✨Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam
Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam là những tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên môi trường) thuộc về Việt Nam, nằm trong lãnh thổ Việt Nam (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển Việt Nam). Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam phong phú và có nhiều tiềm năng để khai thác, sử dụng như tài nguyên khí hậu, tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên biển và đa dạng sinh học (tài nguyên rừng Việt Nam, hệ thực vật Việt Nam, hệ động vật Việt Nam). Việt Nam là đất nước có đường bờ biển dài 3.260 km, hàng triệu km² thềm lục địa, hàng ngàn con sông, với rất nhiều sản vật, diện tích núi rừng chiếm đến 40% với những cánh rừng nguyên sinh, hệ động vật và thực vật vô cùng phong phú, nguồn tài nguyên khoáng sản cũng phong phú, nhiều chủng loại, trải dài từ Bắc chí Nam. Việt Nam có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo sẵn có gồm thủy điện quy mô nhỏ, năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng khí sinh học, nhiên liệu sinh học, năng lượng từ nguồn rác thải sinh hoạt, năng lượng mặt trời, và năng lượng địa nhiệt.
Hiện trạng tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực, nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam hiện nay đang bị thu hẹp cả về số lượng và chất lượng. Nguyên nhân chính dẫn tới thực trạng hiện này đó chính là do hoạt động khai thác bừa bãi, cùng với việc sử dụng tài nguyên lãng phí, và do công tác quản lý yếu kém, tham nhũng, lợi ích nhóm của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Tài nguyên rừng đang bị thu hẹp theo từng ngày, diện tích rừng tự nhiên che phủ giảm dần do khai thác chặt phá trái phép, đất rừng bị chuyển qua đất nông công nghiệp, các loài sinh vật quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng rất cao (ở Việt Nam có khoảng 100 loài thực vật và gần 100 loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng). Tình trạng ô nhiễm nguồn nước là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với tài nguyên nước. Tài nguyên khoáng sản đang cạn kiệt do việc khai thác quá mức và sử dụng lãng phí. Tài nguyên đất thì bị thu hẹp, bị nhiễm mặn, bạc màu, bị sa mạc hóa ngày một tăng. Các thế hệ tương lai của Việt Nam sẽ phải gánh chịu nhiều hậu quả do tài nguyên khoáng sản bị cạn kiệt.
Các loại tài nguyên
Đất đai
Việt Nam có hơn 39 triệu ha đất tự nhiên. Thống kê cho thấy, đến ngày 31 tháng 12 năm 2017, Việt Nam có 33.123,6 nghìn ha, diện tích đất đã được sử dụng vào các mục đích chiếm hơn 93% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, nhóm đất sản xuất nông nghiệp là 11508,0 nghìn ha (chiếm 34,74% tổng diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp 14910,5 nghìn ha (chiếm 45,01% tổng diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng là 1875,3 nghìn ha (chiếm 5,66% tổng diện tích đất tự nhiên) và 714,9 nghìn ha đất ở.
