✨Hệ động vật Việt Nam

Hệ động vật Việt Nam

Hệ động vật ở Việt Nam là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước nhiệt đới thuộc vùng Đông Nam Á có sự đa dạng sinh học cao. Sự đa dạng của động vật ở Việt Nam phản ánh sự phong phú của hệ thực vật nơi đây. Do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới và sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên. Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác nhau. Nhiều loại môi trường sống khác nhau tạo ra nhiều cơ hội cho các sinh vật phát triển vì nó cho phép chúng phân tách khỏi những loài khác bằng cách thay đổi nơi ở và thức ăn.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh khốc liệt với bom đạn và chất độc hóa học với quy mô lớn và tàn khốc. Quân đội Mỹ đã ném một lượng bom khổng lồ và rải khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích khoảng 24,67% tổng diện tích lãnh thổ Nam Việt Nam, trong đó phần lớn là chất độc da cam, là chất có chứa tạp chất độc dioxin. Với số lượng rất lớn bom đạn và chất độc hóa học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều lần trong quãng thời gian dài không những đã làm chết cây cối, động vật mà còn gây ô nhiễm môi trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Nhiều động vật bị chết do bom đạn, một số phải lẩn trốn và rời lãnh thổ Việt Nam. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái nơi đây.

Trong văn hóa và lịch sử, các loài vật ở Việt Nam cũng được ghi chép qua những thư tịch cổ, những truyền thuyết, thần thoại, câu chuyện dân gian, rồi đến cả những ghi chép của người Tây phương. Đặc sắc chính là các loài vật tiêu biểu của nước Nam đã được khắc trang nghiêm trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn. Hệ động vật Việt Nam được phản ánh qua truyền thông với nhiều chương trình phim tài liệu của Việt Nam và nước ngoài, ở trong nước có nhiều loạt phim về đất nước-con người, phản ánh non nước ở Việt Nam, đã có nhiều chương trình truyền hình trong nước về thế giới động vật giới thiệu về các loài động vật ở Việt Nam. Kênh truyền hình Animal Planet đã công chiếu chuyên đề về hệ động vật ở Việt Nam với các loạt phim như: Loạt phim Đông Dương hoang dã (Wildest Indochina): Vietnam: Phoenix from the Ashes (Việt Nam: Con phượng hoàng hồi sinh từ đống tro tàn) và Loạt phim Mê Kông: Linh hồn của một dòng sông (Mekong-Soul Of The River: Vietnam), hay 01 tập trong sê-ri: Finding Bigfoot, loạt phim về truy tìm các sinh vật đã tuyệt chủng.

Số lượng

Thống kê

Cho đến nay, có nhiều số liệu thống kê khác nhau về số lượng các loài động vật ở Việt Nam từ nhiều nguồn khác nhau, một phần nguyên nhân do thời điểm thống kê có khác nhau và ngày càng có nhiều động vật được phát hiện thêm nữa góp phần gia tăng số loài được thống kê, nhìn chung các số liệu thống kê không quá khác biệt hoặc trái ngược và cùng phản ảnh tính đa dạng phong phú của hệ động vật Việt Nam.

  • Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) ghi nhận với tổng cộng 11.217 loài trong khí hậu nóng ẩm. Ngoài ra cũng còn có 2.470 loài cá, hơn 23.000 loài san hô và nhiều loài động vật không xương sống được ghi nhận trong hệ sinh thái động vật hoang dã của Việt Nam.
  • Theo báo cáo về quan trắc môi trường nước của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nơi cư trú của hơn 275 loài thú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 2.470 loài cá, 5.500 loài côn trùng.
  • Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam có 310 loài động vật có vú, 296 loài bò sát, 162 loài lưỡng cư, 700 loài cá nước ngọt và 2.000 loài cá biển Có khoảng 889 loài chim và 310 loài nhuyễn thể trên cạn
  • Thống kê của cơ quan tài nguyên và môi trường Việt Nam ghi nhận được 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, khoảng 2.000 loài cá biển và có hàng chục ngàn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt.
  • Một thống kê khác, Việt Nam có hơn 300 loài thú và 800 loài chim.

Theo ngành

Nhuyễn thể có trên 2.500 loài, quan trọng nhất là mực, sò, điệp, nghêu với khả năng khai thác mực 60.000-70.000 tấn/năm, nghêu 100.000 tấn/năm, trong khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn tấn/năm), còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào ngư, đồi mồi, và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai. Ở vùng nước nội địa có 700 loài động vật không xương sống trong đó 55 loài giáp xác, 125 loài hai mãnh vỏ và chân bụng. Vùng biển Việt Nam có nhiều với 300 loài cua biển, 40 loài tôm he, gần 3 trăm loài trai, ốc, hến, 100 loài tôm. Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao.

Cho đến nay đă thống kê và xác định được 794 loài động vật không xương sống trên cạn. Các môi trường sống của động vật nhuyễn thể là trong các vùng đất liền của thành đá vôi nơi 310 loài động vật thân mềm được báo cáo trong đó chỉ có 50% được xác nhận qua kiểm tra thực địa. Nhiều loài loài mới đang tiếp tục được phát hiện. Một trong những loài ốc đã được xác định trong những năm 2000. Các loài động vật thân mềm mới được báo cáo trong các động vật hoang dã của Việt Nam là: Leptacme cuongi, Oospira duci, Oospira smithi, Oospira (Atractophaedusa) pyknosoma, Clausiliidae, Phaedusinae, Megalophaedusini và Leptacme

Đối với các loài thủy sinh, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 chi, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 chi và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vùng núi. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá có 2.458 loài (khoảng 130 loài có giá trị kinh tế), động vật phù du có 657 loài, tôm biển có 225 loài. Danh sách khu hệ cá biển của Việt Nam đến tháng 1 năm 2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới. Người dân miền biển thường lý giải tên gọi của một vài loại cá theo cảm quan về hình dáng và màu sắc, chẳng hạn như cá chìa vôi có cái miệng dài như cái chìa vôi ăn trầu, cá bã trầu có màu sắc hồng hồng của bã trầu, cá rựa có hình cái rựa đốn củi Vị trí, địa lý và khí hậu đặc biệt đã tạo cho vùng biển Đông sự đa dạng sinh học cao so với các nước trên thế giới, cả về cấu trúc thành phần loài, hệ sinh thái và nguồn gen. Trong đó không ít loài thủy quái có độ hung dữ và kích thước khổng lồ của chúng

Động vật đáy ở Việt Nam cũng phong phú và đa dạng với các loài động vật thân mềm (Mollusca), mười chân (Decapoda), giun nhiều tơ (Polychaeta), giun ít tơ (Oligochaeta), chân đều (Isopoda), chúng phân bố ở sinh cảnh bãi triều cửa sông, bãi triều lầy có rừng ngập mặn, cồn cát ven biển, rừng ngập mặn, bãi triều lầy không có rừng ngập mặn, vùng cao triều (vùng trên triều), trung triều (vùng triều giữa) và hạ triều (vùng triều thấp), vùng có nền đáy cát, cồn cát vùng cửa sông ven biển, vùng có nền đáy bùn cát, vùng cửa sông, vùng nền đáy cát bùn, nền đáy bùn nhão, nền bùn hữu cơ trong rừng ngập mặn, một số nhóm loài không trực tiếp sống ở nền đáy mà sống bám vào giá thể là cây ngập mặn.

Chỉ tính riêng một cuộc khảo sát tại ở Vườn Quốc gia Xuân Thủy được 350 loài động vật đáy thuộc 6 ngành (Annelida, Arthropoda, Brachiopoda, Cnidaria, Mollusca, Sipuncula) với 11 lớp, 38 bộ, 106 họ, 206 chi. Trong đó có loài sam ba gai đuôi (Tachypleus tridentatus) trong diện nguy cấp. Ngành Chân khớp (Arthropoda) có số lượng phong phú nhất với 153 loài, 84 chi, 38 họ, tiếp đến là ngành Thân mềm (Mollusca) với 147 loài, 81 chi, 42 họ, ngành Giun đốt (Annelida) với đại diện là lớp Giun nhiều tơ - Polychaeta (47 loài, 38 chi, 23 họ), 3 ngành còn lại là ngành Tay cuốn (Brachiopoda), ngành Cnidaria và ngành Sá sùng (Sipuncula) chỉ có một loài duy nhất.

