✨Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
nhỏ|300x300px|Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở Thành phố Hồ Chí Minh (2010) Biến đổi khí hậu ở Việt Nam sẽ dẫn đến một thực trạng, trong những thập kỷ tới, Việt Nam sẽ nằm trong số các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu. Một số lượng lớn các nghiên cứu cho thấy Việt Nam đang trải qua biến đổi khí hậu và sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng trong những thập kỷ tới. Những tác động tiêu cực này bao gồm mực nước biển dâng, xâm nhập mặn và các vấn đề thủy văn khác như lũ lụt, diễn biến cửa sông, bồi lắng cũng như tần suất gia tăng của các thiên tai như sóng lạnh, triều cường đều sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và kinh tế của đất nước bao gồm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng đường bộ, v.v.
Một số vấn đề như sụt lún đất (do khai thác nước ngầm quá mức) làm trầm trọng thêm một số tác động mà biến đổi khí hậu sẽ mang lại (mực nước biển dâng), đặc biệt là ở các khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long. Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và người dân đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để giảm thiểu và thích ứng với tác động.
Bối cảnh
Sự gia tăng nồng độ các khí nhà kính như carbon dioxide, mêtan và dinitơ monoxit trong khí quyển đã gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu do con người gây ra, đã thu hút sự chú ý rộng rãi của cộng đồng và quốc tế. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) là một tổ chức liên chính phủ liên kết với Liên Hợp Quốc, được thành lập vào năm 1998 bởi Tổ chức Khí tượng Thế giới và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc, để nghiên cứu biến đổi khí hậu gây ra bởi các hoạt động của con người. Báo cáo của IPCC năm 2014 cho rằng biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ có tác động lớn đến một số lượng lớn các quốc gia, điều này bất lợi cho các khu vực có khả năng thích ứng kém và điều kiện tự nhiên mong manh bất thường. Thật không may, Việt Nam được IPCC xác định là một trong những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu do có bờ biển rộng, đồng bằng và đồng bằng ngập lụt rộng lớn, vị trí nằm trên đường đi của bão cũng như dân số nghèo đói lớn.
Khí thải nhà kính
Mặc dù Chính phủ đã ban hành các chính sách hạn chế phát thải khí nhà kính nhưng nhiều người cho rằng Việt Nam khó đạt được mục tiêu giảm thiểu.
Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất thế giới. Mức độ của các hạt không an toàn tương tự như ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp ở Trung Quốc. Quỹ Tiền tệ Quốc tế báo cáo rằng lượng khí thải khí nhà kính của Việt Nam sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2030, về cơ bản vì sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để phát điện.
Than đá
Than đá hiện chiếm 35% nguồn cung năng lượng sơ cấp của cả nước, cao hơn mức 15% của năm 2000. Đến năm 2035, nhu cầu than của Việt Nam có khả năng tăng gần 2,5 lần. Do ít sản phẩm thay thế được áp dụng, quốc gia này sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào than nhập khẩu và sẽ khó đạt được mục tiêu giảm 8% vào năm 2030.
Hơn nữa, sự thay đổi nhiệt độ tối đa ở Việt Nam dao động trong khoảng từ −3 °C đến 3 °C. Sự thay đổi của nhiệt độ tối thiểu chủ yếu dao động trong khoảng từ -5 °C đến 5 °C. Cả nhiệt độ tối đa và tối thiểu đều có xu hướng tăng, trong đó nhiệt độ tối thiểu tăng nhanh hơn nhiệt độ tối đa, phản ánh xu hướng nóng lên của khí hậu toàn cầu. thumb|Vào tháng 6 năm 2012, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, người dân lội bộ trên con đường ngập lụt. Đợt lũ lụt bùng phát ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam đã khiến 16 người thiệt mạng và 38 người bị thương.
Mực nước biển dâng
Một hậu quả đáng báo động là mực nước biển dâng và xâm thực nước biển, với sự rút lui của bờ biển, xói mòn bờ biển, xâm nhập mặn liên quan đến chúng. Ngoài ra, các học giả cũng cảnh báo rằng các vấn đề thủy văn khác sẽ xuất hiện, chẳng hạn như lũ lụt, tiến hóa cửa sông, bồi lắng. Tần suất xoáy thuận nhiệt đới, triều cường, sóng thần và các thiên tai khác cũng sẽ tăng lên ở các mức độ khác nhau.