Sông Mê Công, sông Hồng, sông Thái Bình và sông Đồng Nai chiếm khoảng 80% tổng lượng tài nguyên nước Việt Nam. Việt Nam chiếm 8% diện tích của toàn lưu vực sông Mê Công, lượng nước chảy về Việt Nam khoảng hơn 5 tỷ m3, chiếm 57% tổng lượng nước mặt của Việt Nam. Sông Hồng–sông Thái Bình có diện tích lưu vực là 155.000 km2 và lượng chảy vào Việt Nam từ ngoài lãnh thổ là 137 tỷ m3. Lượng nước trung bình đầu người là 9.434 m3. Tuy nhiên, phần lớn tài nguyên nước Việt Nam lại nằm ngoài khả năng quản lý của quốc gia vì 2/3 tổng lượng nước chảy vào từ quốc gia thượng nguồn nên nguồn nước nội sinh của Việt Nam được đánh giá là thấp, mức bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 4.200 m3 so với con số trung bình là 4.900 m3 ở Đông Nam Á. Tài nguyên nước phân bố không đồng đều theo mùa, lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa mưa ngắn, các con sông thường đầy nước vào mùa mưa nhưng lại khô hạn vào mùa khô, rồi nguồn tài nguyên nước cũng phân bố không đều theo không gian. Theo dự báo, nhu cầu sử dụng quặng sắt cho ngành luyện kim trong nước năm 2015 khoảng 7,2 triệu tấn, năm 2020 khoảng 18 triệu tấn, năm 2025 khoảng 32 triệu tấn. Bên cạnh đó, trữ lượng quặng titan khoảng 650 triệu tấn (với khoảng 78 triệu tấn zircon), trong đó trữ lượng quặng titan có thể huy động vào khai thác khoảng 440 triệu tấn (với khoảng 52 triệu tấn zircon). Vàng có tổng trữ lượng khoảng 154 tấn, trong đó trữ lượng thăm dò chỉ đạt 42,7 tấn. Quan niệm không đúng về "rừng vàng biển bạc" vô tận, một đất nước được thiên nhiên ưu đãi đã giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức không đúng về thực trạng tài nguyên đất nước, có tâm lý chủ quan, ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Tài nguyên luôn là hữu hạn nên sống bám vào thiên nhiên dẫn đến còn động lực lao động và sáng tạo, tự lực tự cường và phải trả giá đắt như thiên tai khốc liệt, môi trường khắp nơi bị ô nhiễm trầm trọng, cuộc sống người dân đảo lộn. Ông từng nói: "Ta thường nói "rừng vàng biển bạc". Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất quý" (Bài nói tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi, ngày 31 tháng 8 năm 1963). Trong bài nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Hà Bắc, ngày 17 tháng 10 năm 1963, Ông nhấn mạnh: "Tục ngữ ta có câu "rừng vàng biển bạc". Gây rừng và bảo vệ rừng là rất cần thiết. Hiện nay tỉnh ta còn cái tệ phá rừng, thế thì khác nào đem vàng đổ xuống biển?". Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam không quan tâm đến bảo tồn vốn tự nhiên gây ra những rủi ro, thách thức tác động đến hệ sinh thái môi trường. Tình trạng làm dụng, lấn chiếm đất rừng tự nhiên, tình trạng khai thác quá đà nguồn tài nguyên không tái tạo khiến tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường. Nguồn tài nguyên thiên nhiên mà người Việt Nam còn lại chẳng bao nhiêu, ngay cả nguồn tài nguyên có lợi thế, khai thác giá rẻ là than cũng đã cạn kiệt. Đại đa số các mỏ tài nguyên cũng đã được cấp phép khai thác. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản còn nhiều bất cập, nên nguồn nguyên nhiên liệu để sản xuất vật liệu ngày càng khan hiếm.
Việt Nam có những lợi thế quan trọng về tài nguyên khoáng sản với hơn 1.000 mỏ lớn nhỏ đang được khai thác như than, sắt, titan, đá vôi xi măng, đá xây dựng nhưng nhiều loại tài nguyên khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết không nhiều đều nằm trong danh mục hữu hạn, công tác quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản yếu kém bất cập nên tình trạng khai thác bữa bãi thường xảy ra. Các mỏ nhỏ nằm phân tán ở các địa phương, đa số các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du và không được quản lý thống nhất, đồng bộ nên tình trạng thất thoát tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường càng trầm trọng, việc khai thác tài nguyên khoáng sản bằng công nghệ lạc hậu còn gây tình trạng mất rừng, xói lở đất, bồi lắng và ô nhiễm sông suối, ven biển.