Bên cạnh đó, tại Việt Nam, có 39 loài sinh vật có chứa chất độc có khả năng gây chết người tại vùng biển Việt Nam, trong đó có 22 loài cá, một loài mực tuộc, hai loài ốc, ba loài cua, một loài sam và 10 loài rắn biển. Ngoài ra còn có hai loài cá nóc nước ngọt mới được phát hiện ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, tổng cộng là 41 loài sinh vật độc. Đa số những loài sinh vật độc hại nói trên đều có ở vùng biển Việt Nam, từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, như các loài cá nóc, cá bống vân mây, loài so và rắn biển, nhưng cũng có một số loài như ốc biển, cua, mực đốm xanh chỉ mới gặp ở vùng biển miền Trung và Đông Nam Bộ. Phần lớn những loài này sống cả ở ngoài khơi và vùng ven bờ, các vùng vịnh, đầm phá, các cửa sông lớn… Riêng hai loài cá nóc nước ngọt được xác định là cá nóc chấm xanh (Chelonodon nigroviridis) và cá nóc mắt đỏ (Carinotetraodon lorteti) mới chỉ phát hiện được ở đồng bằng sông Cửu Long.

Có gần 500 loài lưỡng cư và bò sát đã được ghi nhận ở Việt Nam. Chúng phân bố rộng khắp trên Việt Nam, sống trên núi, vùng đồng bằng, hải đảo, và trong các môi trường nước ngọt và nước biển. Tuy nhiên, các môi trường sống có nhiều loài nhất của Việt Nam là các khu rừng thường xanh lá rộng trên núi và ở vùng đồng bằng. Sự phức tạp về cấu trúc của chúng cung cấp nhiều nơi cư trú sinh thái trong tán lá nhiều tầng, tầng cây bụi và trên cũng như dưới mặt đất trong các khu rừng. Một phần lớn khu hệ lưỡng cư và bò sát của Việt Nam là đặc hữu mặc dù chúng không tập trung đồng đều trong các nhóm phân loại, thay đổi từ 6% ở rùa và 9% ở rắn đến 30% ở thằn lằn và 37% ở lưỡng cư.

Có 58 loài mới đã được mô tả gồm 33 loài ếch và 25 loài bò sát (4 loài rắn, 8 loài thằn lằn, và 3 loài rùa). Đã khám phá ra sự phong phú tiềm ẩn trong các nhóm loài của ếch xanh (Rana livida), rùa hộp trán vàng (Cuora galbinifrons) và rùa dứa (Cyclemys dentata). Trong năm 2013, có 5 loài ếch nhái và 10 loài bò sát mới được công bố. Loài mới được phát hiện ngay trong vườn nhà ở vùng đồng bằng hay trong các khu rừng nhiệt đới ở vùng núi cao. Số loài bò sát và ếch nhái mới được phát hiện ở Việt Nam trong 5 năm gần đây có thể xếp ở vị trí cao trong các nước ở vùng Đông Nam Á. Các loài trước kia chưa chưa từng được tìm thấy tại Việt Nam, như thằn lằn cá sấu (Shinisaurus crocodilurus). Một số loài có thể sử dụng những loại môi trường do con người biến đổi và có phân bố rộng như loài nhái bầu (Microhyla) sinh sản trong các vùng nước tù của ruộng lúa. Thạch sùng đuôi sần (Hemidactylus frenatus) sử dụng các bức tường được chiếu sáng để bắt côn trùng. Rắn giun thường (Ramphotyphlops braminus) sống ở vườn trái cây và các vùng ẩm ướt khác.

Đặc trưng

nhỏ|phải|[[Rùa Hồ Gươm, một trong những biểu tượng của đất Việt với hình tượng Rùa vàng (thần Kim Quy)]] nhỏ|phải|Một con [[chuồn chuồn ở Thành phố Hồ Chí Minh]] Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam gồm Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính bình quân trên 1 km2 lãnh thổ Việt Nam có gần 7 loài động vật, với mật độ hàng chục nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới. Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau. Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loài. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh, hơn 80 loại tôm (nhiều loại có giá trị như tôm he, tôm rảo, tôm càng xanh, tôm hùm), các loại cua, mực, ốc, trai, sò (sò huyết), bào ngư, hải sâm, đồi mồi, vích, cá voi, cá mập.

Riêng Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 113 loài thú lớn, nổi bật nhất là hổ và bò tót Việt Nam, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có 35 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới), 259 loài bướm, 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 bộ linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang. Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng trong các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới.

Nét độc đáo

Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á. Cũng như thực vật giới động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu, hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là loài đặc hữu. Có rất nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như: Voi, tê giác, bò rừng, bò tót, trâu rừng, bò xám, nai cà tông, hổ, báo, cu li, vượn, voọc vá, voọc xám, voọc mũi hếch, sếu cổ trụi, cò quắm cánh xanh, cò quắm lớn, ngan cánh trắng, nhiều loài chim trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đă được ghi nhận ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam-Campuchia.

Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ. Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33 loài trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Campuchia không có loài đặc hữu nào cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở trong vùng phụ Đông Dương nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có ngụy cơ bị tiêu diệt nói riêng và sự phân bố của chúng.

Chỉ trong hai năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và loài mang lớn hay còn gọi là mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài gà lam đuôi trắng hay còn gọi là gà lừng (Lophura hatinhensis). Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loai thú lớn mới thứ ba là loài bò sừng xoắn (Pseudonovibos spiralis) ở Tây Nguyên, được công bố và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa được mô tả đó là loài mang Trường Sơn (Megamuntiacus truongsonensis) tìm thấy lân đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam. Ở vùng Vũ Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm một loài cá mới cho khoa học là Opsarichthys vuquangensis.

Nguồn lợi

Khai thác nguồn lợi từ tài nguyên động vật hoang dã tại Việt Nam cho thương mại có giá trị đáng kể. Đối với các loài động vật, việc khai thác thương mại dao động từ 3.700 và 4.500 tấn, nhiều loài động vật được săn lùng, giết hại cho mục đích y học, làm vật nuôi, thú kiểng, đồ trang trí hoang dã và quan trọng là một nguồn thực phẩm từ thịt rừng, nhưng không bao gồm buôn bán các loài thủy sản. Côn trùng cũng là một nguồn có giá trị thương mại với các loài bọ cánh cứng Coleopterus và Bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) góp phần hướng tới một thị phần lớn Hàng năm có thể khai thác 1,2 –1,4 triệu tấn hải sản,có độ sâu cho phép khai thác ở nhiều tầng nước khác nhau.

Về giá trị của động vật đáy thì có 91 loài có giá trị làm thực phẩm, trong đó nhiều loài giá trị kinh tế cao và xuất khẩu, Các loài có giá trị thực phẩm chủ yếu là các loài giáp xác lớn (46 loài) và thân mềm (38 loài). Nhiều loài được khai thác làm thực phẩm hàng ngày hay được thu mua lại để bán đi, các loài có giá trị thực phẩm và xuất khẩu, hầu hết các loài giáp xác, Thân mềm đều có thể sử dụng làm thức ăn trong chăn nuôi như thức ăn cho gia súc, gia cầm, làm thức ăn cho cá, cua và cả tôm. Trong số 92 loài có giá trị thực tiễn, có nhiều loài được khai thác ở mức độ cao và nguồn lợi tự nhiên của các loài đều có dấu hiệu suy giảm rõ rệt.

Các loài được khai thác mạnh như: cua bùn, tôm sú, tôm rảo, tôm sông, ghẹ hoa, cáy bùn, ngao dầu, ngao Bến Tre, ngó đỏ, sò lông, ốc móng tay, trùng trục, hến nước mặn, hàu sông. Có 4 loài có giá trị kinh tế cao được nuôi trồng trong các ao đầm như: tôm sú (Penaeus monodon), cua bùn (Scylla serrata) hoặc trên các bãi triều như: ngao dầu (Meretrix meretrix), nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata). Trong các đầm nuôi, số lượng loài Giáp xác lớn (Malacostraca) và Hai mảnh vỏ (Bivalvia) giảm đáng kể so với ở trong rừng ngập mặn, ngược lại số lượng Thân mềm Chân bụng lại tăng về mật độ và sinh khối.