Mực nước quan trắc tại các máy đo ven biển Việt Nam cho thấy mô hình thay đổi của mực nước biển trung bình năm là khác nhau qua các năm (bắt đầu từ năm 1960). Hầu hết tất cả các trạm đều cho thấy xu hướng ngày càng tăng. Dựa trên dữ liệu thu thập từ các trạm quan trắc, mực nước biển dâng trung bình dọc theo khu vực ven biển Việt Nam là khoảng 2,8 mm / năm trong giai đoạn 1993–2008. Mặc dù mức độ và tốc độ của các xu hướng như vậy vẫn chưa rõ ràng, nhưng có đủ sự chắc chắn về phạm vi của các tác động có thể xảy ra. Tác động sâu rộng và rõ ràng nhất là đối với tăng trưởng kinh tế, có thể được quan sát thấy trong một số lĩnh vực.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể giảm 10% trong năm 2021 do biến đổi khí hậu. Đường bờ biển của Việt Nam dài 3.200 km và 70% dân số sống ở các vùng ven biển và đồng bằng trũng. Do sự tập trung dân số và tài sản kinh tế của đất nước ở những khu vực dễ bị ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sản xuất công nghiệp và tăng trưởng kinh tế có thể là không thể tưởng tượng được. Mực nước biển dâng 1m sẽ làm ngập một phần 11% dân số và 7% đất nông nghiệp. nhỏ|Thay đổi sản lượng cây trồng năm 2050 do biến đổi khí hậu không thích ứng (triệu tấn) Sẽ có nhiều diện tích đất trồng trọt bị ngập trong mùa mưa và xâm nhập mặn gia tăng vào mùa khô do sự kết hợp của mực nước biển dâng và lũ sông dâng cao hơn. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, ước tính có khoảng 590.000 ha diện tích lúa có thể bị mất do ngập úng và xâm nhập mặn, chiếm khoảng 13% sản lượng lúa hiện nay của vùng.
Nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, là một nguồn tạo việc làm và thu nhập nông thôn quan trọng. Người ta ước tính rằng khoảng 2,8 triệu người đang làm việc trong lĩnh vực này, trong khi doanh thu xuất khẩu dự kiến đạt khoảng 2,8 tỷ đô la trong năm 2010. Nhiệt độ cao hơn, tần suất gia tăng của bão, nước biển dâng và các tác động khác của biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến sinh lý và sinh thái của cá cũng như hoạt động của nuôi trồng thủy sản. Một số loài cá, chẳng hạn như cá da trơn, có thể phát triển nhanh hơn với nhiệt độ cao hơn nhưng dễ bị bệnh hơn. Trong khi đó, các tác động chính của biến đổi khí hậu đối với nuôi trồng thủy sản dường như là hậu quả của việc gia tăng ngập lụt và nhiễm mặn.
Sức khỏe
Khí hậu nóng lên sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự lây lan của nhiều bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là sự xuất hiện và lây lan của các bệnh do côn trùng gây ra như sốt rét, viêm não vi rút và sốt xuất huyết. Khi nhiệt độ của mặt biển tăng lên, tỷ lệ mắc bệnh truyền qua thủy vực cũng sẽ tăng lên. Bà Trần Thị Giáng Hương, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Y tế Việt Nam, cho biết năm 2017 "từ năm 2030 đến năm 2050, biến đổi khí hậu sẽ gây ra hàng năm 250.000 người chết vì suy dinh dưỡng, sốt rét, tiêu chảy và sốc nhiệt. "trên toàn cầu, theo Tổ chức Y tế Thế giới.
Tác động đến các nhóm yếu thế
Bất bình đẳng giới tồn tại dưới tác động của biến đổi khí hậu. Tính dễ bị tổn thương về kinh tế - xã hội của phụ nữ nghèo nông thôn thường bị ảnh hưởng bởi tính dễ bị tổn thương của biến đổi khí hậu; biến đổi khí hậu thường làm tăng thêm bất lợi về giới của họ. Thời tiết khắc nghiệt do biến đổi khí hậu gây ra, chẳng hạn như nhiệt độ cao, sóng lạnh và lũ lụt, làm tăng gánh nặng lao động của phụ nữ; các bệnh truyền nhiễm do nhiệt độ ấm hơn làm suy giảm sức khỏe của phụ nữ. Vì phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi do tiếp cận với các nguồn lực từ gia đình và xã hội, nên cần nâng cao nhận thức của phụ nữ về biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. tổ chức đào tạo kiến thức môi trường và các cuộc thi kiến thức, hơn nữa, thực hiện các dự án nâng cao năng lực ứng phó với thiên tai của phụ nữ.
Chính sách và luật pháp
Theo nghĩa vụ báo cáo của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Việt Nam đã ban hành sáng kiến quốc gia sơ bộ vào tháng 12 năm 2003, với danh sách cơ bản về phát thải khí nhà kính, các giải pháp giảm thiểu trong lĩnh vực năng lượng, lâm nghiệp và nông nghiệp, và đánh giá các biện pháp thích ứng cuối cùng.
Để ứng phó với các tác động khác nhau, các biện pháp khác nhau. Để đối phó với hậu quả trực tiếp của Nước biển dâng, chính quyền đề xuất các biện pháp bao gồm bảo vệ toàn diện: gia cố và nâng cao các kè trên toàn quốc; Nâng cao nhà ở trên mực nước lũ cũng như rút nước: "ngăn chặn" tác động của nước biển dâng bằng cách rời khỏi các khu vực ven biển và rút vào đất liền.
