✨Màu sắc động vật

Màu sắc động vật

nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này, giúp thu hút bạn tình, cảnh báo đến đối thủ và kẻ thù, đồng thời cho thấy vị thế của nó trong đàn.]] nhỏ|phải|Một con [[công lam với sắc lông sặc sỡ để thu hút con mái]] nhỏ|phải|Một con [[cá trạng nguyên với màu sắc sặc sỡ để hòa lẫn vào môi trường sống]] Màu sắc của động vật là sự xuất hiện chung của một hoặc nhiều sắc màu ở động vật (trừ con người) do sự phản xạ hoặc phát chiếu ánh sáng từ bề mặt của chúng. Một số loài động vật có màu sắc rực rỡ và sặc sỡ, trong khi những loài khác khó nhìn thấy hơn. Đặc điểm ngoại hình thể chất, màu sắc lông da, hình dáng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khoẻ, hoạt động của các bộ phận bên trong cơ thể cũng như khả năng sản xuất. Màu sắc của chúng có thể là ở cấp độ tổng thể (thuần nhất) hoặc sắc màu chính của thân, cũng có thể là ở các điểm (màu sắc ở các bộ phận, các đốm). Màu sắc được hiển thị qua bên ngoài cơ thể như màu lông (nhóm thú, chim), màu da (bò sát, lưỡng cư, thân mềm), màu vỏ (giáp xác, chân đốt, côn trùng).

Sắc màu được hình thành bên ngoài từ da hoặc từ lông và có nguồn gốc từ di truyền. Một con đường là sự xuất hiện sắc màu do chọn lọc tự nhiên, hình thành qua con đường tự nhiên giúp các loài động vật thích nghi với môi trường sống, ngụy trang, lẩn tránh hoặc bắt con mồi và cũng như liên lạc, thu hút bạn tình, duy trì nòi giống (thông thường các nhóm động vật có sắc màu đa dạng gồm nhóm chim, cá, côn trùng, bò sát và lưỡng cư). Một con đường khác là sự chọn lọc nhân tạo thông qua công tác chọn giống nhằm đáp ứng cho nhu cầu và sở thích của con người, theo đó, người ta lai tạo chọn ra nhiều biến thể màu sắc khác nhau mà điển hình là trên những giống ngựa, giống chó, giống mèo, giống thỏ và giống gà.

Tổng quan

nhỏ|phải|Một con [[bướm đang hòa lẫn với môi trường xung quanh nó khi đậu trên mặt đất]] nhỏ|phải|Một con [[ếch màu sặc sỡ là sự cảnh báo về độc tố chết người]] nhỏ|phải|Một con [[cá mú sặc sỡ phù hợp với môi trường sống là các rạn san hô]] Có một số lý do riêng biệt tại sao động vật có màu sắc đa dạng. Động vật cũng sử dụng màu sắc trong khoe mẽ để báo hiệu tình trạng tình dục cho các thành viên khác của cùng một loài và sự bắt chước (biến hình), lợi dụng màu cảnh báo các loài khác. Ở một số loài, chẳng hạn như ở con công, con trống có hoa văn rực rỡ, màu sắc dễ thấy và óng ánh, trong khi con mái thì ít nhìn thấy. Ngụy trang cho phép một con vật trở nên bí ẩn. Báo hiệu cho phép một con vật để giao tiếp thông tin như cảnh báo về khả năng của mình để bảo vệ chính mình (aposematism), như vài loài động vật thân mềm sử dụng tế bào sắc tố để giao tiếp.

Sự biến đổi màu được sử dụng để ra hiệu giữ các loài động vật, chẳng hạn như hành vi tán tỉnh và sinh sản. Trong tự nhiên, nhiều loài động vật sử dụng màu sắc cơ thể để ngụy trang tránh động vật săn mồi hoặc cảnh báo đe dọa kẻ thù hay để hấp dẫn bạn tình. Rắn độc vàng Viper sống ở vùng miền Trung và Nam Mỹ. Màu sắc vàng rực gây sửng sốt của nó có chức năng cảnh báo mạnh mẽ. Ốc sên xanh lục ngụy trang rất tốt trên một chiếc lá lớn ở rừng mưa.

Cơ chế

Động vật tạo ra sắc màu theo những cách khác nhau. Các chất sắc tố là các hạt vật chất có màu. Bào sắc tố là những tế bào có chứa sắc tố, có thể thay đổi kích thước của chúng để làm cho màu sắc chúng nhiều hơn hoặc ít hơn có thể nhìn thấy. Một số loài động vật, trong đó có nhiều loài bướm và chim, có cấu trúc nhỏ trong quy mô, lông hay lông vũ này làm cho các màu sắc óng ánh rực rỡ. Các động vật khác bao gồm cả mực và một số loài cá biển sâu có thể tạo ra ánh sáng (phát sáng), đôi khi màu sắc khác nhau và độ sáng cũng khác. Động vật thường sử dụng hai hoặc nhiều hơn các cơ chế này lại với nhau để tạo ra màu sắc và tác động mà chúng thấy cần.

Sự biến đổi màu được sử dụng bởi nhiều loài động vật nhằm mục đích bảo vệ, với các phương thức như ngụy trang, bắt chước, hoặc cảnh báo. Vài loài động vật bao gồm các loài cá, lưỡng cư và thân mềm sử dụng tế bào sắc tố để tạo sự ngụy trang mà biến đổi đa dạng để giống với cảnh nền xung quanh. Loại sắc tố không ổn định (photopigment) rhodopsin chắn ánh sáng lại, là bước đầu tiên trong việc cảm nhận ánh sáng. Các sắc tố trên da, chẳng hạn như melanin có thể bảo vệ các mô không bị rám nắng bởi bức xạ cực tím. Tuy nhiên, một số cấu trúc sinh học ở động vật, chẳng hạn như nhóm hemoglobin giúp vận chuyển oxi trong máu, có màu sắc là do cấu trúc của chúng. Màu sắc đó không có chức năng bảo vệ hay ra hiệu.

Nhiều căn bệnh và tình trạng bất thường có liên quan đến sự thay đổi màu sắc ở động vật, do sự thiếu hoặc mất hẳn tế bào sắc tố, hay sự tạo ra quá nhiều sắc tố. Một số biến thể bệnh tật trong tự nhiên có thể thấy là:

  • Bệnh bạch tạng là một dạng rối loạn di truyền đặc trưng bởi sự mất đi một phần hay hoàn toàn melanin. Động vật (kể cả con người) mắc phải chứng bạch tạng được gọi là "albinistic" (thuật ngữ "albino" đôi khi cũng được sử dụng, nhưng có thể được xem là xúc phạm khi dùng cho người).
  • Lamellar ichthyosis, cũng được gọi là "bệnh vảy cá", là một tình trạng di truyền mà triệu chứng là sự tạo ra melanin quá mức. Da sẽ đen hơn bình thường, và đặc trưng bởi các mảng khô, có vảy màu đen.
  • Bệnh nám da (Melasma) là tình trạng mà các mảng sắc tố nâu sẫm xuất hiện trên mặt, bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi kích thích tố. Khi nó xảy ra trong thời kỳ mang thai, tình trạng này được gọi là "the mask of pregnancy".
  • Sự đổi màu mắt (Ocular pigmentation) là sự tích lũy sắc tố ở mắt một số con vật khi đổi màu mắt có thể bị loạn sắc tố.
  • Bệnh bạch tạng đốm (vitiligo) là tình trạng mà có sự mất đi các tế bào tạo ra sắc tố gọi là melanocyte ở các mảng da. Ở các giống vật nuôi, tính trạng chất lượng của vật nuôi biểu biện ở phân bố không liên tục, thường do gen quy định, sự khác nhau trong 1 gen có thể dẫn đến sự khác nhau của tính trạng. Tính trạng thường có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với tác dụng kinh tế và tính năng sinh sản gồm có: màu lông, màu da, ngoại hình, màu sắc vỏ trứng, nhóm máu, protein trong máu là đặc trưng đặc tính quan trọng của loài, có thể làm căn cứ di truyền nghiên cứ nguồn gốc đàn gia súc, phân loại hệ thống và cải tạo giống. Tính trạng chất lượng có hình thể, màu lông, hình tai, nhóm máu, làm chết và dị tật, những tính trạng này là đặc trưng của giống và dòng (strain).