Nguy cơ

nhỏ|phải|Mẫu vật của loài [[tê giác Việt Nam, chúng đã chính thức tuyệt chủng năm 2011, đánh dấu sự thất bại trong công tác bảo tồn của Việt Nam]] Để đáp ứng cho nhu cầu của 80 triệu dân đã và đang không ngừng tăng, Việt Nam đã và đang phải khai thác một cách ồ ạt các loại tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, rừng, biển, động vật, thực vật làm cho các loại tài nguyên bị cạn kiệt một cách nhanh chóng, đặc biệt là động vật hoang dã. Một nghiên cứu của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) đã cảnh báo rằng gần 10% các động vật hoang dã ở Việt Nam đang bị đe dọa tuyệt chủng. Việt Nam bị cả thế giới lên án và xếp hạng thứ 16 trong số 152 quốc gia được nghiên cứu về tỷ lệ của các loài động vật hoang dã có nguy cơ bị đe dọa cao nhất. Tổ chức Theo dõi Tình trạng buôn bán động vật hoang dã quốc tế (TRAFFC), Quỹ Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWE) thì Việt Nam được liệt vào danh sách một trong những quốc gia có số lượng tội phạm buôn bán động vật hoang dã lớn nhất; là quốc gia tiêu thụ sừng tê giác nhiều nhất thế giới, điểm nóng về buôn bán và sử dụng mật gấu, buôn bán ngà voi. Việt Nam cũng là quốc gia nhận thẻ đỏ trong việc bảo tồn tê giác, hổ. Trong khi đó, những quy định về chế tài, xử lý tội phạm về buôn bán động vật hoang dã ở Việt Nam vẫn còn quá thiếu, quá lỏng lẽo, chưa đủ sức răn đe, công tác quản lý và thực thi pháp luật còn bộc lộ nhiều hạn chế, đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng săn bắt, buôn bán, giết hại động vật hoang dã tăng nhanh. Thiếu trầm trọng công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ tác hại của việc săn bắt, buôn bán và giết hại động vật hoang dã thì sự đa dạng về mặt sinh học của Việt Nam sẽ bị đe dọa nghiêm trọng .

Thú

Trong hơn 270 loài thú đã được thống kê ở Việt Nam, trong đó có 7 loài thú mới được mô tả, hầu hết chúng là các loài có kích thước lớn thuộc các nhóm hươu và linh trưởng

Vượn

Bốn loài và hai phân loài vượn của Việt Nam có phân bố hầu như là không giao nhau. Tất cả các loài vượn ở Việt Nam đều là vượn đen thuộc chi Nomascus. Vượn đen Đông Bắc (Nomascus nasutus) được xếp vào loại cực kỳ nguy cấp. Loài vượn này đặc hữu ở miền Bắc Việt Nam.

Khỉ

Năm loài và 1 phân loài có phân bố tại Việt Nam trong đó có Khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis fascicularis), Khỉ đuôi dài Côn Đảo một phân loài có phân bố chỉ giới hạn ở quần đảo Côn Đảo (Macaca fascicularis condorensis), Khỉ đuôi lợn (Macaca leonina): Trong đó ở Việt Nam phân bố loài khỉ đuôi lợn Bắc. Đây là loài khỉ có ở Đà Nẵng, một cá thể trong loài này đã gây ra vụ tấn công các nữ du khách nước ngoài ở đèo Hải Vân và tạo ra vụ vây bắt lớn. Hiện nay, tình trạng báo động về nạn săn bắt các loài khỉ rừng đưa về làm vật nuôi hay làm thức ăn đang diễn ra ở Việt Nam Nhiều nơi, hàng trăm con khỉ thuộc danh sách động vật nguy cấp cần bảo vệ bị người dân nuôi nhốt, xiềng xích, có cá thể bị đứt tay chân, hôi thối và ruồi nhặng bu kín.

Voọc

Voọc là nhóm linh trưởng độc đáo ở Việt Nam. Có 08 loài và 4 phân loài thuộc 3 chi (giống) khác nhau, chiếm 44% tổng số phân loài của linh trưởng tại Việt Nam. Voọc là nhóm linh trưởng bị đe doạ nhiều nhất ở Việt Nam. Chúng đôi khi bị săn bắn và giết hại một cách dã man theo kiểu thảm sát làm trò đùa

  • 03 loài voọc chà vá
  • 08 loài voọc
  • 01 loài voọc mũi hếch đặc hữu của Việt Nam.

Voọc chà vá chân xám (Pygathrix cinerea) thường ở rừng kín thường xanh, rừng kín nửa rụng lá, sống thành đàn khoảng 10 - 15 con. Loài này phân bố ở Quảng Nam, Kon Tum, Bình Định. Voọc chà vá chân xám chỉ có ở Việt Nam, là một trong 25 loài linh trưởng đang trong tình cảnh nguy cấp nhất trên thế giới. Hiện chỉ còn khoảng 2.000 con sống trong tự nhiên.

Chà vá chân đỏ (Pygathrix nemaeus). Thân hình chúng thon nhỏ, lông nhiều màu, trán màu đen, lông mặt dầy tạo thành đĩa mặt, màu từ trắng xám đến xám. Cổ và ngực chúng có màu hung đỏ từ rực rỡ đến nhạt. Loài Chà vá chân nâu phân bố Từ Thanh Hóa (19030 độ vĩ bắc) dọc dãy Trường Sơn tới Gia Lai, Kontum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh. Chà vá chân nâu sống trong rừng già, rừng nguyên sinh trên núi cao 500 - 1.000 m so với mặt biển. Voọc chà vá chân nâu sống trong rừng nguyên sinh trên núi cao, kiếm ăn cả ở rừng thứ sinh, rừng hỗn giao, nương rẫy. Loài này thường ăn quả, lá cây rừng, ngô, khoai, sắn, rau xanh.

Chà vá chân đen (Pygathrix nigripes) có thân hình thon nhỏ, chân, tay dài, lưng màu xám đen, đầu trắng xám. Hai bên thái dương chúng có viền lông nâu đỏ. Mặt nhiều lông dài màu trắng xám. Chà vá chân đen sống ở rừng kín nửa rụng lá và rừng cây họ Dầu Dipterocarpaceae. Loài này sống ở Kontum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai.

Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus poliocephalus) là loài đặc hữu của Việt Nam. Trước đây, chúng xuất hiện ở đảo Cát Chiên thuộc Quảng Ninh, nhưng hiện chỉ còn tìm thấy chúng ở đảo Cát Bà thuộc Hải Phòng; trên thế giới không tìm thấy cá thể nào. Khi trưởng thành, đầu và vai con đực lông màu trắng nhạt, con cái lông màu thẫm hơn. Voọc đầu trắng sống ở rừng cây gỗ và dây leo mọc trên vách đá ở độ cao 100 –150 m so với mặt nước biển. Chúng chủ yếu ăn lá, quả cây rừng là đa, huyết dụ, lá và quả cây độc như lá ngón, hạt mã tiền. Sống ở rừng cây gỗ và dây leo mọc trên vách đá ở độ cao 100 – 150 m so với mặt biển. Khi gặp nguy hiểm, nó phát tiếng kêu báo hiệu cho cả đàn tìm nơi ẩn nấp.

Cà đác (Rhinopithecus avunculus) là một trong số 25 loài linh trưởng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu và là loài đặc hữu của Việt Nam. Voọc mũi hếch có bộ lông nâu đen. Lông trên đầu và quanh mặt trắng nhạt. Không có mào lông trên đỉnh đầu. Nơi sống của voọc mũi hếch có phần đa dạng hơn các loài voọc khác. Chúng thường ở những vùng cây cao trên núi đất và Thung lũng hơn rừng cây núi đá, vùng sườn đồi dưới chân núi có rừng hỗn giao cây gỗ và tre nứa. Chúng sống ở Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Bái, Quảng Ninh

Voọc quần đùi trắng (Trachypithecus delacouri). Bộ lông của chúng màu đen, có mào lông trên đỉnh đầu, đuôi dài hơn thân. Loài đặc hữu này của Việt Nam thường sống thành đàn 5 đến 10 con do con đực già làm đầu đàn. Nơi sống ưa thích của voọc mông trắng là vùng rừng thứ sinh cây gỗ cao 4 – 5 m, mọc trên vách đá có hang động. Mùa đông chúng ngủ trong hang đá, mùa hè ngủ trên vách đá cửa hang. Voọc mông trắng sống ở Yên Bái, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

Voọc đen má trắng (Trachypithecus francoisi). Chúng có bộ lông đen tuyền, trên má có vệt lông màu trắng kéo dài quá tai, đỉnh đầu có mào lông đen, đuôi lông màu đen, không xù xì. Voọc đen má trắng ăn chồi non, lá cây và rất ít quả cây rừng. Loài này sống trên những vách núi đá vôi ở độ cao không lớn có nhiều cây gỗ và dây leo. Mỗi đàn có vùng lãnh thổ hoạt động riêng nên chúng không xâm phạm lẫn nhau, chúng có thể sống ôn hòa với các loài khỉ khác. Chúng sống ở Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.

