con bò về nuôi vì cho rằng, cái duyên với Phật chưa dứt, vì thế các sư tại chùa Pháp Hải ngay lập tức làm lễ quy y cho chú bò. Tuy nhiên, dư luận cho rằng việc "quy y" cho bò chỉ là điều mê tín. Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, người ta nghĩ rằng, quy y cho các loài động vật, gieo duyên cho chúng để tái sinh hết kiếp này để ra kiếp sau trở thành người.
Tuy nhiên ngay trong Phật giáo cho rằng con bò ý thức hoạt động rất là kém cho nên người Việt Nam thường dùng hình ảnh con bò để chỉ những người "có đầu mà không có óc", không phát triển ý thức, không phát triển trí tuệ. Bản thân loài bò thì nó dừng bất kỳ nơi đâu mà nó thích. Đây là trường hợp ngẫu nhiên, con bò dừng lại ngay vị trí của ngôi chùa làm cho người ta liên tưởng đến có lẽ do nhân duyên kiếp trước con bò là người hay là Phật tử. Nay đến chỗ này, con bò không chịu đi nữa, nó muốn dừng lại và các thầy ở đây làm lễ quy y và nên xem đây là chuyện bình thường.. Trong Phật giáo nguyên thủy cho biết có mười loại voi.
- Voi Kāḷavaka (Hắc Tượng hay voi đen), voi này có sức mạnh bằng 10 người.
- Voi Gaṅgeyya hay voi Gaṅgā có sức mạnh bằng 10 voi Kāḷavaka
- Voi Daṇḍara hay voi Paṇḍara(Bạch tượng hay voi trắng) có sức mạnh bằng 10 voi Gaṅgeyya
- Voi Tamba (Voi màu đỏ sậm hay xích tượng) có sức mạnh bằng 10 voi Paṇḍara
- Voi Piṅgala (Voi màu nâu) có sức mạnh bằng 10 voi Tamba.
- Voi Gandha (Hương tượng) có sức mạnh bằng 10 voi Piṅgala
- Voi Maṅgala (Tượng Maṅgala) có sức mạnh bằng 10 voi Gandha
- Voi Meha hay voi Hema (Voi xám) có sức mạnh bằng 10 voi Maṅgala
- Voi Uposatha có sức mạnh bằng 10 voi Meha
- Voi Chaddanta là loài voi sanh tại hồ Chaddanta có sức mạnh bằng 10 voi Uposatha
Thích Ca Mâu Ni trong những tiền kiếp của mình đã sinh làm voi, vào kiếp sau cùng của mình, từ cõi trời Đâu Suất, đã nhập vào thai tạng của mẹ mình trong hình thức một con voi trắng. Trong nghi lễ cúng mandala (Mạn Đà La), người ta dâng lên Đức Phật con voi quý, với sức mạnh của một ngàn con voi và nó có thể đi vòng quanh vũ trụ ba lần một ngày. Ngà của voi cũng là một trong bảy biểu tượng của vua chúa. Voi là phương tiện đi lại của A Súc Bệ Phật (Aksobhya) và nữ thần Balabadra. Voi cũng xuất hiện như một kẻ canh gác các ngôi đền và cả bảo vệ Đức Phật.