    Đổi màu

    Sự thay đổi nhanh chóng của màu da, bộ lông là một trong những điều tuyệt kỳ lạ có thể thấy ở vương quốc động vật, nhiều loài động vật tự biến đổi màu sắc và hình dạng của mình trông giống y như một chiếc lá, một khúc cây hay một khối rong biển để ngụy trang và trốn tránh kẻ thù.Ngụy trang không chỉ là sự thay đổi màu sắc tạm thời của những con vật khi muốn lẩn trốn hiểm nguy mà chính là sự biến đổi lâu dài về hệ gen của chúng trong quá trình đấu tranh sinh tồn để sao cho phù hợp với môi trường sống xung quanh. nhỏ|phải|Một con cá bơn đang ngụy trang nhỏ|phải|Một con tắc kè hoa biến màu thành sắc xanh lá nhỏ|phải|Một con [[bạch tuộc đổi màu]]

  • Những con ếch cây Thái Bình Dương có đa dạng về màu sắc của da. Chúng tìm thấy với các màu sắc khác nhau như nâu, đỏ và xanh lá cây. Ngoài ra, ếc cây thái bình dương cũng có thể thay đổi màu sắc của chúng theo môi trường xung quanh. Sự thay đổi của màu sắc này sẽ xảy ra trong một vài phút. Bằng cách nào đó, nó trở nên khó khăn để phát hiện những con ếch cây Thái Bình Dương bởi những kẻ săn mồi như rắn và chim.
  • Trong suốt mùa đông, những con cáo Bắc Cực có bộ lông trắng. Nó cho phép chúng ngụy trang với tuyết của lãnh nguyên Bắc Cực. Vì vậy mà các loài cáo Bắc cực có thể bắt các con mồi như thỏ rừng và các loài cá. Trong mùa hè năm sau, màu sắc của chúng sẽ thay đổi sang màu nâu. Nó giúp ngụy trang tuyệt vời khi ẩn nấp trong các tảng đá rêu Bắc cực thời điểm đó.
  • Những con bọ rùa vàng thường được gọi là bọ vàng vì màu vàng nổi bật. Khả năng thay đổi màu sắc nhanh chóng là một trong những điều đặc biệt của bọ rùa vàng trong gia đình bọ cánh cứng. Khi bị đe dọa, những con rùa bọ vàng sẽ thay đổi màu sắc rực rỡ. Sự thay đổi màu sắc này sẽ xảy ra 2 hoặc 3 phút. Khi bọ rùa vàng thay đổi màu sắc, chúng sẽ giống như một con côn trùng độc. Chúng cũng sẽ gây ngạc nhiên cho các động vật ăn thịt. Do đó, bọ rùa vàng có thể thoát thân bởi sự thay đổi màu sắc nhanh chóng.
  • Bạch tuộc biến hình là một loài động vật thủy sinh thông minh có khả năng bắt chước các động vật biển khác nhau bao gồm cả cá, sư tử, rắn biển, cá đuối gai độc và sứa. Ngoài chuyển động cơ thể, chúng cũng có thể biến thành màu sắc của động vật chúng chọn để bắt chước. Chúng cũng sử dụng thay đổi màu sắc để pha trộn với môi trường xung quanh.
  • Mực nang có hàng triệu tế bào sắc tố, mực nang có thể dễ dàng thay đổi màu sắc phù hợp với môi trường xung quanh. Như vậy, mực nang có thể hoàn toàn vô hình dưới đáy biển. Nó cũng giúp chúng không bị phát hiện bởi những kẻ săn mồi lớn. Mực nang sử dụng kỹ thuật thay đổi màu trong quá trình giao phối.
  • Cá bơn có thể dễ dàng thay đổi màu sắc cơ thể phụ thuộc vào môi trường sống, thường được tìm thấy ở dạng màu nâu với những mảng khác nhau. Nó sẽ thay đổi khi họ di chuyển đến một môi trường sống mới, các con cá bơn có thể pha trộn với bất kỳ môi trường sống mới chỉ trong 5-8 giây. Khi một con cá bơn ở trong một môi trường sống mới, cơ thể của chúng sẽ sử dụng ánh sáng nhận được thông qua võng mạc để phát hiện màu sắc của bề mặt. Sau đó, cơ thể sẽ giải phóng các chất màu khác nhau để các tế bào trở thành màu sắc của môi trường sống mới.
  • Sự thay đổi nhanh chóng của màu da là đặc biệt nổi bật nhất của tắc kè hoa, tắc kè hoa hoàn toàn có thể pha trộn với môi trường xung quanh bằng cách ngụy trang màu sắc của chúng. Việc thay đổi màu da của tắc kè hoa lại gây ra bởi sự thay đổi tâm trạng, nhiệt độ và cường độ của ánh sáng xung quanh. Một số loài tắc kè hoa có thể biến thành bất kỳ màu sắc nào. : Tắc kè hoa có tế bào mang sắc tố đặc biệt dưới da. Sự thay đổi tâm trạng, nhiệt độ hay ánh sáng gửi một thông điệp từ não đến các tế bào này. Nó là kết quả trong việc thay đổi màu sắc của da. Sự thay đổi này sẽ xảy ra chỉ trong vòng 16-20 giây. Tắc kè hoa sử dụng kỹ thuật này để giao tiếp với loài tắc kè khác. Nó cũng cho phép chúng hoàn toàn hòa nhập với môi trường xung quanh.

Đột biến gen hoặc căn bệnh nào đó có thể khiến động vật có đặc điểm hay màu sắc khác thường. Piebaldism là căn bệnh hiếm gặp ở động vật, ảnh hưởng đến khả năng sản xuất các sắc tố melanin tạo nên màu sắc của da. Hiện tượng này khiến ra những con trăn có màu sắc rất lạ do các nhóm sắc tố màu trắng trộn lẫn với màu da bình thường. Sự biến đổi gen đôi khi xảy ra ở tôm hùm, tạo ra một loại protein với lượng quá mức, khiến chúng có lớp vỏ ngoài màu xanh dương rực rỡ.

Báo dâu tây có điểm đặc trưng là các đốm màu hoe, do chúng có dư thừa sắc tố đỏ. Châu chấu màu hồng Katydid với thân của chúng không có màu xanh lá cây mà có màu hồng. Tuy nhiên điều này khiến chúng nổi bật, dễ bị phát hiện. Một vài cá thể chim cánh cụt có lông hoàn toàn màu đen do chúng mắc bệnh melanism (ngược lại của bạch tạng). Thay vì thiếu sắc tố da, những con vật này chứa các đốm đen bao phủ khắp cơ thể. Ngựa vằn có thể có sọc vàng do bệnh amelanism, tương tự như bạch tạng. Ở động vật có vú, các triệu chứng của amelanism và bạch tạng hầu như không thể phân biệt.

Động vật biển

nhỏ|phải|Một con [[rùa biển (Chelonia mydas)]] nhỏ|phải|Một loài động vật biển [[Condylactis gigantea]] nhỏ|phải|Một con [[sao biển]] nhỏ|phải|Một con [[tôm biển đang cộng sinh]] nhỏ|phải|Một con [[sứa đang phát sáng]] Động vật biển nói chung có màu sắc đa dạng, về cấu trúc sinh học, Carotenoid chính là nhóm sắc tố phổ biến tạo thành các phức với protein mà được biết là carotenoprotein. Những phức này rất phổ biến ở các loài động vật biển. Phức carotenoprotein chịu trách nhiệm cho các màu sắc đa dạng (đỏ, tím, xanh lam, xanh lục, vàng, cam) ở những loài động vật có xương sống dưới biển khi ghép đôi hay ngụy trang. Có hai loại carotenoprotein chính: Loại A và loại B.

  • Loại A: có các carotenoid (chromogen) mà liên kết với các protein đơn giản (stoichiometrically), loại A thường được tìm thấy ở bề mặt (vỏ và da) của các động vật có xương sống dưới biển
  • Loại B: có các carotenoid mà liên kết với lipoprotein và thường ít ổn định hơn, loại B thường ở trong trứng, buồng trứng, và máu.

Ở loài tôm hùm, có nhiều phức astaxanthin-protein tồn tại. Đầu tiên là crustacyanin (dài tối đa 632 nm), sắc tố màu xanh lam xám đen được tìm thấy ở phần vỏ mai của tôm hùm. Thứ hai là crustochrin (dài tối đa 409 nm), sắc tố màu vàng được tìm thấy ở lớp ngoài cùng của phần vỏ mai tôm hùm. Cuối cùng, lipoglycoprotein và ovoverdin tạo thành một sắc tố màu xanh lục sáng mà thường hiện diện ở lớp ngoài cùng của phần vỏ mai và trứng tôm hùm.

Tetrapyrrole có vai trò trong sự thay đổi màu ở các mô của sinh vật biển. Melanin là một nhóm các hợp chất mà có vai trò là sắc tố với nhiều cấu trúc khác nhau, chịu trách nhiệm cho các sắc tố đỏ hay vàng thẫm ở động vật biển. Nó được tạo ra khi mà amino acid tyrosine được chuyển hóa, thường hay được tìm thấy ở da, mắt. Vài loại melanin khác nhau bao gồm melanoprotein (melanin nâu sẫm được trữ ở nồng độ cao trong túi mực của loài mực nang Sepia officianalis), echinoidea (được tìm thấy ở các loài Clypeasteroida (Sand dollar) là những loài động vật da gai hình tròn phẳng, và ở tim của nhím biển), holothuroidea (được tìm thấy ở hải sâm), và ophiuroidea (được tìm thấy ở sao biển đuôi rắn (Ophiuroidea/brittle star-snake star).

Sự phát quang sinh học là nguồn sáng duy nhất dưới biển sâu, động vật biển tạo ra năng lượng ánh sáng nhìn thấy được gọi là sự phát quang sinh học, một dạng của sự phát quang bằng phản ứng hóa học. Đây là phản ứng mà năng lượng hóa học được chuyển hóa thành năng lượng ánh sáng. Có khoảng 90% động vật dưới biển sâu tạo ra một phần ánh sáng sinh học. Xem như là một lượng lớn quang phổ ánh sáng nhìn thấy được bị hấp thụ trước khi đến được vùng biển sâu, thì hầu hết ánh sáng phát ra từ động vật dưới biển sâu là màu xanh lam và xanh lục. Tuy nhiên, vài loài có thể phát ra ánh sáng màu đỏ và hồng ngoại, và kể cả một loài được cho là có thể phát ra ánh sáng sinh học màu vàng.