Về nông nghiệp, các chương trình của chính phủ cũng như nông dân địa phương có thể được chia thành ba khía cạnh:
- Các biện pháp ngắn hạn: Chống xói mòn đất, bảo vệ đất, chủ động tưới tiêu cho cây trồng, lựa chọn cây trồng phù hợp với biến đổi khí hậu, v.v.
- Các biện pháp lâu dài: Áp dụng các mô hình cây trồng phù hợp với biến đổi khí hậu, tạo ra các loài mới, hiện đại hóa kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, v.v.
- Thực hành quản lý và thu hoạch: Phân bố lại sản xuất cây trồng và vật nuôi trong vùng để phù hợp hơn với điều kiện khí hậu thay đổi, cung cấp thêm các khuyến khích cho nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, v.v.
Ngoài NTP-RCC, Chính phủ Việt Nam đã và đang hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế khác. Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam đang chủ trì 58 chương trình, dự án nước ngoài hỗ trợ Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu, với cam kết gần 430 triệu USD, bao gồm tài trợ của Ngân hàng Thế giới, Chính phủ Hà Lan và Chính phủ Đan Mạch. Trong những năm gần đây, các cơ chế hợp tác quốc tế liên quan đến các vấn đề khí hậu xuất hiện. Cơ chế hợp tác Lancang-Mekong, là một cơ chế giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mekong (bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam) nhằm cùng nhau tăng cường tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đối phó với biến đổi khí hậu và nước phân bổ tài nguyên liên quan đến nó.
Xã hội và văn hoá
Chủ nghĩa tích cực
Việc xây dựng và thực hiện các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu là rất khắt khe và phức tạp vì nó liên quan đến một số ngành khoa học, các bên liên quan và những người ra quyết định. Liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, có nhiều tiếng nói khác nhau, chẳng hạn như chỉ trích các biện pháp của chính quyền, kêu gọi người nông dân, phụ nữ chú trọng hơn, v.v. Điều này không chỉ do các phương pháp khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã áp dụng, các nguồn khác nhau, cho các mục đích khác nhau, và cũng do sự phân hóa tồn tại ở các vùng khác nhau, điều kiện địa lý khác nhau, tình trạng và quan hệ chính trị và kinh tế khác nhau, giới tính khác nhau, v.v.
Chỉ trích phản ứng của Chính phủ
Có những người chỉ trích khác về chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu của chính phủ. Một số người tin rằng cho đến nay các chính sách của chính phủ tập trung vào đánh giá toàn ngành cho cả nước vào các biện pháp thích ứng "cứng" - chẳng hạn như đê biển, cơ sở hạ tầng được gia cố và các tòa nhà lâu bền. Các biện pháp thích ứng "mềm" như tăng cường năng lực thể chế hoặc vai trò của hành động tập thể và vốn xã hội trong việc xây dựng khả năng chống chịu còn ít được chú ý. Các dự án của chính phủ là một phần và có vấn đề theo một số cách. Vấn đề đầu tiên nằm ở thiết kế của quy trình. Nó chủ yếu dựa trên các phân tích hẹp về thông tin chính thức mà "hầu hết vẫn mù mờ về các mối quan hệ quyền lực", điều này nhất thiết sẽ định hình việc hoạch định chính sách về biến đổi khí hậu. Thứ hai, các biện pháp của chính phủ thực sự làm tăng tính dễ bị tổn thương của người dân nghèo đối với biến đổi khí hậu. Ví dụ, việc tư nhân hóa rừng ngập mặn được coi là nguyên nhân chính làm gia tăng bất bình đẳng trong thời gian dài ở Xuân Thủy. Nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long có nhận thức khác nhau về biến đổi khí hậu do kiến thức, nguồn thông tin của họ, v.v. Điều quan trọng, các quyết định thích ứng không phù hợp có thể dẫn đến nhận thức sai lệch.
Khi nông dân nhận được thông tin về các biện pháp thích ứng từ bạn bè, người thân, hàng xóm của họ hoặc các nguồn khác (ví dụ như Internet, các công ty thuốc trừ sâu và các linh mục), điều này ảnh hưởng đến đánh giá thích ứng của họ. Ngược lại, không có ảnh hưởng đáng kể của thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng và chính quyền địa phương. Nguồn và chất lượng thông tin là đặc biệt quan trọng và mong đợi sự cải thiện cả khả năng tiếp cận và tính hữu ích của các dịch vụ địa phương. Nâng cao kiến thức của nông dân về những vấn đề này nên là trọng tâm trước của các cơ quan chức năng ở Đồng bằng sông Cửu Long nhằm thúc đẩy các hành vi thích ứng.
Một số người cho rằng các chính sách và chương trình hiện hành có những khiếm khuyết nhất định, bỏ qua những nhóm yếu thế. Do đó, có một số ý kiến cho rằng cần nhấn mạnh các giải pháp thích ứng nhằm giảm nghèo và tăng khả năng chống chịu của hộ gia đình hoặc lồng ghép biến đổi khí hậu vào quy hoạch phát triển.