Con nai
nhỏ|phải|Một con nai tại Đền Hổ
Jātaka Ruru viết: Con trai của một thương nhân giàu có, người sống một đời sống phóng đãng đã cố tự sát bằng việc gieo mình vào sông Hằng. Một con nai có tên là Ruru đã cứu người thanh niên bằng việc gây nguy hiểm cho tính mạng của nó. Sau đó, người thanh niên phản bội con nai bằng việc đưa thông tin về chỗ ở của con nai. Nhưng từ việc ấy, con nai bị bắt, nhà vua đến và biết về mối liên hệ giữa hai vị. Nhà vua để cho con nai đi nhưng muốn giết người thanh niên. Con nai, tuy nhiên, cầu xin nhà vua để cho người thanh niên đi. Trong kiến trúc Phật giáo, hình tượng con nai cũng thường xuyên được khắc họa thông qua các bức tượng hoặc các bức phù điêu
Con thỏ
Chuyện tiền thân Sata, kể về con thỏ sống trong rừng với một con khỉ, một con chó rừng và một con rái cá. Câu chuyện liên quan đến sự quyết định của chúng để tiến hành những thánh nhật và giới luật bằng việc bố thí. Quan sát ngày trăng tròn, chúng quyết định xem ngày kế tiếp như một ngày trai giới và bố thí cho bất kỳ kẻ ăn xin nào. Trong khi con khỉ, chó rừng và rái cá thu gom thức ăn để cho những ai cần nó, con thỏ không thể thu gom thức ăn nên đã dâng thịt của chính mình. Thỏ đã được tưởng thưởng là hình ảnh của nó được in lên mặt trăng. Con thú anh hùng ở đây được xem như là một vị Bồ-tát ở trong một tiền kiếp.
Con khỉ
Trong Phật giáo, khỉ là một trong số những con vật tượng trưng cho nhân tính của con người. Các bậc đại giác ví "tâm như khỉ vượn" rất khó chế ngự "giống như một con khỉ bay nhảy trong rừng sâu, khi thì chụp cành này rồi buông bỏ lại chụp cành khác, rồi chạy chụp cành khác nữa" (Anguttara Nikàya). Trong Tam bộ nhất bái, Hư Vân thiền sư cũng từng "tâm nhiều tham cầu như khỉ vượn nhảy nhót hái trái cây" nên với đạo Phật thì việc "xuất gia là để trị cái tâm lăng xăng như khỉ". Khỉ và vượn được ví với cái tâm xấu xa, không thể tĩnh tại của con người qua hình ảnh "lục song nhất viên" (sáu cửa sổ một con vượn), biểu thị cho nẻo hành hoạt của tâm.
Trong Bàn về tọa thiền: "Nếu khi ngồi thiền chẳng tắt mọi niệm, thì tâm vượn nổi dậy, ý ngựa lông bông". Nêu dẫn tâm vượn nối kết với một công án: "Pháp thân tịch diệt sắc thân còn/Đêm vắng canh khuya nhập mộng hồn/Dù chửa rong chơi Thiền Tổ vực/Cũng từng lui tới/Pháp vương môn/Biếng theo Hiền thánh vô sanh lộ/Cam chịu trời người hữu lậu hôn/Phỏng gặp tác gia bàn mối diệu/Thiên tân đâu chốn dậy hồ tôn" Hai câu cuối: "Nhược ngộ tác gia đàm diệu chỉ/Thiên tân hà xứ khởi hồ tôn?" thì Hồ Tôn là tên một giống khỉ nhỏ, ám chỉ cái tâm vọng động của chúng sinh tương đương với tâm viên (tâm vượn). Đây là công án của Thiền tông Trung Quốc.
Truyện cổ Phật giáo có câu chuyện con khỉ hàng xóm với con quạ, và quạ thì sinh được một con, có con rắn thường lân la. Một hôm, không có quạ mẹ ở nhà thì con rắn nuốt chửng quạ con rồi lánh xa. Quạ mẹ kiếm mồi trở về biết rắn đã ăn thịt con mình thì đau khổ kêu than muốn trả thù nhưng không phải đối thủ của rắn. Khỉ biết chuyện quát: "Con rắn độc tâm địa tàn ác, táng tận lương tâm, chuyên gây nghiệp sát sinh, lười biếng không biết kiếm sống theo chính nghiệp, thấy ai yếu hơn mình thì nhe răng uy hiếp, giết hại, thật đáng giận cho cảnh ỷ mạnh hiếp yếu này!". Khỉ đi tìm rắn và giết rắn trả thù giúp quạ mẹ. Phật nói rằng con khỉ này chính nghĩa vì trừ khử con rắn độc, không cho phép tiếp tục giết hại những sinh mệnh bé nhỏ yếu ớt khác và tự mình chịu lấy nghiệp sát và bị đọa lạc mà sinh mệnh của chúng sinh được bảo toàn thì vẫn là chuyện nên làm Nó tượng trưng cho sức mạnh của giáo lý chánh pháp, nên trong kinh phật có rất nhiều câu chuyện về sư tử chúa.