Cơ quan chịu trách nhiệm cho sự phát quang sinh học được biết là thể phát quang (photophore). Nó chỉ hiện diện trong mực ống và cá, và được sử dụng để phát sáng phần bề mặt ở bụng, mà sẽ giúp giấu đi bóng của chúng khỏi các loài săn mồi. Việc sử dụng thể phát quang ở động vật biển thì khác nhau, giống như dùng thấu kính để kiểm soát cường độ màu, cường độ ánh sáng phát ra. Mực ống có cả thể phát quang và tế bào sắc tố nhằm kiểm soát những cường độ này. Một thứ khác chịu trách nhiệm cho sự phát ra ánh sáng sinh học, mà thể hiện rõ ở sự lóe sáng của sứa, bắt đầu với luciferin (là photogen) và kết thúc với thể phát sáng (là photagogikon). Luciferin, luciferase, muối và oxy phản ứng, kết hợp lại và tạo thành một đơn vị duy nhất gọi là photo-protein, mà có thể tạo ra ánh sáng khi phản ứng với phân tử khác chẳng hạn như Ca+.

Sứa sử dụng phương pháp này như một cơ chế tự vệ của động vật khi một động vật săn mồi nhỏ cố gắng nuốt chửng sứa, nó sẽ lóe sáng lên, từ đó sẽ thu hút một động vật săng mồi lớn hơn đến và đuổi dộng vật săn mồi nhỏ đi. Sứa còn sử dụng cách này để tìm bạn tình. Ở các loài san hô trên đá ngầm và hải quỳ thì chúng phát sáng kiểu huỳnh quang, ánh sáng được chúng hấp thụ ở một bước sóng, rồi phát ra lại ở bước sóng khác. Những sắc tố này có thể đóng vai trò là một chất chống nắng tự nhiên, hỗ trợ trong quang hợp, cảnh báo, thu hút đồng loại, hay làm rối loạn động vật săn mồi.

Người ta biết là động vật sử dụng các mảng màu của chúng để xua đi thú săn mồi, tuy nhiên, ta cũng quan sát được một loại sắc tố từ bọt biển có thể bắt chước được một loại hóa chất mà có liên quan đến sự lột xác ở của một loài giáp xác. Loài này chuyên ăn bọt biển. Vì thế mỗi khi mà loài giáp xác này ăn bọt biển, các sắc tố hóa học ngăn cản sự lột xác, và cuối cùng là loài giáp xác này chết.

Tín hiệu xua đuổi là sự đổi màu cảnh báo đến các loài săn mồi tiềm năng nhằm xua chúng đi. Với loài sên biển, chúng hấp thu các chất độc và khó chịu thải ra từ bọt biển và trữ lại trong tuyến hôi của chúng (nằm ở xung quanh lớp vỏ bì). Các động vật ăn thịt sên biển đã học cách tránh những loài sên biển nhất định này dựa trên các mảng màu sặc sỡ của chúng. Những loài bị ăn thịt cũng tự bảo vệ bằng các chất độc từ các hợp chất hữu cơ và vô cơ đa dạng.

Sự đổi màu ở động vật có xương sống biến đổi tùy theo độ sâu, nhiệt độ nước, nguồn thức ăn, dòng hải lưu, vị trí địa lý, sự tiếp xúc ánh sáng, và sự lắng đọng trầm tích. Ví dụ, lượng carotenoid ở một loài hải quỳ nhất định giảm đi khi lặn sâu xuống đại dương. Do đó, các sinh vật biển cư trú ở vùng nước sâu thì có màu tối hơn là các loài ở vùng được chiếu sáng tốt hơn, do sự giảm sắc tố. Ở các đàn Trididemnum solidum sống cộng sinh kiểu hải tiêu–tảo lam, màu của chúng khác nhau tùy vào chế độ ánh sáng ở nơi mà chúng sống.

Những đàn mà tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời thường bị vôi hóa mạnh, dày hơn, và có màu trắng. Ngược lại, ở những đàn mà sống trong vùng có bóng râm thì có nhiều sắc tố tảo đỏ (phycoerythin – hấp thụ màu xanh) hơn so với sắc tố tảo lam (phycocyanin – hấp thụ màu đỏ), mỏng hơn, và có màu tím. Màu tím ở những đàn trong bóng râm chủ yếu là do sắc tố màu xanh (phycobilin) của tảo, có nghĩa là sự biến đổi sự tiếp xúc ánh sáng sẽ thay đổi màu ở những đàn sinh vật này.

Những sắc tố ở động vật biển được sử dụng cho các mục đích khác nhau, hơn là chỉ để tự vệ. Một số sắc tố có thể chống lại tia UV. Ở loài sên biển Nembrotha kubaryana, sắc tố tetrapyrrole số 13 được cho là một chất kháng khuẩn tiềm năng. Cũng ở loài sinh vật này, chất tamjamines A, B, C, E và F đã cho thấy tính kháng khuẩn, kháng khối u, và hoạt tính suy giảm miễn dịch. Các sesquiterpenoit được nhận diện bởi màu xanh và tím của chúng, nhưng cũng được ghi nhận là có nhiều hoạt tính sinh học đa dạng chẳng hạn như diệt khuẩn, kiểm soát phản ứng miễn dịch (immunoregulation), kháng khuẩn, và ngăn cản sự phân bào cũng như hoạt tính ngăn cản sự phân bào ở trứng cầu gai và hải tiêu đã thụ tinh.

Động vật chân đầu

thumb|Một con [[Bộ Mực nang|mực nang con đang sử dụng khả năng thích nghi với bối cảnh môi trường xung quanh]] Các loài động vật chân đầu Coleoid có cơ quan đa bào phức tạp mà chúng dùng để thay đổi màu sắc nhanh chóng. Đây là điều đáng chú ý nhất ở các loài mực nang, mực ống, bạch tuộc có màu sắc rực rỡ. Mỗi khối tế bào sắc tố thống nhất bao gồm một tế bào đơn và nhiều cơ, dây thần kinh, tế bào thần kinh đệm, và các tế bào vỏ Bên trong tế bào sắc tố, các hạt sắc tố được đặt trong một túi đàn hồi, được gọi là cytoelastic sacculus.

Để thay đổi màu sắc, con vật làm biến dạng hình dáng hoặc kích cỡ của túi bởi sự co cơ bắp, qua đó thay đổi độ mờ, tính phản xạ, hoặc độ đục của túi. Điều này khác với cơ chế sử dụng của các loại cá, động vật lưỡng cư và bò sát ở sự thay đổi hình dạng của túi chứ không phải là sự chuyển dời sắc tố ở các túi trong tế bào. Tuy nhiên, hiệu ứng tương tự vẫn xảy ra. Bạch tuộc có thể vận dụng các tế bào sắc tố để hiển thị màu sắc theo từng đợt một cách phức tạp, kết quả là chúng thay đổi rất nhanh những cách phối màu đa dạng.

Các dây thần kinh điều khiển các tế bào sắc tố để được cho là có vị trí trong não theo một mô hình tương tự như các tế bào sắc tố để mà chúng kiểm soát. Điều này có nghĩa các phương thức của sự thay đổi màu sắc phù hợp với phương thức của sự kích hoạt tế bào thần kinh. Do đó có thể giải thích tại sao, khi mà các tế bào thần kinh được kích hoạt lần lượt thì sự thay đổi màu sắc xảy ra theo đợt. Giống như tắc kè hoa, động vật chân đầu sử dụng sự thay đổi màu sắc sinh lý để tương tác với môi trường. Chúng cũng nằm trong số những sinh vật có kỹ năng thích nghi với bối cảnh hay nhất, có khả năng thay đổi sao cho phù hợp với cả màu sắc và kết cấu của môi trường xung quanh chúng với độ chính xác đáng kể.

Ở gia súc

Màu lông bò

nhỏ|phải|Một con bò lông [[nâu, chúng là màu phổ biến (màu da bò)]] Màu lông và ngoại hình bò là đặc trưng loài, có mối liên hệ nội tại mật thiết với phân loại bò, xác định tuổi và tác dụng kinh tế, cung cấp căn cứ quan trọng cho gây giống, chăn nuôi và khai thác sử dụng các giống bò. Màu lông bò là tiêu chí quan trọng trong đặc trưng loài. như bò Hà Lan (Holstein) lông màu đen lang trắng, bò Jersey lông màu vàng nâu, bò Hereford và bò Simmental có mặt trắng. Màu lông bò thường chia thành sáu loại: trắng, đỏ, đen, nâu, xám, sọc trắng và các biến thể.

Cơ chế di truyền màu trắng gồm ba loại:

  • Gen trắng trội WW: là lông trắng, ww là lông đỏ, Ww là màu cát (cát đỏ), thường thấy ở bò sừng ngắn Anh, Ww nếu mang gen màu đen B sẽ là màu lam xám hoặc gọi là lam cát (trên thực tế nso là màu trộn giữa đen và trắng), dưới ánh mặt trời sẽ nhìn thành màu lam xám.
  • Gen bạch hóa lặn cc: da, lông, mắt đều không có sắc tố như bò Hà Lan và Bò Hereford.
  • Toàn thân màu trắng chỉ có phần tai là đen: thường thấy ở bò vùng cao Thụy Điển, đây thực tế là hình thức phổ biến nhấy của bò sọc trắng. Ở bò sữa, bò thịt và lấy sữa, bò thịt, lớp lông phần lớn là có các sọc trắng ở mức độ khác nhau, ở bò sữa trắng đốm đen thường gặp, toàn bộ màu sắc được quyết định bở gen S, màu điểm được quyết định bởi gen ss, kích thước điểm màu chịu tác động của gen sửa chữa (repair), hình thức khác là lông hai bên cơ thể có màu, đường lưng và đường bụng (gồm cả phần trước ngực) có màu trắng, chân sau có màu trắng như bò Hereford, màu sắc do gen trội SG quyết định, còn có loài màu lông trắng ở mặt là do gen trội SH quy định; S, SG, SH, s là các alen, giữa S, SG, SH không trội hoàn toàn, nhưng đều trội át s.