Ngành công nghiệp khai thác than của Việt Nam đã có truyền thống hơn 100 năm và vùng than Quảng Ninh là khu vực tập trung của ngành công nghiệp này. Mỏ lộ thiên càng phải xuống sâu và mở rộng hơn, các mỏ hầm lò phải mở thêm các lò chợ mới. Quặng man gan có trữ lượng nhỏ, phân bổ rải rác trên địa bàn nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung, việc khai thác diễn ra khá phức tạp và ở nhiều nơi, các địa phương giáp với Trung Quốc. Đối với vàng sa khoáng do hàm lượng vàng phân bố không đều, phương pháp quản lý không tốt nên hiệu quả kinh tế thấp. Hoạt động khai thác khoáng sản tạo những mặt tiêu cực như việc khai thác bừa bãi tài nguyên khoáng sản, gây thất thoát và lãng phí tài nguyên, nhiều cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, du lịch bị ảnh hưởng. Một số khu vực khoáng sản bị khai thác trái phép kéo theo các tệ nạn xã hội phát triển. Một số doanh nghiệp khai thác khoáng sản do chạy theo lợi nhuận xuống cấp hoặc phá hỏng các công trình dân sinh đã làm cơ sở hạ tầng, gây bụi và tiếng ồn làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên của nhân dân, hàng năm tai nạn nghiêm trọng, chết người và số lao động bị bệnh nghề nghiệp gia tăng.
Tiêu cực
Vấn nạn nảy sinh tham nhũng, tiêu cực trong việc cấp phép khai thác diễn ra tràn lan và tùy tiện. Trong hàng nghìn giấy phép khai thác đã được cấp, có nhiều giấy phép được cấp khi chưa có điều tra, khảo sát kỹ lưỡng. Việc cấp phép không qua đấu giá, không đúng thẩm quyền, không đánh giá tác động môi trường, cấp không đúng đối tượng, nhiều nhóm không hoạt động trong lĩnh vực khai thác, không có nhân lực, trang thiết bị, lại được cấp phép và sau đó "sang tay", chuyển nhượng để thu lợi. Tình trạng cấp giấy phép tràn lan của các địa phương cho thấy sự câu kết giữa các "nhóm lợi ích" trong thực thi chính sách khai thác tài nguyên Từng địa phương vẫn tồn tại cơ chế tự phát, địa phương giao cho một số doanh nghiệp sân sau khai thác ké doanh nghiệp Nhà nước và cùng khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản xuất hiện. Khoáng "tặc", "thổ phỉ" kéo theo các hậu quả nghiêm trọng như tàn phá môi trường, làm thất thoát, lãng phí tài nguyên. Riêng đối với hoạt động khai thác cát sỏi làm vật liệu xây dựng, tình trạng khai thác trái phép, khai thác vượt quá công suất cho phép vẫn diễn ra gây xói lở bờ sông, ảnh hưởng môi trường và đời sống của người dân.
Chính sách, luật pháp về khai thác, bảo vệ tài nguyên khoáng sản rất nhiều bất cập với những lỗ hổng cho các "nhóm lợi ích" lách luật. Khi một số khu vực khai thác khoáng sản được thực hiện theo cơ chế chỉ định, chủ đầu tư được quyền khai thác mà không phải đấu giá, thì quyền xác định khu vực nào không phải thực hiện đấu giá khai thác khoáng sản có thể là một bước đi có tính toán của "nhóm lợi ích" trong việc cấp phép khai thác khoáng sản cho nhà đầu tư đã được chỉ định. Luật Khoáng sản năm 2011 lại không quy định về định giá khoáng sản, định giá mỏ, không quản lý giá trị khoáng sản và quản lý đấu giá khoáng sản. Việc thất thoát và lãng phí tài nguyên luôn có nguyên nhân từ các "lợi ích nhóm". Nhiều cá nhân, doanh nghiệp tư nhân và quan chức làm giàu từ tài nguyên quốc gia và khai thác khoáng sản ở mức báo động. Hậu quả của quá trình này khiến nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt. "Lợi ích nhóm" tiêu cực có mặt trong nhiều hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều tỉnh, thành phố qua việc khai thác trái phép. Vấn nạn "nhóm lợi ích" trong lĩnh vực này chưa thật hiệu quả, nếu không nói là đang ở trong tình trạng "báo động đỏ"..