Sư tử cũng là biểu tượng của chư Bồ-tát, "những người con trai của Đức Phật". Một người hùng dũng đôi khi được ví giống như sư tử, giống như một con sư tử là đứng đầu tất cả muông thú. Đây cũng là một diễn tả khác dành cho Đức Phật. Trong Phật giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni được tôn là Pháp vương, giống như sư tử là vua của loài thú lời thuyết pháp của Phật được gọi là Sư tử hống (Simhanada/Siôhanàda/師子吼) tức là tiếng rống của sư tử, biểu thị uy lực và diệu dụng của Phật pháp thu nhiếp được tất thảy chúng sinh, cũng như khi sư tử cất tiếng kêu rống thì những con sư tử nhỏ cũng tăng thêm uy lực, khiến trăm thú sợ hãi, nép phục.
Cũng có dữ liệu cho rằng Phật là sư tử của dòng họ Sakya, và kinh, luận Phật giáo thường lấy sư tử dụ cho đức vô úy và sự vĩ đại của Đức Phật, tòa ngồi của Đức Phật gọi là Tòa sư tử (Simha-sana) ngoài ra còn có hình ảnh tượng Bồ-tát Văn Thù cưỡi sư tử thuộc quy phạm đồ tượng học truyền thống Phật giáo hay xa xưa hơn là biểu tượng Nara-simha (người sư tử), kẻ có sức mạnh và lòng dũng cảm diệt trừ cái ác và sự ngu muội và vô minh. Sách Gita cho hay Krishna là sư tử giữa các loài thú, Đức Phật là sư tử của dòng tộc Sakya, huy hiệu của Aśoka mang hình ba con sư tử tựa lưng trên một cái bệ hình bánh xe, với tiêu ngữ: Chân lý sẽ thắng.
Do lòng sùng đạo của Aśoka, ba con sư tử có thể biểu trưng cho Tripitaka (Tạm tạng chân kinh của Phật giáo) và cũng có thể biểu trưng cho Tam bảo Phật-Pháp-Tăng. Những điển tích đó giải thích việc khắc chạm một cặp sư tử trên tọa cụ của Phật Thích Ca xuất hiện ngay thời Vô tượng kỳ khoảng 500 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết-bàn. Đây là nguồn cội của việc thể hiện vô số sư tử, cả điêu khắc lẫn hội họa trong mỹ thuật các quốc gia Viễn Đông. Sư tử thường được coi là vật bảo hộ cho đền chùa hay các ảnh tượng (có khắc vẽ sư tử trên đó). Với các nội dung biểu trưng nêu trên, sư tử từ Ấn Độ đã thâm nhập vào văn hóa của các cộng đồng, quốc gia Đông Nam Á.
Một cách tổng quát, ở khu vực này, khá giống với Ấn Độ, đều tồn tại đồng thời hai loại sư tử một là, sư tử tự nhiên (simha) với sức mạnh thù thắng của chính nó, và hai là, loại sư tử thiêng, kết hợp sư tử với một số bộ phận của các con vật khác để tạo thành những loại linh vật giống sư tử có tính chất siêu nhiên. Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, những con sư tử trong vai trò là những kẻ bảo hộ Pháp đang nâng tòa ngồi của chư Phật và chư Bồ-tát. Chúng cũng được nhìn thấy ở nơi lối vào của các chùa chiền.
Ở những khu vực miền Bắc Nepal, do ảnh hưởng nghệ thuật và Phật giáo Tây Tạng, những con sư tử đã trở thành những "sư tử tuyết". Trên thực tế, không có con sư tử nào sống ở những núi tuyết, mà chỉ có những con báo. Sư tử tuyết được mô tả bằng màu trắng hay xanh dương với cái bờm màu cam hay màu ngọc lam đang đi nổi trên gió và rất hung dữ, với đôi mắt mở to và miệng hả rộng. Chúng tự do đi lại trên những ngọn núi tuyết cao mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào, biểu trưng cho những hành giả thực hành pháp.