Thông thường, ở màu lông bò, màu đen (B) trội át các màu khác; màu đỏ (r) lặn át các màu khác. Màu sọc trắng thông thường (s) lặn át với màu thuần, nhưng lại trội át các màu trắng dưới đây: màu trắng ở mặt bò Hereford, Bò Simmental (SH), màu trắng ở vùng chân và bụng dưới của bò đen đốm trắng, màu trắng ở vùng thắt lưng Bò Belted Galloway. Các đốm đen nhỏ trên da trội (Ps), màu nâu đen (da hổ) lặn (br); màu chân sau trội át màu trắng chân sau (Pe), màu hồng phấn ở đuôi mắt và mũi trội (Re). Màu lông bò cũng liên quan đến hơn 1 cặp gen, tính trội lặn của nó cũng phức tạp. Màu đen (B) ở bò Angus trội át màu đỏ (b), còn loài bò sừng ngắn lại có màu đen đỏ (R) đều trội át màu trắng (W), dị hợp tử lf bò đỏ đốm trắng, chúng sẽ sinh ra thế hệ sau là bò lông đỏ (lông hung) và bò lông trắng.

Màu lông ngựa

nhỏ|phải|Một con ngựa lông đen nhỏ|phải|Một con ngựa vằn châu Phi Các giống ngựa có nhiều màu sắc do đó có những tên gọi khác để mô tả nhau tùy theo sắc lông. Hiện có rất nhiều màu kết hợp thành nhiều màu sắc khác nhau cho từng cá thể ngựa. Ngựa là loài có đặc tính di truyền màu lông, cho nên phải đặt ra một số từ để mô tả chúng. Ở ngựa có các màu lông cơ bản là hạt dẻ, hồng và đen. Sự dịch chuyển màu của ba màu cơ bản là do hiệu quả tương tác của các alen cùng xuất hiện. Toàn bộ màu sắc phổ biến nhất được công nhận là nâu đỏ, đen, nâu, hạt dẻ (hồng), màu nâu xám, kem, Palomino (vàng và trắng), hoặc màu xám. Palomino là danh từ chung để chỉ loại ngựa có màu sắc trắng bạch kim óng ánh (gọi là ngựa kim, một dạng màu vàng trắng). Có nhiều con màu sắc có nhiều khoang (thường được gọi là đốm), sắc trắng và hồng (còn được gọi là ngựa sơn), loang nâu được phát hiện ở ngựa (ngựa Appaloosa).

Theo cách phân chia của phương Tây: Màu sắc con ngựa thường được xác định bởi các màu sau như: Màu Bay hay màu be (màu nâu đỏ sáng đến màu nâu tối), màu nâu thường (Brown), màu hạt dẻ/Chestnut (màu đỏ không có màu đen), màu gan/Liver (màu nâu rất tối), Sorrel (màu đỏ, giống màu sắc của một đồng xu mới), màu xám (lông đen và trắng hoặc màu trắng hỗn hợp), màu muối tiêu (Salt và Pepper) hoặc màu xám thép/"steel" gray (lông trắng và đen đều trộn lẫn trên hầu hết trên cơ thể), Dapple gray (màu tối đậm xen với màu xám nhẹ), Fleabitten gray (màu đỏ lấm tấm khắp lông), đốm hồng/Rose gray (màu xám với một màu hơi đỏ hoặc màu hồng nhạt pha với nhau).

Theo cách phân chia của phương Đông: Ngựa mà tuyền màu trắng gọi là ngựa bạch (lông toàn màu trắng), lông trắng có chen một ít đen gọi là ngựạ kim (lông màu trắng mốc), lông đen tuyền gọi là ngựa ô, đen pha tí chút đỏ gọi là ngựa khứu, đen pha nhiều đỏ gọi là ngựa hởi, đen pha đỏ tươi là ngựa vang, lông màu đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, trắng đen pha chút đỏ là ngựa đạm, lông tím đỏ pha đen thì gọi là ngựa tía, trắng sọc đen là ngựa vằn, ngoài ra còn có ngựa xám, ngựa đỏ, ngựa bích.

Màu sắc lông ngựa được ghi lại trong sách Trung Quốc có 20 loại ngựa trên cơ sở sắc màu của chúng. Ở Việt Nam một số quan niệm phân định 14 loại sắc lông ngựa gồm: Ngựa Hạc; Ngựa Hởi; Ngựa Kim; Ngựa Ô; Ngựa Hồng; Ngựa Tía; Ngựa Ðạm; Ngựa Khứu; Ngựa Chuy; Ngựa Séo; Ngựa Bích; Ngựa Qua; Ngựa Phiếu; Ngựa Thông.

Ở ngựa có bốn màu sắc chính:

  • Ngựa đen (ngựa ô): đen đậm, đen nhạt, đen loang (ô Chuy).
  • Ngựa hồng (hồng mã): tía, vàng đậm nâu, nâu nhạt, hạt dẻ, sôcôla, sôcôla nhạt.
  • Ngựa xám: xám đậm, xám nhạt, xám trắng.
  • Ngựa bạch: trắng tuyền hoặc trắng ánh kim, màu trắng tuyền (WW) là trội so với các màu tuyền khác. Vì vậy khi con vật có mảng trắng trên nền đen, nền nâu thì màu trắng xem ra có vẻ lấn át nên các loại ngựa ấy được gọi là trắng xám, trắng hồng, chấm trắng, lang trắng có thể không rộng lắm trên cơ thể nhưng cũng thường thấy ở mũi, mí mắt, phần dưới tứ chi, bờm, đuôi.

Màu lông cơ bản có ba loại:

  • Màu đen: đặc trưng của nó là thân đen và đuôi đen, phần dưới tứ chi cũng đều là màu đen, ngọn lông có màu rỉ sét, dưới ánh mặt trời nó giống màu đỏ đen.
  • Lưu mao: Là những giống ngựa có đặc trưng của nó là đuôi và phần dưới tứ chi có màu đen, lông từ màu vàng chuyển sang đỏ, màu nâu đen thay đổi, ngựa màu nâu đen gọi là ngựa Hắc Lưu, có khi mức độ đen giống màu đen ở đuôi, nhưng màu sắc lông ở quanh miệng, mũi, mắt, đặc biệt là màu ở đường giữa chân sau có màu lông nhạt hơn, vẫn có thể phân biệt được với màu đen.
  • Màu hạt dẻ (chesnut): đặc trưng là lông có màu từ màu vàng chuyển sang đỏ nâu, đuôi và phần dưới tứ chi có màu sắc giống như vậy, nhưng nhạt hơn. Ngoài ra còn có hai màu lông thường gặp: màu cát, màu trắng.
  • Màu cát có hai loại: một loại là màu lông này duy trì suốt đời. Một loại là màu lông cát nhưng khi già đi sẽ chuyển thành màu trắng, càng già số lượng lông trắng càng nhiều lên, đến khi 12 tuổi, có thể toàn thân sẽ chuyển thành màu trắng.
  • Lông trắng có hai loại, một là trong suốt, lông và da đều không có sắc tố, di truyền lặn, một loại khác là mắt và miệng có sắc tố, biểu hiện trắng trội, những chỗ khác đều không có sắc tố. Màu trắng cũng thay đổi theo tuổi, thường thấy ở ngựa trung niên, hóa ra xám khi già hơn. Khi nhỏ, ngựa có lông xám có màu đậm hơn, khi lớn có màu sáng hơn, trắng hơn, nhưng vẫn giữ màu đen ở chân lông.
  • Ngựa bạch cũng có ba loại bạch hồng, bạch kim và bạch nhạn. Điểm cốt yếu để phân biệt giữa ngựa bạch và ngựa thường đó là đôi mắt và móng ngựa. Đôi mắt ngựa bạch thuần chủng trông như hòn bi ve, móng ngựa bạch cũng phủ một màu trắng và toàn thân không có một chấm đen Toàn thân có màu trắng, mắt hồng và trong như viên bi ve, nếu đang đi ngoài đường vào chính Ngọ (12 giờ) nó sẽ khựng lại một lúc.
  • Ngựa hoang duy nhất còn tồn tại ngày nay là ngựa hoang Mông Cổ hay còn gọi là ngựa hoang Przewalski (nay thường xuất hiện ở vùng Tân Cương Trung Quốc hoặc vùng Trung Á, Tây Á, Liên Xô Cũ), lông mao loài ngựa này có màu đen và dài.

Loài ngựa hầu hết đều có cùng một màu sắc trong suốt cuộc đời, chỉ có một số ít thay đổi sau nhiều năm phát triển tạo ra một màu lông khác với lúc nguyên thủy sinh ra. Hầu hết các mảng màu trắng lúc mới sinh, và màu da cơ bản của một con ngựa sẽ không thay đổi. Theo cơ bản của di truyền về màu lông ngựa và với xét nghiệm trong DNA để xác định khả năng một con ngựa khi sinh ra sẽ có một màu nhất định, cho nên các nhà nghiên cứu lấy màu lông ngựa để phân biệt giống.