Cu li

Chỉ có một chi cu li (Nycticebus) phân bố tại Việt Nam, tất cả cu li đều được phân loại trong cùng một loài (N. coucang). Đến nay 2 loài đã được công nhận. Tại Việt Nam, cu li lớn được xếp vào Danh mục các loài thực vật, động vật nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại . Cu li nhỏ được xếp vào Danh mục các loài thực vật, động vật nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại . Báo hoa mai Đông Dương sống ở các tỉnh miền núi từ Bắc tới Nam. Chúng sống trong nhiều kiểu rừng, rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và cây bụi kề rừng. Chỗ ở không cố định. Thức ăn chủ yếu là các loài thú khác như nai hươu, hoẵng, lợn rừng, khỉ và động vật nuôi như trâu bò, dê. Báo gấm sống ở Tuyên Quang (Chiêm Hoá), Lài Châu (Mường Tè), Lạng Sơn (Bắc Sơn, Hữu Liên), Sơn La (Thuận Châu, Bắc Yên, Quỳnh Nhai, Sông Mã), Vĩnh Phú (Thanh Sơn), Hòa Bình (Đà Bắc), Gia Lai, Kontum (Sa Thầy, Kon Hà Nừng).

Chó

Họ Chó ở Việt Nam phân bố tại nhiều khu rừng, chúng thường được gọi là chó rừng, chó sói. Một trong số 4 loài chó ở Việt Nam. Sói rừng ở Tây Nguyên (Gia Lai, Kontum). Lần đầu tiên đã tìm thấy loài này ở Đắk Lắk. Chúng thường sống ở các khu rừng ven nương rẫy, có thể gần các trạng trại hay khu dân cư trong rừng. Chó rừng thường theo Hổ để ăn các mẩu thịt hổ để lại. Sói lửa có ở Lai Châu, Lào Cai (Sapa), Bắc Thái, Sơn La (Mộc Châu), Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk. Sói lửa có phân bố rộng ở các tỉnh miền núi. Chúng sống ở rừng, thường cư trú và hoạt động ở rừng già, những lúc săn đuổi mồi có thể về gần bản làng. Chúng còn tấn công cả gia súc ở một số nơi và được gọi là cơn ác mộng của đồng bào Tây Bắc trước kia.

Gấu

Hai loài gấu khác nhau về kích thước, sở thích về môi trường sống và về dạng thức ăn gồm Gấu ngựa (U. thibetanus) có kích thước lớn hơn chủ yếu ăn thực vật. Gấu chó (U. malayanus) nhỏ hơn ăn cả thực vật và côn trùng. Năm 2005, có tới 4.600 con gấu được nuôi tại nhà dân. Số này được bắt từ tự nhiên hoặc nhập khẩu trái phép từ các nước xung quanh như Lào, Campuchia, hoặc tại các khu rừng ở Việt Nam. Việt Nam còn 1.800 con gấu được nuôi tại hộ gia đình

Chồn

Có 13 loài thuộc 3 nhóm chính đã được thống kê tại Việt Nam gồm Chồn và chồn mactet (phân họ Mustelinae), Lửng (phân họ Melinae), Rái cá (phân họ Lutrinae). Các loài rái cá của Việt Nam là những loài chồn bị đe dọa nhiều nhất. Việt Nam là nơi sinh sống của bốn loài rái cá, cả bốn loài đều đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi sự tác động đến sinh cảnh sống của chúng và nạn săn bắt để lấy da, làm thuốc và lấy thịt.

Cầy

Có 10 loài trong số cầy có phân bố tại Việt Nam gồm Cầy vằn (Chrotogale owstoni) là loại bị đe dọa toàn cầu và xếp vào loại sắp nguy cấp. Cầy rái cá (Cynogale lowei) tại tỉnh Bắc Kạn. Cầy Tây Nguyên (Viverra tainguensis). Cầy giông (Viverra zibetha).

Cầy bay

Có 01 loài là loài Chồn bay Sunda (Cynocephalus variegatus) phân bố ở miền Trung và Nam Việt Nam.

Thú ăn côn trùng

Có 18 loài thú ăn côn trùng đã được ghi nhận tại Việt Nam. Những loài này thuộc 3 nhóm: chuột voi (2 loài), chuột chù (12 loài) và chuột chũi (4 loài).

Tê tê

Có 02 loài tê tê phân bố ở Việt Nam có phạm vi phân bố không giao nhau gồm Tê tê vàng (Manis pentadactyla) phân bố giới hạn ở miền Bắc. Tê tê Java (Manis javanica) giới hạn ở miền Trung và miền Nam.

Đồi

Có 02 loài Đồi sống ở Việt Nam: Đồi Bắc (Tupaia belangeri) sống nửa trên cạn. Nhen (Dendrogale murina) chủ yếu sống trên cây.

Gặm nhấm

Có xấp xỉ 65 loài phân bố ở Việt Nam là những động vật hoang dã dễ quan sát nhất, đặc biệt là sóc. Sóc là loài chuột bay, phi thân rất giỏi. Nó dùng đuôi lông mềm làm bánh lái khi chuyền từ ngọn dừa này sang ngọn dừa khác. Làm tổ sinh con trên ngọn dừa, ngọn cau, sóc sinh sản theo cấp số nhân. Chừng ba tháng nó lại sinh một lứa, mỗi lứa 3-4 con. Do trái cây là nguồn thực phẩm sinh sống của sóc nên nhà vườn phải chịu nhiều thiệt hại lớn, đôi khi mất trắng. Hơn 40 loài gặm nhấm còn lại tại Việt Nam thuộc về họ Chuột (Muridae) rất đa dạng. Chúng có khả năng tăng số lượng nhanh, đẻ sớm và mau, thường tạo ra các lứa có số lượng rất lớn. Hiện nay, ở Việt Nam có 43 loài chuột khác nhau và đa phần chúng là loài gây hại cho nông nghiệp và là loài gây hại trong nhà.

Thỏ

Có nhóm thỏ rừng có phân bố ở Việt Nam. Có 02 loài thỏ có phân bố ở Việt Nam thuộc chi Nesolagus:

  • Thỏ nâu (Lepus peguensis)
  • Thỏ vằn Trường Sơn (Nesolagus timminsi) là loại thỏ đặc biệt có sọc.

    Dơi

    Trong số 91 loài dơi của Việt Nam, 11 loài thuộc nhóm Megachiroptera và số còn lại thuộc 5 họ của nhóm microchiroptera. Tại Vườn Quốc gia Cúc Phương nằm ở phía Bắc Việt Nam vào năm 1997 xác định được 3,5% số lượng loài trên toàn thế giới.

    Cá voi

    nhỏ|phải|Bộ cốt cá voi trong dinh [[Vạn Thủy Tú ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, đây là bộ cốt cá voi lớn nhất Việt Nam và cả vùng Đông Nam Á vẫn còn nguyên vẹn (dài 22m, nặng 65 tấn)]] Có xấp xỉ 20 loài sống trong vùng biển của Việt Nam. Chúng khác nhau về kích thước

  • Cá heo không vây (Neophocaena phocaenoides) nặng 30–70 kg
  • Cá voi xanh (Balaenoptera musculus) nặng tới 165 tấn. Cá voi xanh hay còn gọi là cá voi là động vật được tôn thờ ở Việt Nam với tên gọi là Cá ông. Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân gian vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam từ Thanh Hóa vào tận Bến Tre. Đây là tín ngưỡng của cư dân vùng biển, hay còn gọi là vạn chài. trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người Việt và cả người Hoa.

    Bò biển

    Bò biển (Dugong dugon) hay còn gọi là Cá cúi là loài duy nhất của Việt Nam thuộc bộ này và sống ở vùng nước nông ven bờ của Côn Đảo và Đảo Phú Quốc. Chúng được tìm thấy ở vùng biển Côn Đảo (khoảng 30 con) và Phú Quốc. Từ cuối thập niên 1990 vì môi trường bị ô nhiễm nhóm cá cúi ở Côn Đảo bị đe dọa và số cá cúi đã giảm. Sang đầu thập niên 2000 vùng Côn Đảo còn khoảng 10 con và Phú Quốc còn dưới 100 con. Mãi đến năm 2002 nhà chức trách tỉnh Kiên Giang mới thi hành lệnh cấm săn bắt cá cúi. Cá cúi bị đe dọa bởi nạn săn bắn vì thịt cá cúi có tiếng là ngon. Vì chúng bơi rất chậm, cá cúi dễ bị sa lưới. Ngoài ra cặp nanh của cá cúi với cấu trúc giống ngà voi nên cũng gây ra thị trường buôn nanh khiến chúng bị săn bắt.