Theo Phật giáo nguyên thủy thì tuổi thọ Sư tử không nhất định, đôi khi là 200-300 tuổi. Trong các loại bàng sanh, sư tử là chúa của loại Bàng sanh. Có bốn loại Sư tử chúa, Trong Aṅguttara aṭṭhakathā có ghi chép: Sīhoti cattāro sīhā tiṇasīho kāḷasiho paṇḍusīho và Kesarasīho là: Tiṇasīha thì có thân hình màu đỏ giống như chân chim bồ câu và to bằng con bò tơ, loại này ăn cỏ; Paṇḍusīha lại có thân hình màu lá cây chín vàng, to bằng con bò tơ, loại này ăn thịt; Kāḷasīha thì ó thân hình màu đen, lớn bằng con bò tơ, loại này cũng ăn cỏ. Ba loại sư tử này ở trong rừng Hy Mã hoặc rừng rậm.
Loài sư tử chúa Kesarasīha (có môi, đuôi và chân màu đỏ, từ đầu đến lưng có ba sọc đỏ và xung quanh bān tọa 3 vòng, ở cổ có lông phủ xuống ở vai có màu giống như vải Kambala. Phần còn lại ở trên thân đều có màu trắng, loại này ăn thịt). Trú xứ của sư tử Kesara có 5 chỗ là: Hang vàng, hang bạc, hang ngọc mã não, hang ngọc Māṇī, hang kim cương. Sư tử Kesara này chỉ ở trong rừng Hy Mã, có thân hình to như con trâu. Ngày nay, hình tượng con Sư tử được thể hiện rất nhiều tại các Chùa chiền Phật giáo. Tượng sư tử bằng đá được đúc khắc, tạo tác như hộ môn thú, canh giữ những nơi linh thiêng, tượng sư tử còn thể hiện là vật kỵ tọa của Văn thù Sơ lợi bồ tát, được đúc tạc là cảnh Bồ tát cưỡi trên con sư tử, hình dáng con sư tử trong các ngôi chùa có thể là sư tử theo phong cách Trung Quốc hoặc Sư tử theo phong cách Tây phương.
Con hổ
Trong Phật giáo Ấn Độ, hổ cùng với khỉ và hươu cũng là một trong ba linh vật biểu tượng cho sự tu tập khỏi tạp nhiệm. Cũng trong Phật giáo, con hổ biểu tượng cho sức mạnh của niềm tin, sự chiến thắng mọi trở ngại trên con đường tu chứng do đó hình ảnh thường thấy là hình tượng Bồ Tát Văn Thù cưỡi trên lưng hổ và đó là sự tượng trưng cho sự diệt trừ được tham, sân, si và ác nghiệp, tu thành quả Phật. Trong câu chuyện Phật giáo có nói về Khi làm một vị thái tử đã hy sinh mạng sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Phật là tấm gương về việc xả thân cứu độ loài vật, Phật đã hy sinh thân mạng của mình để cứu sống một con cọp cái và hai con cọp con đang đói, bị mắc kẹt trong tuyết. ngoài ra, linh cẩu còn là một trong 10 loài thú mà các tín đồ Phật giáo không được phép ăn vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù.
Con công
Trong ý nghĩa chung, công là biểu tượng của sự cởi mở và chấp nhận. Trong Ấn giáo, những hoa văn của lông công tượng trưng cho những con mắt, hay tượng trưng các ngôi sao. Trong Phật giáo, công hay công lam Ấn Độ tượng trưng cho trí tuệ. Công được cho có khả năng ăn những cây có độc dược mà không hề bị ảnh hưởng gì. Bởi điều đó, chúng được ví với những vị Đại Bồ-tát. Một vị Đại Bồ-tát có thể xem những thứ nhiễm ô như là phương cách đưa đến giải thoát và chuyển đổi tâm độc hại tham-sân-si (moha, raga, dvesa) thành tâm giác ngộ hay bồ-đề..