Tuy nhiên sau nhiều năm phát triển lại có thêm một số màu sắc khác. Đó chính là vấn đề hiện nay vẫn còn thảo luận, nghiên cứu, thậm chí vẫn còn tiếp tục tranh cãi về một số chi tiết, đặc biệt là những con ngựa với mô hình đốm, màu sắc như "sooty" hay "flaxen. Về di truyền, thì tất cả những con ngựa bắt đầu sinh ra với màu hạt dẻ mà các nhà di truyền học gọi là "màu đỏ", lý do vì sự vắng mặt của gen ("e"), hoặc đen của gen ("E") hoa. Vì vậy, màu đỏ gọi là gen ("ee") và đen ("EE" hoặc "Ee") là hai màu cơ bản. Trong phạm vi rộng lớn của tất cả các màu lông khác được tạo ra bởi hành động bổ sung gen.

Con ngựa trắng khi sinh ra không phải là màu trắng. Lúc đầu với mái tóc đen sau đó mất dần đổi sang màu trắng, thông thường tóc ngựa chuyển sang màu trắng tinh khiết giữa khoảng 6-8 tuổi. Con ngựa trắng thường được gọi là ngựa màu xám bởi vì màu sắc sẽ biến đổi theo một quá trình lão hóa. Màu da bình thường của con ngựa là màu đen, tóc trắng cho nên chúng ta nhìn nó giống như là màu xám. Nhiều con ngựa màu xám bị đổi màu da, một số lốm đốm và một số có vệt màu đỏ gọi là "blood marks" tức là "dấu máu.".

Một số cá thể ngựa có màu lông đặc biệt khác được lưu truyền qua tiểu thuyết, sử sách như màu Xích hay còn gọi là sắc lông màu đỏ (nổi tiếng nhất là con ngựa Xích Thố). Màu Ô, màu Ly là ngựa có sắc lông màu đen (chẳng hạn như con ngựa Ô Truy của Hạng Võ), ngựa Phiêu là ngựa có sắc lông xanh trắng (Phiêu Kỵ tướng quân). Lạc là ngựa vằn (Lạc mã thiên lý vương). Tinh là ngựa hồng (Song vĩ tinh còn gọi là Song vĩ hồng là con ngựa hồng hai đuôi của Lý Thường Kiệt).

Ở ngựa có các màu lông cơ bản là hạt dẻ, hồng và đen. Sự dịch chuyển màu của ba màu cơ bản là do hiệu quả tương tác của các alen cùng xuất hiện. Có 13 alleles khác nhau chi phối màu sắc và sọc của lông ngựa. Màu căn bản "đỏ" (chestnut) hay còn gọi là màu hồng và "đen" (còn gọi là ô, đạm, khứu) chi phối bởi Melanocortin 1 receptor, theo đó màu "đỏ" mang liệt tính, và "đen" ưu tính. Ngoài ra, còn có nhiều gen khác làm giảm bớt ưu tính của "đen", nên tạo ra một dải màu từ đen đậm (ô) đến xám. Đối với ngựa một số đột biến khác nhau quy định cho những màu lông chính đã được phân lập. Màu hạt dẻ, màu hồng và đen được xác định bởi bốn alen, hai trong số đó thuộc locut Extension (E), hai alen còn lại thuộc locut Agouti (A).

Màu hạt dẻ và đen là kiểu di truyền lặn (Ee. Ee và Aa. Aa), màu hạt dẻ lấn át màu đen. Do đó màu đen chỉ biểu hiện khi kiểu gen Extension khác với kiểu gen Ee. Ee. Trong gen MC1R, đầu tiên đã phân lập được alen e quy định màu hạt dẻ của ngựa là do đột biến nucleotide đơn, phân lập alen thứ hai là ea quy định màu hạt dẻ. Trong phân tích gen ASIP, thông báo đột biến mất 11 bp được phát hiện ở dạng đồng hợp tử hoàn toàn có liên quan tới ngựa mang kiểu gen lặn màu lông đen. Màu hồng là kết quả của tổ hợp Aa ở locut A và các alen Ee/EE ở locut E.

Các gen ảnh hưởng đến màu lông và da của động vật có vú có thể chia làm hai nhóm chính: Một nhóm tác động về tổng hợp các sắc tố, một nhóm tác động vào các tế bào sinh ra sắc tố. gen quy định màu trắng là gen trội W, khi tổ hợp gen là Ww ngựa sẽ có màu lông trắng toàn thân, da hồng, mắt nâu hoặc xanh. Nếu ngựa cái trắng này lai với ngựa đực màu sẽ cho đời con 50% màu trắng (Ww), 25% ngựa màu (ww) và 25% (WW) sẽ chết thai. Tổ hợp gen gây chết (WW) đã được phát hiện từ năm 1953 và đã được khẳng định năm 1969.

Các gen kiểm soát màu lông ngựa, các alen hay marker chức năng mới được phát hiện ở mức phân tử DNA. Ở ngựa sự có mặt của 2 gen trội A và B cùng kiểu gen quy định lông xám, gen A có khả năng đình chỉ hoạt động của gen B nên gen B cho lông màu đen khi không đứng cùng với gen A trong kiểu gen. Ngựa mang 2 cặp gen đồng hợp lặn cho kiểu hình lông hung. Các gen phân li độc lập trong quá trình di truyền.Gen A có khả năng đình chỉ hoạt động của gen B, gen B chỉ biểu hện kiểu hình khi không đứng cùng với gen A trong cùng 1 kiểu gen. Gen A át chế hoạt động của gen trội B. Tính trạng màu lông ngựa là kết quả của hiện tượng tương tác át chế.

Việc phân tích kiểu gen liên quan tới màu lông ngựa nhằm phát hiện được mối liên quan của kiểu gen với một số màu sắc cơ bản của ngựa, với sự phát triển của các kỹ thuật trong nghiên cứu về gen, có thể xác định được các kiểu gen liên quan tới màu lông ở ngựa. Số lượng alen của gen KIT của ngựa được mô tả đến mức độ phân tử là nhiều hơn bất kỳ các gen nào khác ở các loài vật nuôi khác. Việc sử dụng các kỹ thuật di truyền phân tử như giải trình tự gen, PCR-RFLP đã xác định được các kiểu gen quy định các màu sắc lông khác nhau ở ngựa.

Ở ngựa vằn, các tế bào melanocyte quyết định màu sắc của chúng, các tế bào sắc tố này trong giai đoạn phôi thai của ngựa vằn, màu đen của ngựa vằn là kết quả của kích hoạt sắc tố bởi tế bào melanocyte, trong khi đó màu trắng là kết quả của sự ức chế sắc tố, màu đen chính là màu sắc chính của loài ngựa vằn, còn các sọc trắng là kết quả của sự ức chế các tế bào melanocyte khiến cho chúng không tạo ra được màu đen và do đó có các sọc trắng. Trong suốt quá trình tiến hóa, để tránh cái nắng oi bức của châu Phi (sọc vằn có thể tạo ra các dòng đối lưu nhiệt trong vùng không khí xung quanh cơ thể con ngựa, không khí chuyển động nhanh hơn trên vùng sọc màu đen, hấp thụ ánh sáng chậm hơn trên sọc màu trắng, và tạo ra luồng không khí làm mát), cũng như để ngụy trang, đánh lạc hướng kẻ thù (làm lóa mắt những kẻ thù săn mồi, tạo ra ra ảo giác che giấu cử động của một con ngựa vằn và còn giúp chúng xua đuổi côn trùng, ruồi ngựa), từ loài có một màu mà ngựa vằn đã tiến hóa để có thêm các sọc đen trắng.

Màu lông dê

nhỏ|phải|Màu lông của một con dê nhà ở châu Phi Dê cũng là giống vật nuôi có nhiều màu sắc lông. Lông tơ, lông, da, lông mao là tính trạng kinh tế quan trọng ở dê, cũng là một trong những tiêu chí nhận biết cá thể, di truyền chủng loài. Kiểu hình biểu hiện của màu lông dê chủ yếu có màu trắng, màu đen, màu xám (xám đậm đến xám nhạt), màu nâu, biến dị màu lông chủ yếu ở dê là do số ít gen quy định, tuân theo định luật Melden. Nghiên cứu trên đàn dê châu Âu, Tây Á và Đông Nam Á cho thấy, biến dị màu lông dê chủ yếu được quy định 4 quỹ tích gen: quỹ tích hoang (A), nhân tử màu lông pha loãng (D), trắng thượng vị (I), đốm trắng (S).

Di truyền màu lông dê cũng phức tạp, thường lấy màu trắng làm cơ sở, lấy các cá thể màu khác giao phối với cá thể màu trắng. Lông có màu ở dê do nhiều alen trên nhiều điểm gen điều khiển, quy luật di truyền của nó phù hợp với định luật Melden, nhưng màu lông dê lại chịu ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, ở các giai đoạn khác nhau có sự thay đổi khác nhau. Dê non thuộc giống dê Karakul mới sinh ra có màu lông đen, lớn lên chút màu lông trở thành màu nâu đen hoặc màu nâu. Trong công tác gây giống loài dê, mục đích chọn lựa màu lông là chọn màu đảm bảo giá trị kinh tế, loại bỏ các màu lông ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của sản phẩm. Hiện nay, đã sử dụng gen màu lông khác nhau để cải tạo giống dê quý.

Màu lông cừu

nhỏ|phải|Một con cừu lông trắng điển hình Cừu cũng là giống vật nuôi được chọn lọc đa sắc ở các cá thể cừu, nhìn chung màu trắng là màu truyền thống nhưng thỉnh thoảng cũng có những cá thể cừu đen chen vào. Tính trạng chất lượng cừu về mặt di truyền được quy định bởi một hoặc vài cặp gen, biểu hiện của nó hoàn toàn giống với nguyên lý di truyền Melden. Nắm rõ tính quy luật của di truyền tính trạng chất lượng, có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc dự đoán kết quả tai giữa các dòng và xây dựng phương án gây giống cừu.