Chim

Chim ở Việt Nam là nhóm động vật được biết đến nhiều nhất. Chim nhìn chung dễ quan sát và nhận biết hơn thú vì hầu hết tất cả các loài đều xuất hiện vào ban ngày, các tiếng hót và tiếng kêu đặc trưng cho từng loài. Tại Việt Nam và Đông Dương chủ yếu tập trung vào khu hệ chim. Cho đến nay, hầu hết 850 loài chim đã được ghi nhận tại Việt Nam. Các khu rừng ở vùng đồng bằng là môi trường sống quan trọng cho gà lôi của Việt Nam (họ Phasianidae) cũng như cho nhiều loài chim có kích thước trung bình trong đó có chim đuôi cụt (họ Pittidae), giẻ cùi và ác là (họ Corvidae) và cu rốc đít đỏ (Psilopogon lagrandieri). Các khu rừng trên núi nằm trên 1.000m là nơi cư trú của các quần xã lớn và đa dạng của chim sẻ, trong đó có 3 loài khướu và hai loài đặc hữu của Việt Nam. Các vùng đồng cỏ ướt và rừng ngập nước của châu thổ sông Mê Kông là nơi cư trú của các loài chim nước lớn (thủy cầm hay thủy điểu), trong đó có cò và hạc (họ Ciconiidae), quắm (họ Threskiornithidae), diệc (họ Ardeidae) và cốc (họ Phalacrocoracidae) cũng như các chim ăn thịt như đại bàng đầu xám (Ichthyophaga ichthyaetus). Các bãi bồi và các dải cát dọc theo cửa sông và các đảo ở vùng ven biển phía Bắc là bến đỗ và nơi trú đông quan trọng cho rất nhiều loài chim nước, trong đó có vịt (họ Anatidae), mòng bể (họ Laridae), choi choi (họ Charadriidae) và cò thìa (Platalea minor, thuộc loại nguy cấp).

Số lượng các loài chim của Việt Nam không phân bố đồng đều theo các nhóm phân loại. Một số nhóm, trong đó có chim đớp ruồi (30 loài; thuộc tông (tộc) Muscicapini), khướu (26 loài; tông Garrulacinae) và khướu (79 loài, tông Timaliini) chiếm một tỷ lệ lớn số lượng loài của Việt Nam. Chúng cũng chiếm tỷ lệ phần trăm lớn (tương ứng với 71, 67 và 63%) trong tổng số các loài của mỗi nhóm có phân bố ở Đông Nam Á. Các thành viên của các nhóm khác có ít loài hơn, như cu rốc (10 loài, họ Megalaimidae) và nuốc (3 loài, tông Harpactini), là các thành viên quan trọng trong các loài của Việt Nam. Các nhóm khác chỉ có một hoặc một vài loài đại diện, trong đó có ô tác (Houbaropsis bengalensis), là loài chim ôtit (họ Otididae) duy nhất có phân bố ở Đông Dương. Có 02 họ chim đặc hữu là họ Chim xanh (Chlorposeidae) và họ Chim lam (Irenidae). Cả hai họ này đều có đại diện tại Việt Nam.

Cúm núm hay còn gọi là gà nước, sống ở những cánh rừng tràm nội địa và sát biên giới Tây Nam, nhất là An Giang. Người miền Tây không lạ với loại chim rừng này, bởi nó được xem là món khoái khẩu của dân miệt vườn lẫn người thành thị. Cúm núm thuộc loài chim rừng, ăn uống theo thiên nhiên, thịt thơm Cúm núm tuy thân hình mộc mạc, thiếu bộ lông sặc sỡ nhưng bù lại tiếng kêu của nó phải thuộc hạng bậc thầy của các loài chim nước. Ở Việt Nam, tiếng kêu của cú mèo hay cú lợn đã bị mặc định là mang lại xui xẻo, là tiếng gọi vong hồn từ một nơi xa thẳm. Tiếng kêu oang oang vào buổi tối, đặc biệt lúc khuya khoắt là những cơ sở để nhiều người quan niệm cú báo điềm gở. Cú mèo và cú lợn là hai loài khác nhau. Chúng cũng thuộc hai họ riêng biệt, chỉ giống nhau về thời gian hoạt động, tập tính săn bắt mồi ban đêm và sống ở các vùng làng mạc, bìa rừng, một số ít ở thành thị. Thực chất, cú đóng vai trò là thiên địch trong việc săn bắt chuột, loài gặm nhấm phá hoại mùa màng, nông sản của người dân.

Bò sát

Các loài bò sát của Việt Nam nằm trong 3 bộ: nhóm rắn có nhiều loài (172 loài) và thằn lằn (110 loài) đều nằm trong bộ Squamata và nhóm rùa ít đa dạng hơn (với 34 loài thuộc bộ Testudines) và cá sấu (2 loài thuộc bộ Crocodilia). Số lượng các loài rắn đặc hữu có lẽ cao nhất ở các vùng núi, trong khi đó thằn lằn dường như có nhiều loài đặc hữu ở miền Nam, trong đó có 8 loài ở Côn Đảo ngoài khơi phía Đông Nam của Việt Nam. Số lượng loài rắn và thằn lằn phân bố đều ở các vùng đồng bằng và vùng núi của Việt Nam, trong khi đó rùa nhìn chung là các loài sống ở vùng đồng bằng và số lượng loài cao nhất tập trung trong môi trường sống này cả ở miền Bắc và miền Nam.

Các nhóm bò sát có số lượng loài cao nhất là tắc kè (họ Gekkonidae: 32 loài) và thằn lằn bóng (họ Scincidae: 42 loài), cả hai họ này đều là thằn lằn, và rắn nước (họ Colubridae: 130 loài), là nhóm rắn rất đa dạng. Các nhóm có số lượng loài thấp ở Việt Nam nhưng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các loài trên toàn cầu gồm có rắn mống (họ Xenopeltidae: cả 02 loài) và thằn lằn giun (họ Dibamidae: với 06 trong tổng số 19 loài). Chi thằn lằn chân ngón cũng là giống có nhiều loài mới được công bố nhất với khoảng hơn 30 loài mới được công bố trong 2 thập kỷ gần đây ở Việt Nam. Bò sát chiếm một phần đáng kể trong số các loài động vật có xương sống ở Việt Nam mà sự tồn tại của chúng trong tự nhiên bị đe dọa bởi việc khai thác nhằm mục đích buôn bán. IUCN liệt kê hơn 3 phần tư số lượng các loài rùa vào loại bị đe dọa toàn cầu, trong đó có 3 loài đặc hữu.

Thằn lằn

Việt Nam là quốc gia đa dạng về các loài thằn lằn trong đó có nhiều loài đặc hữu

  • Thằn lằn giun: Có 06 loài thằn lằn giun có phân bố ở Việt Nam trong đó có thằn lằn giun Côn Đảo (Dibamus kondaoensis) chỉ phân bố ở phía Đông Nam của Côn Đảo. Hai trong số với 7 loài mới được mô tả từ Việt Nam.
  • Thằn lằn chân ngón Đạt (Cyrtodactylus dati): ở huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
  • Thằn lằn chân ngón Kingsada (Cyrtodactylus kingsadai): ở vùng mũi Đại Lãnh thuộc tỉnh Phú Yên. Tên định danh loài được đặt theo tên của Phouthone Kingsada, người Lào, người chết vì sốt xuất huyết để vinh danh ông này.
  • Thằn lằn chân ngón Phước Bình (Cyrtodactylus phuocbinhensis): ở Vườn Quốc gia Phước Bình (Ninh Thuận)
  • Thằn lằn chân ngón Tây Nguyên (Cyrtodactylus taynguyenensis): huyện Kbang (Gia Lai).
  • Thằn lằn Phê-nô Shea (Sphenomorphus sheai): có kích cỡ rất nhỏ, sống dưới lớp thảm mục trong rừng thường xanh ở độ cao hơn 1000 m so với mực nước biển, thuộc cao nguyên Kontum - ở vùng giáp ranh giữa huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) và huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum).
  • Tắc kè Adler (Gekko adleri) Một loài tắc kè thuộc chi Gekko ở vùng núi đá vôi của tỉnh Cao Bằng (Việt Nam) và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Loài tắc kè mới này sống bám trên vách đá hoặc các kẽ nhỏ ở vùng núi đá vôi nên chúng ngụy trang bằng màu sắc rêu phong giống như vách núi đá vôi để tránh bị hiện.
  • Thạch sùng dẹp (Hemiphyllodactylus zugi) vùng núi đá vôi ở vùng huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Loài thạch sùng này sống ở vùng rừng trên núi đá vôi ở độ cao 450–600 m so với mực nước biển.
  • Nhông bách (Calotes bachae): một loài gặp khá thường xuyên trong vườn nhà khắp các tỉnh Tây nguyên và miền Nam Việt Nam.
  • Thạch sùng (Hemidactylus frenatus): Loài thường gặp trong nhà ở Việt Nam. Thạch sùng là một phần không thể thiếu đối với những căn nhà không khép kín vì chúng giúp hạn chế số lượng côn trùng, nhện, muỗi. Nhưng đôi khi chúng gây ra phiền toái vì ăn vụng thức ăn hoặc có phân mùi khó chịu.
  • Rắn mối (Dasia olivacea): Là loài bò sát có vảy, sống trên cây dương.