Màu lông cừu thường có 16 kiểu điển hình là: trắng, đen, nâu, xám, nhiều màu và màu loang lổ. Màu lông cừu (len cừu) thường có hai cấu tạo: từ các sợi lông màu khác nhau, sợi màu đen và sợi màu trắng với tỉ lệ khác nhau tạo thành màu xám với mức độ khác nhau, hai là cấu tạo lông ở các vùng màu khác nhau, như màu vàng nhạt ở đầu hoặc đuôi và màu nâu ở các bộ phận cơ bản tạo thành màu hỗn hợp, quỹ tích gen quy định màu lông cừu gồm có 11 gen. Màu len cừu có ý nghĩa trong thị hiếu tiêu dùng.

Năm 1988, ủy ban nghiên cứu về cừu là COGNOSAG đưa ra tên màu lông, quỹ tích gen, số lượng alen và hiệu ứng gen. Màu lông cừu được quy định bởi nhiều alen trên nhiều điểm gen. Màu lông loang lổ luôn là tính trạng cần bị loại bỏ trong việc gây giống cừu lông dày (fine-wool) và cừu bán lông (semi-wool), loại bỏ lông màu là nội dung quan trọng trong công tác phối giống cừu lấy lông. Trước đây, khi Trung Quốc (là một trong những nước nuôi nhiều cừu) tiến hành gây giống rộng rãi cừu lai, đã chú trọng vào việc ngăn ngừa sự phát tán của lông màu, mấy năm gần đây, ở các nước đã bắt đầu gây giống cừu có màu.

Một giống cừu nổi tiếng thế giới về len cừu là cừu Merino châu Úc có gen W trội (gen màu trắng), w là gen lặn (màu đen), kiểu hình gen của cá thể cừu trắng toàn thân là WW hoặc Ww, cá thể màu đen là ww. Đốm được quy định bởi gen đốm sp, kiểu hình gen của nó là Sps p hoặc sps p. chọn giống cừu Merino lông màu chủ yếu là đem lai giống có màu lông màu trong lớp lông với cừu Merino, hoặc đem lai cá thể có đốm màu ở đầu, tai, mắt, bốn chân với cừu Merino, thế hệ sau sẽ được cá thể mang gen lông màu, từ đó xây dựng đàn giống.

Ở lợn nhà

nhỏ|phải|Một con lợn mặt nhăn ([[lợn Meishan) lông đen, chúng vẫn còn được ưa chuộng một số nơi ở Trung Quốc, Việt Nam]] Di truyền và chọn lựa màu lông ở lợn trắng rất quan trọng trong việc chăn nuôi lợn thịt. Màu lông lợn chủ yếu có bảy loại hình là màu lợn hoang (màu nâu xám trắng), lợn đen, lợn đỏ (lợn hung), đốm đen domino, đốm đen hoặc đốm đỏ, đen chấm trắng, chấm đỏ. Gen quy định màu lông lợn có ba loại: màu trắng trội (điểm I), khuếch tán màu lông (điểm E), dây vai trắng (điểm Be), đầu trắng (điểm He), điểm kiểu hình hoang dã (A), điểm nhạt (D) và điểm trắng bạch (C). Gen màu trắng trội át gen màu (đen, đ), gen màu đen trội át gen màu đỏ và trắng bạch di truyền tính trạng chất lượng ở đàn lợn.

Thế hệ F1 con lai giữa loài màu trắng và một số loại lợn địa phương màu đen cơ bản sẽ cho ra con lai màu trắng, nhưng cũng có nhiều trường hợp con lai sẽ có màu da xanh hoặc đốm đen. Màu lông của lợn hoang không trội hoàn toàn đối với màu đen và màu đỏ. Lợn Trường Bạch và đều là loài lông trắng, màu trắng ở lợn loại này được quyết định bởi gen I. Đem lai lợn Trường Bạch và các giống lợn đen, đốm, nâu, thế hệ con thường có màu lông trắng, tức màu trắng trội át các màu; màu lông lợn Trường Bạch trội át màu lông đốm ở lợn màu đốm, nhưng lợn Trường Bạch và lợn thường Đông Bắc màu đen khi lai với nhau sẽ cho con lai đốm đen hoặc da xanh.

Lợn trắng khi thịt ra trông sẽ đẹp hơn, được người tiêu dùng ưa chuộng, đồng thời màu lông cũng thường là đối tượng nghiên cứu. như đem lai lợn Berkshire và lợn đại bạch (LargeBlack-whitepig), khi màu lông của con lai gần giống với màu lông lợn đại bạch, số lượng Litter gần bằng của lợn đại bạch. Khi tăng tỷ lệ huyết thống của lợn Berkshire, màu lông con lai sẽ gần giống với giống lợn Berkshire, con lai loại này sẽ có ít Litter, gần giống loài lợn Berkshire. Vì thế, khi đem lai các giống lợn khác nhau và tạo ra giống mới, có thể căn cứ vào di truyền màu lông để phán đoán bước đầu tính di truyền về chất lượng cải tạo giống ban đầu. Điều này rất quan trọng trong việc chọn giống.

Chẳng hạn như màu lông và đặc trưng hình thể của lợn địa phương Trung Quốc thì lợn địa phương Trung Quốc được chia thành sáu loại dựa theo các tiêu chí ngoại hình, tính năng sinh sản (khả năng xuất tinh, phối giống của lợn đực và sự mắn đẻ của lợn nái).

  • Lợn Hoa Bắc: Giống lợn này có lông màu đen, đôi lúc phần đuôi có đốm trắng, cơ thể lớn, bốn chân thô và to, mõm dài.
  • Lợn Hoa Nam: Giống lợn này có lông màu đen trắng, đầu và vai chủ yếu là màu đen, bụng màu trắng, cơ thể nhỏ, lưng và bụng rộng, ngực lớn và trĩu xuống.
  • Lợn Hoa Trung: Giống lợn này có lông màu đen trắng, đuôi màu đen, cơ thể có nhiều đốm đen có kích thước khác nhau, có con toàn thân màu đen, thân lớn hơn lợn Hoa Nam, ví dụ như lợn Kim Hoa và lợn Hoa Trung.
  • Lợn Giang Hải: màu lông giống lợn này có liên quan đến phân bố của chúng, từ hạ du Hàn Thủy, Trường Giang đến vùng ven biển Đông Nam, có rất ít con trắng muốt. xương to thô, da dày và nhiều nếp nhăn, tai to rủ xuống.
  • Lợn Tây Nam: Giống này chủ yếu màu đen, nhưng có một số ít là màu đen điểm trắng, số ít là lợn lông đỏ, loài này có đầu to, dưới cằm có lông.
  • Lợn cao nguyên: Loài này chủ yếu có màu lông đen, một số ít có màu đen điểm trắng và màu đỏ. Đầu nhỏ dài, tai nhỏ và dựng đứng, nhìn giống lợn rừng.
  • Ngoài ra, còn có lợn Ô Kim phân bố tai vùng núi Ô Mông, và ở một số vùng núi, chúng có màu lông đen vàng, là giống lợn duy nhất của Trung Quốc có màu lông đỏ.

Những màu lông và ngoại hình của các giống lợn nuôi

  • Giống lợn trắng lớn: gây giống loại này phải lấy bốn giống lợn trắng: lợn Liên Xô (lợn Đại Bạch), lợn Trường Bạch, lợn Yorkshire loại trung (Midle) và Yorkshire loại lớn làm con cha, con mẹ có thể dùng 17 giống lợn địa phương Trung Quốc. Gây giống kiểu này sẽ cho ra con lai màu lông trắng hoàn toàn, da có một vài đốm đen (lợn Tân Hoài có màu đen tuyền).
  • Giống lục bạch: giống lợn này chủ yếu được lai từ con bố Berkshire và các giống lợn địa phương. Con lai loại này sẽ có màu chủ đạo là đen, nhưng cũng có một số con có màu "lục bạch" hoặc đặc trưng không lục bạch hoàn toàn, như lợn Tân Kim, lợn Định Huyện, lợn đen Cát Lâm và lợn đen Ninh An.
  • Giống đen đốm trắng: giống lợn này chủ yếu được lai từ Berkshire và lợn đại bạch Liên Xô. Giống lợn này chủ yếu có màu đen đốm trắng hoặc trắng đốm đen.

Trong công tác lai giống, màu lông thống nhất và hình dạng tai thuộc tính trạng chất lượng đơn giản trong phương thức di truyền, cần phải nắm rõ hệ phổ hoàn chỉnh và ghi chép giao phối, thông qua xác định phán đoán chính xác kiểu hình gen của lợn đực, tiến hành lai liên tục nhiều thế hệ mới có thể làm kiểu hình tính trạng này đạt đến mức đồng hợp. Sau khi đồng hợp kiểu hình gen, mới có thể làm cho tính nhất quán của kiểu hình biểu hiện có nền tảng đáng tin cậy.

Màu lông thú

Màu lông thỏ

nhỏ|phải|Một con thỏ nhà lông [[đen (thỏ Alaska)]] nhỏ|phải|Thỏ khoang nhạt ([[thỏ Anh)]] nhỏ|phải|Thỏ lông trắng (giống [[thỏ trắng New Zealand)]] nhỏ|phải|Thỏ lông đỏ (giống [[thỏ New Zealand đỏ)]] Thỏ cũng là giống có nhiều màu lông do chọn lọc (nhất là đối với các giống thỏ cưng). Lông thỏ gồm có lông ngắn nhọn phần đầu, chân trước và đùi, lông mao phần thân. Ngoài độ dài ngắn, nhỏ, bóng của lông, sự thay đổi hình thái lông còn liên quan đến sự thay đổi các loại lông trong sinh trưởng phát triển loài thỏ nhà. Sự hình thành màu lông thỏ là từ di truyền tính trạng màu lông thỏ. Tế bào hắc tố của lông tồn tại trong da, tính chất, số lượng, hình dạng hạt, cách thức phân bố khác nhau của sắc tố và tạc dụng men khác nhau, hình thành màu lông đa dạng của thỏ.

Lông thỏ có biểu hiện nhiều màu là do sự tồn tại của sắc tố màu, vật chất sắc tố này gọi là hắc tố, hắc tố có thể chia thành hai loại: sắc tố nâu và sắc tố đen, sắc tố đen lại chia thành màu đen và màu nâu. Loại sắc tố nào thì cũng đều được hình thành do tyrosine và axit benzene dưới tác dụng của hàng loạt enzyme. Trong quá trình oxy hóa, hệ thống enzyme này khá nhạy cảm với nhiệt độ, có loại enzyme phải để dưới nhiệt độ cao mới có hoạt tính. Thỏ trắng Himalaya toàn thân có màu trắng, nhưng tai, đầu mũi, đuôi và tứ chi, do nhiệt độ thấp hơn các bộ phận khác, nên đã kích hoạt enzyme, làm cho nó có màu đen. Ngoài ra, màu sắc những bộ phận này đậm hay nhạt cũng phụ thuộc và sự thay đổi của nhiệt độ. Mùa đông màu lông thỏ đậm hơn.

Hệ thống tác dụng điều khiển gen màu lông thỏ phức tạp. Lông thỏ rất đa dạng, thỏ hoang có màu lông giống chuột hoang, thỏ Angora thường gặp và thỏ tai to của Nhật (thỏ Harlequin Nhật) đều thuộc loài lông trắng, thỏ đốm lớn của Đức có biểu hiện lông đen đốm trắng sự đa dạng màu lông thỏ được quy định bởi rất nhiều gen trên nhiễm sắc thể thường, ít nhất có 8 hệ thống gen, trong đó có 4 hệ thông gen trọng tâm:

  • Vai trò của hệ gen hệ thống A: quan sát kỹ màu lông thông hoang sẽ phát hiện trên một chiếc lông có 3 đoạn màu, phần gốc và mũi lông là màu đậm, đoạn giữa là màu nhạt, loại màu đặc biệt này được gọi là màu chuột hoang. Về mặt di truyền học, lấy A đại diện gen điều khiển màu chuột hoang với các gen khác màu a, màu khác chính là thể đột biến của màu chuột hoang. Loại lông này thiếu vùng nhạt ở giữa, vì thế toàn bộ chiếc lông là cùng một màu. Alen thứ ba trong hệ thống này là gen at. Dưới tác dụng của gen at, sinh ra lông màu đen và màu vàng nâu. Quan hệ trội giữa 3 alen trong hệ thống A là A> at >a, vì vậy trong trường hợp lai gen, bất kể là Aat hay Aa, đều có biểu hiện màu lông chuột hoang, ata biểu hiện là màu lông đen và màu vàng nâu, chí khi đống hợp mới biểu hiện màu lông chuột hoang.
  • Vai trò của gen hệ thống B: vai trò của gen B là sinh ra lông màu đen, vai trò của alen b là sinh ra lông màu nâu, B trội át b. Cụ thể là gen B kết hợp với gen A (sinh ra lông màu chuột hoang) (AABB hoặc AaBb), sẽ sinh ra các loại màu lông đen–đen nhạt–đen. Thỏ có kiểu hình gen này, nhìn bề ngoài sẽ thấy có màu hơi vàng. Nếu gen b kết hợp với gen A (AAbb hoặc Aabb), sẽ sinh ra loại hình lông nâu–vàng–nâu, thỏ có kiểu hình gen này sẽ có màu vàng nâu.
  • Vai trò của gen hệ thống C: trong hệ thống gen có ảnh hưởng đến màu lông, số lượng alen trong hệ thống C là nhiều nhất, gồm 6 alen C, cch3, cch3, cch1, cH và c. Trong đó, ngoài gen C có vai trò làm cho toàn bộ màu lông chuyển thành màu đậm (thông thường là màu đen), 5 alen khác hoặc ít hoặc nhiều đều có tác dụng làm giảm sắc tố. Còn c là gen màu trắng, có thể hạn chế sự xuất hiện của sắc tố màu trên cơ thể. Thỏ có kiểu hình gen cc, không chỉ toàn bộ lông màu trắng mà ngay cả nhãn cầu cũng mất đi sắc tố. Do màu huyết quản đáy mắt, làm nhãn cầu có màu đỏ nhạt. Gen c khi đồng hợp có thể ức chế vai trò gen màu trên điểm gen khác, tức tồn tại tính lặn, còn cH là gen trắng thỏ Himalaya, có thể hạn chế sắc tố trên một số bộ phận cơ thể. Các gen cch3, cch3, cch1 đều là gen màu của thỏ Chinchilla, nhưng khả năng ứng chế màu vàng và màu đen của chúng cũng có sự khác biệt. gen cch3sinh màu xanh tím, gen này có thể loại bỏ phần màu vàng trên lông, biến màu nó thành màu trắng. Thế nên, lông thỏ màu xanh tím tiêu chuẩn phần gốc có một dải màu xanh rất rộng. Thỏ Chinchilla tiêu chuẩn Mỹ và thỏ Chinchilla loại lớn đều mang gen cch3. Gen cch2 không chỉ có tác dụng làm mất đi màu vàng, mà còn có thể làm màu đen nhạt đi. Dưới tác dụng của gen cch2, màu lông thỏ nhạt hơn màu lông thỏ Chinchilla. Gen cch1 không có tác dụng làm mất đi màu vàng, nhưng gen này có thể làm màu đen nhạt đi, tác dụng này của nó còn mạnh hơn cch2. Dưới tác dụng của gen cch1, toàn bộ màu lông thỏ trở nên nhạt nhất, vì thế nên được gọi là chinchilla nhạt. : Trong hệ thống màu lông còn có một loại màu lông báo châu Mỹ, thuộc màu cơ bản của thỏ nhà, nhưng hai bên cơ thể và phần đùi đều có màu nhạt. Về sự hình thành của màu lông này, trong hệ thống này còn có gen cm, màu lông báo đen được quy định bởi loại gen này, cũng có thông tin rằng, khi gen cch1 kết hợp với gen màu khác lông chuột a (aacch1cch1), sẽ sinh ra màu lông đen của báo. Quan hệ tính trội lặn của gen trong hệ thống C là: C> cch3>cch2>cch1>cH>c. Tuy nhiên, cch1đều trội không hoàn toàn đối với cH và c.
  • Vai trò của gen trong hệ thống D: alen quy định màu lông trong hệ thống D là D và d, gen D trội át d, tác dụng của gen d là làm nhạt sắc tổ. gen d khi kết hợp với một số gen khác hoặc làm màu đen nhạt đi thành màu xám xanh hoặc làm màu vàng nhạt đi thành màu sữa, hoặc làm màu nâu nhạt đi thành tím nhạt, khi gen d đồng hợp với gen a (aadd), sẽ sinh ra thỏ màu xanh (các giống thỏ lam). Trên thế giới mọi loài thỏ có lông màu xanh đều có mang kiểu hình gen dd, như thỏ xanh Mỹ, thỏ Anggora của Anh và Pháp.

    Màu lông chó

    nhỏ|phải|Một con Spanhơn Anh ([[English Cocker Spaniel) những con lông đỏ thường đanh đá và hung dữ hơn]] Các giống chó nhà có sự đa dạng về màu lông do sự chọn lọc đặc biệt của con người. Có thể đoán biết được tính cách của một con cún dựa trên màu lông của nó, ít nhất là với giống chó cốc lông mượt, tai cụp của Anh (English Cocker Spaniel) hay còn gọi là Spaniel Anh, những con lông đỏ vàng có hành vi hung hăng, dữ tợn nhất. Chó lông màu đen có mức độ hung bạo thứ hai trong khi con nhiều màu (lông trắng với các đốm màu) thì lành tính hơn. Màu lông cũng liên quan tới tính cách của giống chó biết nhặt vật về cho chủ (retriver), với giống này, con hung dữ nhất có lông màu vàng, tiếp đến là lông đen và hiền lành nhất là con lông màu chocolate.

Mối liên quan giữa màu lông và tính cách bắt nguồn từ sự hình thành mã gene xảy ra ở giai đoạn đầu đời của con vật, mối liên quan xuất phát từ thực tế rằng lớp ngoại bì (một trong 3 lớp tế bào phôi chủ đạo) là nơi da và hệ thần kinh trung ương khởi nguồn từ trong phôi. Trong rất nhiều trường hợp, những con chó lông vàng phản đối sự làm quen của con người và thậm chí còn tìm cách cắn lại, trong khi nhóm lông nhiều màu thì thường vẫy đuôi và thích thú khi được chú ý đến. Tuy rằng gene tạo nên màu lông và quyết định một phần tính cách ở chó nhưng chó được nuôi dạy như thế nào đóng vai trò lớn nhất trong hành vi của chúng. Bộ lông chúng rất quý và giá trị (cọp chết để da) do đó chúng bị săn bắt để lấy da và các sản phẩm khác.

Màu của chúng có thể là bất kỳ màu nào trong khoảng từ vàng đến đỏ-da cam, với những khu vực màu trắng trên ngực, cổ, cũng như phần bên trong của chân. Một vài biến thể về màu sắc của hổ được ghi nhận như:

  • Hổ trắng (Bạch hổ) Một biến thể gen lặn phổ biến, có thể xuất hiện với sự tổ hợp phù hợp của bố mẹ chúng, chúng không phải là những con thú bạch tạng, hồ trắng là nòi phổ biến ở phân loài hổ Bengal. : Những con hổ có màu trắng do biến thể sắc tố da hiếm của hổ Bengal. Quan niệm sai lầm phổ biến là hổ trắng bị bạch tạng vì hổ trắng vẫn sản xuất sắc tố melanin và đó chỉ là biến thể kiểu hình tự nhiên, một biến thể di truyền trội trong số lượng hổ Bengal.

Màu lông chim

nhỏ|phải|Một con chim có màu trắng xanh Điểm nổi bật của loài chim chính là màu sắc của chúng. Màu sắc của các loài chim vừa là những đặc trưng và cũng là những đặc điểm nhận dạng riêng của chúng. Có một số loài chim màu sắc lôn

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
thumb|upright=1.3|[[Chọn lọc tự nhiên đã thúc đẩy _Lagopus muta_ thay đổi từ ngụy trang tuyết vào mùa đông sang màu sắc gây nhiễu để phù hợp với đồng hoang vào mùa hè.]] thumb|upright|[[Nhân giống chọn
nhỏ|phải|Một con [[hổ đang cắn cổ con linh dương mặt trắng, vết cắn từ những chiếc nanh dài của nó có thể xuyên vào tận xương và tổn thương đến hệ thần kinh dẫn đến
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
phải|nhỏ|300x300px|[[Bút chì màu]] nhỏ|300x300px|Hiệu ứng màu sắc Ánh sáng mặt trời ánh sáng xuyên qua kính màu trên thảm ([[Nhà thờ Hồi giáo Nasir ol Molk nằm ở Shiraz, Iran)]] nhỏ|300x300px|Màu sắc có thể xuất
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
nhỏ|phải|Một con [[bò được trang điểm hoa văn ở Sisdağı, Thổ Nhĩ Kỳ, con bò được nhắc đến rất nhiều trong Kinh sách của đạo Hồi]] **Động vật trong Hồi giáo** là quan điểm, giáo
**Sự lừa dối ở động vật** (_Deception_) là sự phơi bày, phô diễn những thông tin sai lệch của một con vật sang loài khác (có thể là cùng loài hoặc các loài khác nhau)
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Thuyết sắc động lực học lượng tử** (_Quantum chromodynamics_ hay **QCD**) là lý thuyết miêu tả một trong những lực cơ bản của vũ trụ, đó là tương tác mạnh. Nó miêu tả các tương
nhỏ|[[Bò nhà là một loài động vật được nhắc đến rất nhiều trong Kinh Thánh, chúng là loài chứng kiến cảnh Chúa Giê-su giáng sinh]] nhỏ|phải|Con cừu được nhắc đến trong Kinh thánh như là
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
**Hệ động vật Anh** phản ánh các quần thể động vật được ghi nhận ở nước Anh hợp thành hệ động vật của quốc gia này. Nhìn chung, hệ động vật ở Anh có nhiều
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
nhỏ|phải|Nai Ấn Độ **Hệ động vật Ấn Độ** phản ánh về các quần thể động vật tại Ấn Độ cấu thành hệ động vật của quốc gia này. Hệ động vật Ấn Độ rất đa
**Hệ động vật ở Úc** là các quần thể động vật bản địa hay du nhập tại lục địa Úc hợp thành hệ động vật tại đây. Úc là nơi có hệ động vật rất
**Ngôn ngữ động vật** là hình thức giao tiếp ở động vật không phải của con người nhưng cho thấy sự tương đồng với ngôn ngữ của con người. Động vật giao tiếp với nhau
Poster treo tường áp phích học tập nhiều chủ đề dùng để dạy học cho bé Có thể thấy việc dạy bé học không xác định độ tuổi nào là phù hợp nhất. Điều này
nhỏ|phải|Một cặp [[hươu nai đang giao phối trong mùa động dục]] nhỏ|phải|[[Cá sấu là loài thể hiện tình cảm rất nhẹ nhàng]] **Giao phối** hay còn gọi là **phối giống** hay là **giao cấu** ở
nhỏ|phải|Loài vịt [[Anas querquedula ở quốc đảo Mauritius]] nhỏ|phải|Dơi ăn quả [[Pteropus rodricensis, loài thú đặc hữu ở quốc đảo này]] **Hệ động vật Mauritius** là tổng thể các quần thể động vật, quần xã
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|phải|Cảnh [[moi ruột của con heo]] **Giết mổ động vật** là việc thực hành giết chết các loại động vật nói chung, thường đề cập đến việc giết mổ gia súc và gia cầm, ước
**Hệ động vật ở Madagascar** là tập hợp các quần thể động vật hợp thành hệ động vật ở nơi đây. Hệ động vật ở đây là một phần của đời sống hoang dã của
nhỏ|phải|Một con dê đang gặm cỏ **Tập tính ăn** là quá trình mà các sinh vật, thường là động vật tiêu thụ thực phẩm để nuôi dưỡng bản thân thông qua các hành vi, thói
Trong phân loại sinh học, **Phân loại giới Động vật** cũng như phân loại sinh học là khoa học nghiên cứu cách sắp xếp các động vật sống thành các nhóm khác nhau dựa vào:
nhỏ|phải|Một con dê đực cùng lãnh thổ và đàn dê cái của nó Trong tập tính học, **lãnh thổ** là một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể động vật hoặc một
**Hệ động vật ở Mông Cổ** là tập hợp các quần thể động vật đang sinh sống tại Mông Cổ hợp thành hệ động vật ở quốc gia này. Đặc trưng của hệ sinh thái
nhỏ|phải|Một loại cao xương đã được kết xuất **Cao động vật** hay **keo động vật** (_Animal glue_) là một chất keo hữu cơ có nguồn gốc từ protein được kết xuất chủ yếu từ phương
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
nhỏ|phải|[[Oryx beisa callotis|Linh dương tai rìa (Oryx beisa callotis) có khả năng trữ nước bằng cách tăng nhiệt độ cơ thể và lấy nước từ thức ăn, bằng cách này chúng không cần phải uống
**Hệ động vật ở New Zealand** chỉ về hệ động vật tồn tại ở New Zealand bao gồm cả những loài bản địa và những loài du nhập đến và trở thành các loài xâm
**La** là con vật lai giữa ngựa cái và lừa đực. Về hình dạng con la giống lừa hơn là ngựa. Trong khi ngựa có 64 nhiễm sắc thể, và lừa có 62, con la
nhỏ|phải|Khỉ Hanuman được biết đến là loài linh trưởng có hành vi giết con non Động vật **giết con non** (infanticide) là các hành vi ở một số loài động vật liên quan đến việc
nhỏ|phải|Sơn dương Tây Kavkaz là một trong những biểu tượng của hệ động vật Azerbaijan nhỏ|phải|Loài [[sẻ ngô râu (Panurus biarmicus)]] **Hệ động vật Azerbaijan** (_Fauna of Azerbaijan_) hay **Vương quốc động vật ở Azerbaijan**
**Phong trào quyền động vật** (_Animal rights movement_) hay **phong trào bảo vệ quyền động vật** và đôi khi được gọi là **phong trào giải phóng động vật** hay **phong trào bảo vệ động vật**
nhỏ|phải|Một con thú lông nhím (Hemicentetes semispinosus) đang xù lông đầy vẻ đe dọa, thực tế chúng là loài vô hại và nhút nhát nhỏ|phải|Một con tắc kè phồng mang trông dữ tợn **Hành vi
nhỏ|phải|[[Ngựa là loài được thuần hóa để sử dụng trong chiến tranh từ sớm, là động vật gắn liền với chiến trường, trận địa, với các vị danh tướng]] **Động vật trong quân sự**, **chiến
nhỏ|phải|Hệ động vật ở Ý **Hệ động vật** hay **quần thể động vật** là thuật ngữ sinh học chỉ về tất cả các mặt của đời sống động vật của bất kỳ khu vực cụ
nhỏ|phải|Một con cừu đực đang giao tiếp với một con chó nhỏ|phải|Một chú cừu non đang giao tiếp với một chú thỏ qua cử chỉ ngửi hơi **Giao tiếp ở động vật** (_Animal communication_) là
Đây là danh sách các màu sắc và kiểu dáng vỏ được sản xuất cho dòng máy Game Boy từ năm 1989. ## Game Boy phải|nhỏ|240x240px| Game Boy - Trắng đục ### Biến thể phiên
SET 24 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh động Tên sản phẩm :SET 12 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh động Nổi bật : sticker
SET 12 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh độngTên sản phẩm :SET 12 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh độngNổi bật : sticker sẵn nam
SET 24 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh độngTên sản phẩm :SET 12 Sticker hình bướm 3D dán tường có hút nam châm sinh độngNổi bật : sticker sẵn nam
Model RD-RL-21.LED Công suất 6W Điện áp danh định 220V50Hz Độ rọi trung bình 700 lux Hệ số trả màu 80 Đèn bàn LED Rạng Đông bảo vệ thị lực Thiết kế sang trọng, màu