    Rùa

    Tổng cộng có 26 loài lùa cạn ở Việt Nam đã được mô tả cụ thể, trong đó có 01 loài rùa du nhập

  • Ba ba gai (Palea steindachneri) có mũi dài, mai có màu nâu đến xám với nhiều nốt sần không đều, yếm gần như trắng toàn bộ (có vài vết mờ hoăc lốm đốm), cá thể non có một viền trắng nhạt màu từ sau mắt đến đầu. Đặc điểm phân biệt rõ ràng với các loài ba ba khác là có các vết gấn da sần ở cổ, rìa trước và trên mai có nhiều nốt sần
  • Ba ba Nam Bộ (Amyda cartilaginea) hay còn gọi là cua đinh có mũi dài, mai màu nâu hoặc xám, khá nhẵn, đầu có các đốm màu vàng, yếm màu trắng, cá thể non có các chấm hoặc đốm màu vàng trên mai. Đặc điểm phân biệt rõ ràng với các loài ba ba khác là có các nốt sần dọc rìa trước của mai, trên lưng thường có những nốt sần tròn. Ba ba Nam Bộ đã được sách đỏ Việt Nam xếp vào loại nguy cấp, đang đứng trước nguy bị tuyệt chủng.
  • Ba ba trơn (Pelodiscus sinensis) có mũi dài, mai và thân màu nâu hoặc xám xanh, cá thể trưởng thành có yếm màu trắng hoặc vàng tươi kèm đốm màu đậm đối xứng, cá thể non có yếm màu cam. Phân biệt với ba ba gai và ba ba Nam bộ ở chỗ không có nếp da gấp ở cổ và nốt sần trên mai.
  • Giải (Pelochelys cantorii) không có mũi dài như ba ba, mặt giống loài ếch, mai hình tròn màu nâu, yếm trắng, vùng da quanh cổ kéo dài ra phía sau cùng với phần rìa trước của mai.
  • Giải sin-hoe hay rùa hồ Gươm (Rafetus swinhoei) có mai màu nâu đến xám, mũi ngắn hơn mũi ba ba, đầu và cằm màu vàng với các đốm hoặc vằn màu đậm, ở trên đỉnh có màu tối hơn.
  • Rùa ba gờ (Malayemys subtrijuga) có mai màu sẫm với ba gờ rõ ràng, đầu khá lớn với những sọc trắng quanh mắt, yếm cứng, màu vàng có đốm đen.
  • Rùa bốn mắt (Sacalia quadriocellata) có mai hình bầu dục màu xám đậm đến nâu, viền mai nhẵn, đầu có 4 mắt giả, mắt giả của cá thể đực màu xanh nhạt, mắt giả của cá thể cái và con non màu vàng, yếm cá thể cái màu vàng nhạt hoặc kem, yếm cá thể đực màu cam.
  • Rùa câm (Mauremys mutica) có mai màu nâu hoặc nâu gụ, đầu màu nâu xám, hai bên má màu vàng nhạt, trên đầu có hai sọc màu vàng nhạt, yếm màu vàng có các tấm đen ở mỗi tấm yếm.
  • Rùa cổ bự (Siebenrockiella crassicollis) có mai đen tuyền, đầu có một chấm lớn màu trắng nhạt phía sau mắt và một vài chấm mờ khác xung quanh miệng và cằm, yếm màu đen hoặc gần đen toàn bộ với các đốm đâm bao phủ mỗi tấm yếm.
  • Rùa cổ sọc (Mauremys sinensis) có mai màu xanh xám đến đen, đầu và chân trước có nhiều đường sọc mảnh đặc trưng, yếm có màu tối, mỗi tấm yếm có viền nhạt.
  • Rùa đất lớn (Heosemys grandis) có mai màu nâu đen, cá thể trưởng thành thường có một gờ màu vàng nhạt dọc sống lưng trên mai, đầu có những chấm cam và đen, yếm màu vàng, có khi có hình dẻ quạt tỏa ra từ góc tấm yếm.
  • Rùa đất Pulkin (Cyclemys pulchristriata) có mai màu xám đến nâu, rùa trưởng thành có sọc màu vàng nhạt hoặc vàng cam ở đầu và cổ, yếm vàng, có thể có sọc hoặc đốm, cá thể trưởng thành có bản lề trên yếm cho phép chúng đóng một phần cơ thể bên trong mai.
  • Rùa đất Sêpôn (Cyclemys oldhamii) có mai màu xám, nâu tối hoặc đen. Con trưởng thành có sọc màu vàng nhạt hoặc vàng cam ở cổ, yếm màu đen đặc trưng, có bản lề như rùa đất Pulkin.
  • Rùa đất Spengleri, còn gọi là rùa lá, rùa vàng Tam Đảo (Geomyda spengleri) có mai màu cam, nâu xám hoặc nâu nhạt, trên mai có ba gờ cao, viền sau mai có răng cưa, mắt lồi to, con ngươi tròn màu đen, yếm màu đen có hai vạch vàng hai bên.
  • Rùa đầu to (Platysternum megacephalum) có mai màu nâu đen, thuôn dài và dẹt, đầu rất to và không thể thụt vào mai, hàm trên kéo dài thành mỏ, đuôi dài gần bằng chiều dài thân. Con non có màu vàng cam và có sọc vàng nhạt trên đầu.
  • Rùa hộp ba vạch, còn gọi là rùa vàng (Cuora trifasciata) có mai màu nâu đỏ với ba vạch đen trên đỉnh, đỉnh đầu vàng nhạt với các sọc đen hai bên mặt, các chi và da thường có màu cam, tấm bản lề ở yếm cho phép rùa đóng một phần cơ thể bên trong mai.
  • Rùa hộp lưng đen (Cuora amboinensis) có mai hình vòm giống cái mũ bảo hiểm, màu đen, có soc vàng chạy từ mũi đến cổ, các đường sọc từ hàm và mắt ghép lại với nhau phía sau tai trước khi chạy xuống dưới cổ, yếm màu vàng, thường có chấm đen, có tấm bản lề cho phép rùa đóng kín cơ thể bên trong mai.
  • Rùa hộp trán vàng miền Bắc (Cuora galbinifrons) có mai màu vàng gồ cao với các hoa văn đen có hình dạng khác nhau tùy theo cá thể, đầu màu vàng có đốm đen, yếm màu đen có bản lề giúp đóng kín cơ thể trong mai.
  • Rùa hộp trán vàng miền Nam (Cuora picturada) có hình dáng bên ngoài tương tự rùa hộp trán vàng miền Bắc với mai gồ cao, yếm có bản lề. Điểm khác biệt là ở màu sắc mai nhạt hơn, ít hoa văn hơn, yếm vàng có chấm đen.
  • Rùa hộp trán vàng miền Trung (Cuora bourreti) cũng có bản lề ở yếm nhưng mai thuôn dài hơn, ít hoa văn hơn hai loài miền Bắc và miền Trung.
  • Rùa núi viền còn gọi là rùa xe tăng (Manouria impressa) có mai màu vàng nhạt đền nâu hoặc xám với các đường viền giống răng cưa ở viền mai trước và phía sau, các tấm trên mai phẳng hoặc lõm xuống, đầu lớn màu vàng nhạt đến xám đen, chân lớn, có vảy dày, yếm màu vàng, có thể có nhiều vệt đen, hai chân sau có hai cái cựa rất đặc trưng.
  • Rùa núi vàng, còn gọi là rùa đá, rùa gối (Indotestudo elongata) có mai dài gồ cao với màu vàng có đốm đen, đầu màu vàng thẫm, yếm cũng có màu vàng với các đốm đen.
  • Rùa răng (Heosemys annandalii) có mai thuôn dài màu xám đậm đến đen, đầu nhỏ màu vàng nhạt có các đốm đen, hàm có khứa hình răng đặc trưng, yếm đen có dải vàng ở giữa hoặc vàng với vệt đen phía ngoài.
  • Rùa sa nhân (Cuora mouhotii) có mai màu nâu nhạt đến vàng nhạt hoặc xám, dọc mai có ba gờ rõ ràng, đỉnh mai phẳng, thường có màu sáng hơn hai bên, cuối mai có rìa răng cưa, yếm màu vàng có vạch đen ở rìa xen lẫn các vạch tối màu, có tấm bản lề để đóng một phần cơ thể. Mắt rùa sa nhân có màu đỏ.
  • Rùa Trung Bộ (Mauremys annamensis) có mai màu nâu đen hình ô-van, không gồ cao, đầu có hai hoặc ba vạch màu vàng, một vạch đi qua mắt, yếm có những vệt đậm màu đối xứng trên từng tấm yếm và có viền vàng xung quanh.
  • Rùa tai đỏ (Trachemys scripta elegans) không phải rùa bản địa nhưng đã có mặt tại nhiều ao hồ ở Việt Nam. Chúng có mai màu xanh, vàng xám hoặc thẫm tối với nhiều hoa văn, sau hai mắt có vệt đỏ, yếm màu vàng có các đốm tối trên mỗi tấm yếm, cá thể non có màu xanh nhạt. Đây là một trong những loài xâm thực nguy hiểm được đề nghị trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam.

    Rắn

    nhỏ|phải|Rắn lục Vogel tại Vườn Quốc gia Tam Đảo Với đặc thù là vùng rừng nhiệt đới, Việt Nam là nơi cư ngụ của gần 200 loài rắn, mỗi loài đều có những đặc tính sinh thái và sắc màu khác nhau nhằm phù hợp với điều kiện và môi trường sống, trong đó có 53 loài rắn độc chủ yếu thuộc hai họ Rắn lục và họ Rắn hổ. Nhiều loài có nọc độc gây chết người chỉ sau thời gian ngắn. Các loài rắn độc thường gặp ở Việt Nam:

  • Rắn lục Von-gen (Viridovipera vogeli): Đỉnh đầu và thân của loài này màu xanh lục, phần bụng màu nhạt hơn. Chúng thường ăn đêm, sống ở trong bụi rậm, lùm cây thấp ở địa hình đồi núi có độ cao từ 900 m đến 1.500 m.
  • Rắn lục đầu bạc (Azemiops feae) có kích cỡ trung bình, đầu hơi dẹp phân biệt rõ với cổ. Chiều dài cơ thể khoảng 80 cm. Chúng sống trên các vùng núi cao lên tới 1.000 m.
  • Rắn lục Trùng Khánh (Protobothrops trungkhanhensis): dài khoảng 70 cm, khá nhỏ so với những loài thuộc chi Protobothrops. Chúng sống ở độ cao 500 – 700 m trong các khu rừng thường xanh và rừng mưa núi đá vôi nhiệt đới.
  • Rắn hổ mang Xiêm (Naja siamensis) hay còn gọi là rắn hổ mang bành, rắn hổ mang chúa. Chúng là loài rắn có nọc độc gây chết người. Nếu bị loài rắn độc này cắn thì chỉ khoảng 30 phút sau sẽ tử vong do chất độc làm suy hô hấp, dẫn đến ngạt thở và làm tê liệt hoạt động của cơ hoành. Rắn hổ mang chúa dẫn đầu bảng danh sách những loài rắn cực độc tại Việt Nam. Một con rắn hổ mang chúa trưởng thành có thể tạo ra 400 mg nọc độc nhưng 1 mg đã có thể giết 160 người.
  • Rắn biển (Hydrophiinae). Chúng thuộc nhóm rắn có nọc độc sinh sống trong môi trường biển. Các loài rắn biển thường có nọc độc mạnh. Tại Việt Nam các loài rắn biển có nhiều tên gọi khác như rắn đẻn, rắn đẻn biển.
  • Rắn cạp nong (Bungarus fasciatus) hay còn gọi là rắn cạp nia hoặc rắn mai gầm thuộc họ Rắn hổ (Elapidae). Đây là một trong những loài rắn cực độc, khi bị chúng cắn, nọc độc có thể giết chết nạn nhân chỉ trong vòng vài phút nếu không được cứu chữa kịp thời. Rắn cạp nong thường xuất hiện ở vùng núi Dinh (Đồng Nai). Con mồi và nạn nhân có thể bị chết trong vòng vài phút nếu không được cứu chữa kịp thời bởi nọc độc cực mạnh.
  • Rắn lục đuôi đỏ: xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam và gây ra những vụ tấn công đồng loạt trên khắp cả nước năm 2014, gây chấn động và hoang mang đối với dư luận. Loài rắn này mang trong mình lượng nọc độc khá lớn và có khả năng giết người chỉ sau loài hổ mang chúa. Bệnh nhân bị rắn lục đuôi đỏ cắn thường dẫn đến nhiễm trùng, rối loạn đông máu, gây nguy hiểm đến tính mạng.
  • Rắn biển kim hay còn gọi là đẻn biển (đầu nhỏ) có chất độc còn mạnh gấp mấy lần rắn hổ mang. Một giọt nọc độc của loài rắn biển kim này có thể giết chết hàng trăm người.
  • Rắn chàm quạp còn được gọi với cái tên khác là Khô mộc xà, xuất hiện ở vùng miền Đông Nam bộ và Campuchia. Nọc độc của loài rắn chàm quạp chỉ xếp sau loài rắn biển kim. Điều đó có nghĩa là với một phát cắn của loài rắn này, con mồi có thể chết ngay nếu không được cấp cứu kịp thời.
  • Rắn hổ mèo được mệnh danh là rắn hổ mang Đông Dương với khả năng phun độc cực xa trong cự li từ 1,5m đến 2m. Một phát cắn của loài rắn này có thể giết chết một người đàn ông vạm vỡ. Và, nếu nọc độc của loài rắn này bắn vào mắt thì có thể gây mù vĩnh viễn.
  • Rắn hổ bướm còn được xem là độc xà thứ ba của Việt Nam, loài này chỉ sống trên vùng vùng núi Trường Sơn. Loài rắn này to gần bằng một con trăn nhưng rất nhanh nhẹn và mang trên mình khoảng 200cc nọc độc.
  • Rắn hổ đất ở ấp Sơn An, xã Nam Thái, huyện Hòn Đất, Kiên Giang nặng 4,5 kg, được cho là lớn nhất từ trước tới nay ở vùng này. Các loài rắn có kích thước lớn ở Việt Nam
  • Trăn đất (Python molurus) có đầu dài, nhỏ, màu nâu xá là loài lớn nhất về kích thước, cân nặng trong các loài rắn tìm thấy ở Việt Nam. Một số cá thể phát hiện ở Vườn quốc gia U Minh đạt đến độ dài khoảng 8 m (kích thước trung bình khoảng từ 4 m đến 6 m) và nặng hơn 120 kg.
  • Trăn cộc (Python brongersmai): Là một loài rắn cỡ lớn. Trong số ba loài trăn thuộc chi Python phân bố ở Việt Nam thì trăn cộc Python brongersmai là loài có kích thước nhỏ nhất và cũng là loài hiếm nhất. Chiều dài cơ thể của Python brongersmai đạt tới 2 m.
  • Trăn gấm (Python reticulatus) là loài mãng xà cỡ lớn trong các loài rắn, có thể dài từ 6 m đến 7 m. Con non mới nở dài khoảng từ 60 cm đến 75 cm.

Một số loài rắn thường được nuôi nhiều ở Việt Nam:

  • Rắn ri voi hay rắn ri tượng: Rắn lứa đẻ theo rắn lứa từ 7- 10 con. Rắn nuôi được 1- 2 năm trở lên thì đẻ bình quân 25 con và tăng lên vào những năm sau
  • Rắn ri cá: Là loại dễ nuôi, nhẹ công chăm sóc, kháng bệnh tốt.
  • Rắn hổ mang (phì đen): Thức ăn chủ yếu là chuột và cóc. Đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao, hơn hẳn so với chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm khác. Rắn nuôi khoảng 2 – 3 kg thì xuất bán, với trọng lượng lên tới 3, 4 kg có thể bán
  • Rắn hổ hèo: Rắn cái thường có mình thon dần từ đầu đến đuôi, trong khi con đực có phần đuôi to hơn so với con cái, xã Thoại Giang thuộc huyện Thoại Sơn là vùng nuôi rắn hổ hèo nhiều nhất tỉnh An Giang. Trước đây, thị trường tiêu thụ mạnh nên giá thu mua luôn ở mức cao, lượng rắn nuôi trong dân quá nhiều, không những trong xã này mà cả tỉnh An Giang và nhiều tỉnh miền Tây, nơi đâu cũng nuôi rắn.
  • Trăn (chủ yế là trăn đất Python molurus): Nuôi trăn dễ, hao hụt ít, giá bán cao, có thể kiếm chuột cho trăn ăn
  • Rắn chúa săn chuột là loài bò sát sinh trưởng tự nhiên ở vùng Đông Á và Đông Nam Á. Vũ khí đáng sợ của chúng là khả năng bóp siết làm con mồi chết ngạt, tương tự như các loài trăn. Chúng còn có tên gọi là rắn hôi Đài Loan vì một tuyến sau hậu môn rất phát triển, phát tỏa ra mùi khó chịu khi bị quấy rối.
  • Rắn mống: Chỉ có hai loài thuộc họ Xenopeltidae và cả hai loài này đều phân bố tại Việt Nam: Rắn mống thường (Xenopeltis unicolor) có phân bố trên khắp vùng đất liền và các đảo của Đông Nam Á và phân bố khắp Việt Nam, Rắn mống Hải Nam (Xenopeltis hainanus) có phân bố hạn chế hơn ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ của Việt Nam và Nam Trung Quốc.
  • Rắn rầm ri có 02 loài rắn rầm ri có phân bố ở các vùng ven biển và đồng bằng ở miền Trung và Nam Việt Nam. Rắn rầm ri hạt (Acrochordus granulatus) chủ yếu sống ở biển, mặc dù chúng có thể chịu được nhiều loại độ mặn khác nhau, bao gồm cả nước ngọt. Rắn rầm ri cóc (Acrochordus javanicus) phân bố ở các phá, suối và các vực nước cố định khác. Chúng có khả năng chịu nước mặn thấp hơn, mặc dù chúng có thể chịu được nước lợ và thậm chí ra tận biển. Một số loài Rắn mới được phát hiện:
  • Rắn khiếm Cát Tiên (Oligodon cattienensis): ở vùng rừng Nam Cát Tiên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Loài rắn này có màu sắc khá đẹp với thân màu xám hoặc nâu, có một hàng đốm sáng màu chạy dọc sống lưng xen kẽ với các sọc ngang sẫm màu.
  • Rắn lục đầu bạc Kharin (Azemiops kharini) Đây là loài rắn lục đầu bạc thứ hai thuộc giống Azemiops và là loài rắn độc thứ 60 trong tổng số hơn 210 loài rắn được ghi nhận ở Việt Nam. Do có màu sắc đẹp nên loài Rắn lục đầu bạc là đối tượng bị săn bắt để nuôi làm cảnh ở nhiều nước trên thế giới mặc dù đây là loài rắn có nọc độc, tại Cao Bằng, Lạng Sơn và Vĩnh Phúc, ở độ cao từ 800 đến 1800 m.
  • Rắn khiếm Na-gao: vùng núi đá vôi ở vùng huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

    Lưỡng cư

    Các quần xã lưỡng cư ở Việt Nam, đặc biệt là ếch, cóc, nhái rất đa dạng, năm 1999 ghi nhận 100 loài, vào cuối năm 2004 tổng số loài đã tăng lên hơn gấp rưỡi số lượng loài đã biết, khoảng 250 loài. Hầu hết tất cả những loài mới được mô tả này đều có phân bố từ các vùng rừng thường xanh ẩm cận núi và trên núi ở miền Bắc Việt Nam và dọc theo dãy Trường Sơn. Có 15 loài lưỡng cư vào loại bị đe dọa toàn cầu

    Ếch nhái

    Ở Việt Nam, ếch nhái là nhóm có số lượng loài lớn nhất (55 loài) và đa dạng

👁️ 6 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
nhỏ|phải|Hệ động vật ở Ý **Hệ động vật** hay **quần thể động vật** là thuật ngữ sinh học chỉ về tất cả các mặt của đời sống động vật của bất kỳ khu vực cụ
right|thumb|[[Sao la (_Pseudoryx nghetinhensis_) phát hiện tại Việt Nam năm 1992]] **Hệ động thực vật hoang dã tại Việt Nam** có sự đa dạng sinh học độc đáo. Công tác bảo vệ bảo tồn và
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.
**Quan hệ Ba Lan–Việt Nam** là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào
**Quan hệ Việt Nam - Mông Cổ** là mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mông Cổ. Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán tại Ulaanbaatar và Mông Cổ cũng đã thiết
**Hệ động vật ở Mông Cổ** là tập hợp các quần thể động vật đang sinh sống tại Mông Cổ hợp thành hệ động vật ở quốc gia này. Đặc trưng của hệ sinh thái
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam** là những tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên môi trường) thuộc về Việt Nam, nằm trong lãnh thổ Việt Nam (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển
**Quan hệ song phương giữa Cộng hòa Hy Lạp và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** được thiết lập trên nền tảng ngoại giao hữu nghị, hợp tác ngày càng được mở rộng
**Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Vietnamese Rangers Corp_, **VNRC**) là đơn vị bộ binh cơ động của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là lực lượng tổng trừ bị
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Chuyến thăm Việt Nam của Barack Obama 2016** là một chuyến đi lịch sử, đánh dấu hai thập niên bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chiếc máy bay Air Force One
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
nhỏ|phải|Khẩu hiệu phản đối Trung Quốc ở Vũng Tàu **Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc lắp đặt giàn khoan thăm dò dầu khí HD-981** đã diễn ra trong tháng 5 năm 2014 (gần
**Tê giác một sừng Việt Nam** (Danh pháp khoa học: _Rhinoceros sondaicus annamiticus_) là một phân loài của loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) phân bố ở Việt Nam sống ở Việt Nam, Lào,
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại
Bài sơ lược sau đây cung cấp một cái nhìn tổng quan cũng như hướng dẫn chủ đề về Việt Nam: thumb|Vị trí của [[Việt Nam]] thumb|Bản đồ chạm nổi có thể phóng to của
Quốc huy Ấn Độ **Thủ tướng Ấn Độ thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Ấn Độ đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau và những chuyến
**Ngành chăn nuôi ở Việt Nam** là một bộ phận quan trọng cấu thành của nông nghiệp Việt Nam cũng như là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, tình hình
phải|thumb|Lao động Việt Nam được khai thác, đào tạo tại [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức năm 1982.]] **Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài**, thường gọi tắt là **Xuất khẩu lao động
Người **LGBT ở Việt Nam** bao gồm những người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và người chuyển giới. _LGBT_ là cụm từ viết tắt các chữ cái đầu gồm **_L**esbian, **G**ay, **B**isexual,
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Địa lí Việt Nam** là các đặc điểm địa lí của nước Việt Nam, một quốc gia nằm ở bên phía đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á. Tổng
Một đòn đá trong làng võ Tân Khánh Bà Trà. **Võ thuật Việt Nam** là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
nhỏ|phải|Chăm sóc cho ngựa thể hiện tình cảm gắn kết với động vật **Phúc lợi động vật** hay **quyền lợi động vật** (tiếng Anh: _Animal welfare_) theo nghĩa chung nhất là một thuật ngữ đảm
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
thế=Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long.|nhỏ|Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long. Thấy rõ
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Giải bóng đá Vô địch Quốc gia** (tiếng Anh: **V.League 1**, hiện tại còn được gọi là **LPBank V.League 1** vì lý do tài trợ) là giải đấu bóng đá chuyên nghiệp cấp câu lạc
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
nhỏ|327x327px|Phụ nữ Việt Nam thời kỳ [[Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)|chiến tranh (theo học ở Leipzig, Đông Đức).]] **Phụ nữ Việt Nam** là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển
thế=Ngọ Môn - Huế|nhỏ|Ngọ Môn, lối vào [[Hoàng thành Huế, nhìn từ phía điện Thái Hòa nhìn ra|317x317px]] **Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam** là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất
**Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines** là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12
nhỏ|phải|[[Tằm tơ|Tằm nhộng ở Việt Nam]] **Giống vật nuôi Việt Nam** chỉ về các giống vật nuôi có nguồn gốc, xuất xứ từ Việt Nam cũng như một số giống đã được nội địa hóa
**Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam** là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
**Internet tại Việt Nam** được coi như chính thức bắt đầu từ cuối năm 1997. Ngày 19 tháng 11 năm 1997 là ngày đầu Việt Nam được hòa vào mạng Internet toàn cầu. ## Lịch
**Quan hệ Lào – Việt Nam** hay còn được biết đến với tên thông dụng là **Quan hệ hữu nghị Việt – Lào** là mối quan hệ cấp đặc biệt, đồng minh chiến lược theo
Việt Nam không công nhận hôn nhân cùng giới, kết hợp dân sự, chung sống có đăng ký hay bất kỳ hình thức tương tự nào khác cho các cặp đôi cùng giới. Hiến pháp
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc