✨Truyền hình ở Việt Nam

Truyền hình ở Việt Nam

nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] Truyền hình ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây), với sự xuất hiện của Đài Truyền hình Sài Gòn. Đến năm 1970, tại miền Bắc, Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng thử nghiệm chương trình truyền hình đầu tiên. Cuối những năm 1970, truyền hình màu được giới thiệu và phát sóng thử nghiệm. Ngày nay, truyền hình tại Việt Nam có mặt dưới nhiều phương thức phát sóng, với nhiều kênh truyền hình quốc gia và địa phương, phát sóng quảng bá hoặc trả tiền với hơn 200 kênh truyền hình có sẵn cho người xem. Việt Nam đã hoàn thành số hoá truyền hình mặt đất vào ngày 28 tháng 12 năm 2020.

Truyền hình tại Việt Nam được coi là một loại hình báo chí, quản lý theo Luật báo chí bởi Bộ Thông tin và Truyền thông, theo đó luật không cho phép các doanh nghiệp tư nhân sở hữu đài truyền hình, nhưng "được phép liên kết trong hoạt động báo chí với cơ quan báo chí khác, pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh phù hợp với lĩnh vực liên kết", cho phép các đơn vị tư nhân hợp tác với các đài truyền hình do chính phủ điều hành, tạo nên chủ trương xã hội hoá truyền hình.

Truyền hình hiện là một trong những kênh truyền thông đại chúng lớn nhất tại Việt Nam, khi các khảo sát cho thấy cứ 10 người thì có 8 người xem truyền hình hàng ngày. Tuy nhiên, truyền hình đang bị thách thức bởi các loại hình truyền thông mới, khi chứng kiến sự sụt giảm trong doanh thu của các đài phát thanh truyền hình cũng như sự dịch chuyển của khán giả sang các dịch vụ như video theo yêu cầu hay mạng xã hội trên internet.

Lịch sử

Giai đoạn 1965–1975

Tại miền Nam

Truyền hình được giới thiệu lần đầu vào tháng 10 năm 1959 tại miền Nam Việt Nam trong một hội chợ triển lãm ở Sài Gòn. Trong chương trình thử nghiệm này, các nghệ sĩ ngồi trong phòng thu hình vi âm quân đội, khán giả được theo dõi qua hai màn ảnh đặt tại trung tâm triển lãm từ 19:30 đến 20:30 mỗi ngày. Tuần báo Điện ảnh ra tháng 11 năm 1959 cho rằng: “Một khi đài vô tuyến truyền hình được thành lập, chúng tôi tin rằng sẽ có rất nhiều người bỏ tiền ra mua máy để hằng ngày được theo dõi, đón coi những chương trình của vô tuyến truyền hình.”

Năm 1965, Đài Truyền hình Sài Gòn (THVN), đài truyền hình đầu tiên của Việt Nam được thành lập. Ngày 22 tháng 1 năm 1966, chương trình truyền hình đầu tiên được phát sóng, và sau đó chính thức phát sóng tại miền Nam vào ngày 7 tháng 2 cùng năm. Đài phát hình đen trắng với tiêu chuẩn kỹ thuật truyền hình hệ FCC, điều tần tiếng 4,5 MHz.

Trong thời gian đầu, do chưa có tháp truyền hình nên việc phát sóng được thực hiện bằng kỹ thuật stratovision (dùng trực thăng để phát sóng). Các chương trình, kể cả tin tức, đều được thu vào băng từ rồi được chuyển lên máy bay Super Constellation bốn động cơ. Mỗi tối, máy bay này chở trang thiết bị rời sân bay Tân Sơn Nhất tới độ cao ổn định 3.150 m tại một địa điểm phía đông nam Sài Gòn khoảng 32 km, rồi từ đó bay theo một lộ trình không đổi, lặp lại mỗi đêm với tốc độ ổn định là 271 km/h. Sóng truyền hình từ trực thăng có thể thu được ở những nơi xa Sài Gòn như Đà Nẵng, Cà Mau hoặc Phnom Penh, nhưng chỉ Sài Gòn và các tỉnh lân cận mới có chất lượng hình ảnh và âm thanh tốt nhất. nhỏ|289x289px|Trụ sở Đài Truyền hình Quân đội Mỹ tại Việt Nam (AFVN) và Đài Truyền hình Việt Nam Cộng hoà nằm ở góc Hồng Thập Tự - Cường Đế, Sài Gòn. Cùng lúc với việc thiết lập THVN, hệ thống phát thanh - truyền hình của Quân đội Mỹ, lúc đó đang chiếm đóng tại miền Nam Việt Nam, cũng hình thành. Đài này lúc đầu gọi là AFRTS (American Forces Radio and Television Service), đến năm 1967 đổi thành AFVN (American Forces Vietnam Network). Đài phát bằng tiếng Anh trên băng tần số 11, đối tượng phục vụ chính là binh lính Mỹ đang làm việc tại miền Nam.

Sau đó, AFVN tiến hành xây dựng tháp truyền hình tại số 9 Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), cũng là trụ sở chính của đài. Ngày 25 tháng 10 năm 1966, tháp truyền hình đầu tiên của Việt Nam được hoàn thành và đưa vào sử dụng, thay thế cho việc phát sóng bằng máy bay trực thăng trước đó. Tháp cao 128m, là nơi đặt anten phát sóng Kênh 9 (FCC) 25 kW của THVN (được gọi là THVN9 từ đó), Kênh 11 và FM 99.9 MHz của AFVN.

Ngoài Đài phát chính ở Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa còn có bốn đài truyền hình địa phương ở Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Cần Thơ.

Đến năm 1972, Truyền hình Đắc Lộ được thành lập, đây là một hãng truyền hình tư nhân thuộc Giáo hội Công giáo VNCH, do các tu sĩ Dòng Tên điều hành. Truyền hình Đắc Lộ không có kênh phát sóng riêng mà chỉ sản xuất các chương trình khoa giáo để phát sóng trên THVN9, tập trung vào nội dung giáo dục, phổ biến kiến thức cho người dân, đặc biệt là những người nghèo.

Tại miền Bắc

Trong khi phạm vi truyền hình của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn ở phía Nam ngày một đươc tăng cường, truyền hình hoàn toàn chưa xuất hiện tại miền Bắc. Theo lời kể của nhà báo Hoàng Tùng, vào những năm 1960, mỗi lần đi công tác nước ngoài, được xem truyền hình của các nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cán bộ chuẩn bị mọi điều kiện để xây dựng ngành truyền hình. Thực hiện ý tưởng đó, Xưởng phim Vô tuyến truyền hình Việt Nam đã được thành lập tháng 1 năm 1968, trực thuộc Tổng cục Thông tin, có nhiệm vụ sản xuất phim vô tuyến truyền hình (16 mm) để gửi cho các đài truyền hình nước ngoài, nội dung chủ yếu về chiến tranh Việt Nam, đồng thời chuẩn bị xây dựng ngành truyền hình.

Năm đó, trong một lần tiếp khách quốc tế, Hồ Chí Minh đã hỏi nhà quay phim Phan Thế Hùng: "Bao giờ các chú cho nhân dân ta được xem truyền hình?" , bởi nếu chỉ làm phim gửi ra nước ngoài thì chưa đủ, đã là truyền hình thì phải phát sóng để mọi người dân được xem. Chính phủ thậm chí từng có dự định cho Tổng cục Thông tin một khoảnh đất ở gần Chùa Bộc (Hà Nội) để xây dựng đài truyền hình, song việc ấy đã không thực hiện được.

Để chuẩn bị cho việc phát sóng truyền hình thử nghiệm, một đội chuẩn bị làm truyền hình được thành lập với yêu cầu xây dựng hạ tầng kỹ thuật truyền hình tối thiểu gồm trường quay với camera điện tử, máy phát sóng truyền hình, ăng ten phát sóng, máy thu hình. Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) đã cử một số cán bộ sang Cuba và các nước xã hội chủ nghĩa học làm truyền hình. Ở trong nước, VOV phát động làm thí nghiệm truyền hình bằng những thiết bị phát thanh cải tiến (chuyển hai máy phát thanh thành một máy phát hình, một máy phát tiếng) và tự lắp ráp hai máy ghi hình bằng ống thu hình (super orthicon) đã qua sử dụng xin của Đài Truyền hình Moskva (thuộc Liên Xô cũ). Tên gọi này bắt nguồn từ tên loại súng “ngựa trời”, súng tự chế của quân Giải phóng miền Nam dùng trong chiến đấu. Hai chiếc camera lần lượt mang số hiệu NT1, NT2, có thể cho ra hình ảnh dù có một số tính năng chưa hoàn thiện.

Ngày 7 tháng 9 năm 1970, từ phòng thu M ở số 58 phố Quán Sứ, VOV đã phát sóng tín hiệu truyền hình đầu tiên; sang năm 1971 thì thành lập Ban biên tập Vô tuyến truyền hình, tiền thân của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) hiện nay. Ngày 30 Tết Tân Hợi (27 tháng 1 năm 1971), VOV phát đi chương trình truyền hình đầu tiên, gọi là "chương trình truyền hình thử nghiệm" phục vụ khán giả Hà Nội. Do chưa có thiết bị lưu trữ nên các chương trình đều được phát sóng trực tiếp. Đến năm 1972, việc phát sóng bị gián đoạn do chiến sự leo thang và Đài Tiếng nói Việt Nam bắt buộc phải sơ tán, trước khi truyền hình phát sóng trở lại năm 1973.

Giai đoạn 1975–1990

Tại miền Nam, sau khi Hiệp định Paris 1973 được thi hành, đài AFVN chấm dứt hoạt động; tất cả máy móc và trang thiết bị được bàn giao cho THVN9. Mạng lưới của THVN9 vì thế đã mở rộng ra toàn Việt Nam Cộng hòa. Đài chấm dứt hoạt động vào đêm ngày 29 tháng 4 năm 1975, một ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. Sau khi Sài Gòn được giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng A đã cùng Đài giải phóng B miền Đông Nam Bộ tiếp quản toàn bộ hệ thống phát thanh, truyền hình của chế độ cũ để lại. Đài Truyền hình Sài Gòn được đổi tên thành Đài truyền hình Giải phóng; phát sóng trở lại vào tối ngày 1 tháng 5 năm 1975. Cùng lúc đó, Truyền hình Đắc Lộ trở thành cơ sở 2 của Đài Truyền hình Giải phóng, và hoạt động trở lại vào ngày 3 tháng 10 năm 1975. Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Sài Gòn chính thức được đổi tên thành TP. Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình Giải phóng được đổi thành Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV).

Ở miền Bắc, năm 1976, Trung tâm Truyền hình được xây dựng tại Giảng Võ (Hà Nội), từ đây truyền hình bắt đầu được phát sóng hằng ngày cùng với việc xây dựng tháp truyền hình ở cột 1200 tại Tam Đảo; đến năm 1977, Ban biên tập Vô tuyến truyền hình tách khỏi Đài Tiếng nói Việt Nam, thành lập Đài Truyền hình Trung ương (THTƯ) và chuyển trụ sở tới đây.

Năm 1976, Đài Truyền hình TP.HCM đã thử nghiệm phát hình màu. Hai năm sau, tháng 9 năm 1978, Đài THTƯ cũng đã bắt đầu thử nghiệm truyền hình màu (hệ SECAM) với thời lượng giới hạn nhằm mục đích thử nghiệm, phục vụ một số lượng hạn chế các máy thu hình màu hiện có của khán giả vào thời điểm đó..

Với vai trò là đài khu vực Nam Bộ trực thuộc Ủy ban PTTH Việt Nam, HTV đã giúp đỡ cho các đài truyền hình ở các tỉnh phía Nam (cũng là các chi nhánh của Đài trước năm 1975) khôi phục lại cơ sở vật chất hoặc xây dựng thêm.

Dưới sự giúp đỡ của đài THTƯ và HTV, hệ thống các đài truyền hình địa phương dần được hình thành. Năm 1976, Đài Truyền hình Vinh được thiết lập, theo sau là Đài Truyền hình Đà Nẵng được thành lập trên cơ sở trạm phát sóng Hải Vân (thuộc Đài Truyền hình Huế). Năm 1978, truyền hình Thanh Hóa chính thức phát sóng, cùng với đó, truyền hình Vinh được chuyển giao về UBND địa phương, trở thành "Truyền hình Nghệ Tĩnh" (nay là Đài Phát thanh - Truyền hình Nghệ An). Đầu năm 1979, chương trình truyền hình mang tên "Truyền hình Hà Nội" bắt đầu phát sóng trên truyền hình quốc gia, ban đầu là chương trình phục vụ cho người dân Thủ đô, phát hàng tháng, sau đó dần tiến tới phát sóng hàng ngày. Đây là tiền thân của Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội ngày nay. Năm 1983, truyền hình Hải Phòng và truyền hình Quảng Ninh chính thức được lên sóng. Năm 1984, Cao Bằng, Đắk Lắk, Lâm Đồng phát sóng chương trình truyền hình đầu tiên. Năm 1985, Đồng Tháp trở thành đài truyền hình thứ hai tại Tây Nam Bộ sau Cần Thơ, đến năm 1991 thì phải bỏ phát vì vấn đề tài chính, và chỉ phát sóng trở lại từ năm 1997; còn Đài PT-TH Lâm Đồng trở thành đài thứ 2 tại miền Nam có hệ thống phát sóng truyền hình màu.

Thời kỳ này, phương tiện thông tin chưa phát triển, hàng ngày hai đài THTƯ và HTV trao đổi băng hình thông qua đường hàng không. Ngoài ra, thông qua đường bộ, Đài THTƯ chuyển băng hình cho Đài truyền hình Hải Phòng và các tỉnh lân cận, cũng như HTV chuyển băng hình cho các đài truyền hình phía Nam. Điều này dẫn đến việc chương trình truyền hình quốc gia bị phát trễ hơn khoảng vài ngày. Tuy phần lớn chương trình bấy giờ đều do THTƯ hoặc HTV sản xuất, các đài địa phương cũng cố gắng xen vào một vài chương trình phục vụ cho người dân địa phương, bổ sung cho các chương trình quốc gia, chủ yếu là Thời sự địa phương.

Nửa đầu thập niên 1980, công cuộc phát hình màu của các đài truyền hình bắt đầu diễn ra. THTƯ chính thức chuyển sang phát hình màu toàn thời gian vào đầu tháng 8 năm 1986

5 năm sau, năm 1985, Liên Xô tiếp tục tặng Việt Nam Đài Vệ tinh Hoa Sen 2, đặt tại đường Mạc Đĩnh Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Với Đài Hoa Sen 2, việc liên lạc qua vệ tinh giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã được thiết lập, và các đài truyền hình hoàn toàn có khả năng trao đổi chương trình hàng ngày gần như tức thời, tạo điều kiện cho các đài truyền hình địa phương có thể phát chương trình truyền hình quốc gia trong ngày. Sau đó vài năm đã có những thay đổi lớn về tổ chức: Ủy ban PTTH Việt Nam giải thể, VOV và VTV được điều chuyển cho Bộ Văn hóa - Thông tin - Du lịch quản lý; tất cả cơ sở phát sóng và truyền dẫn của phát thanh - truyền hình lại được chuyển cho Tổng cục Bưu điện, đặt dưới sự quản lý của Cục Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình mới được thành lập.

Giai đoạn 1990–2007

Ngày 30 tháng 1 năm 1991, Chính phủ ra quyết định số 26/CP giao cho Tổng cục Bưu điện thuê vệ tinh Intesputnik truyền dẫn tín hiệu phát thanh truyền hình. Từ Tết 1991 bắt đầu truyền chính thức bằng cách phủ sóng qua vệ tinh chương trình truyền hình quốc gia để các đài địa phương thu lại và phát sóng. Nhờ đó, các đài truyền hình các tỉnh, thành phố đã có một bước tăng trưởng về số lượng.

Các kênh VTV2 và VTV3 của VTV lần lượt được lên sóng trong tình trạng thiếu hụt băng tần; ba kênh VTV đã có lúc phải chia sẻ chung một kênh tần số. Đến ngày 31 tháng 3 năm 1998, kênh VTV3 được phát trên một kênh vệ tinh riêng, theo sau là VTV2 vào năm 2001, nhiều đài địa phương thời kỳ này chủ yếu tập trung tiếp sóng VTV2 vì vùng phủ sóng VTV2 lúc ấy là kém nhất trong số 3 kênh chính của VTV.

Giai đoạn này, nhiều tỉnh thành cũ bắt đầu tách tỉnh, do đó xuất hiện thêm nhiều đài truyền hình mới, như Đài Truyền hình Đà Nẵng (sau này là VTV Đà Nẵng, đến năm 1997 thì sáp nhập với đài tiếng nói nhân dân Đà Nẵng và nhiệm vụ thực hiện chương trình phát hình của đài tiếng nói nhân dân Đà Nẵng trở thành DRT Đà Nẵng), Quảng Nam, Hà Giang, Nam Định, Ninh Bình, Trà Vinh, Bình Dương.... Tại miền Trung, Đài Truyền hình Phú Yên được thành lập nhằm giải quyết vùng trắng sóng truyền hình cho người dân, Đài PT-TH Ninh Thuận cũng được tách ra từ Đài PT-TH Thuận Hải (nay là Đài PT-TH Bình Thuận).

Về thiết bị truyền hình, thời điểm này các đài truyền hình địa phương thường dùng máy quay Panasonic M (M7/M9/M1000/M3000) dùng băng VHS thường, và M9000 (dùng băng S-VHS) & máy quay Sony (Betacam/DVC) để quay phim, phát sóng chương trình. Về băng lưu trữ, VTV & HTV dùng băng Ampex 2 Inch để lưu trữ phát sóng, các đài còn lại dùng băng Betacam/VHS để phát sóng, thời điểm năm 1999, HTV là đài đầu tiên thực hiện việc chuyển băng phát sóng tự động. Về thiết bị dựng đồ họa qua bàn phi tuyến, một số đài lớn & các đài địa phương lúc ấy đã có bàn phi tuyến, như VTV, HTV (Amiga),... một số đài làm đồ họa khá đơn giản, hoặc nhờ đài/đơn vị khác để làm. Về máy phát, đầu những năm 1990 một số đài địa phương chỉ phát sóng với công suất dưới 1kw, sau này được nâng cấp lên nhờ vốn của nước ngoài/các đài lớn hỗ trợ.

Những năm cuối thập niên 1990, trên thế giới xuất hiện 3 tiêu chuẩn phát sóng truyền hình số: ATSC của Mỹ (1995), DVB-T của châu Âu (1997) và DiBEG của Nhật. Truyền hình Việt Nam phải đứng trước sự lựa chọn giữa ba tiêu chuẩn này. Cuối cùng, qua các cuộc thử nghiệm, Hội đồng Khoa học Đài Truyền hình Việt Nam đã nhất trí trình lãnh đạo đài ký quyết định lựa chọn tiêu chuẩn truyền hình số mặt đất cho Việt Nam. Trưa ngày 26 tháng 3 năm 2001, ông Hồ Anh Dũng - lúc đó là Tổng Giám đốc Đài THVN - đã chính thức ký quyết định lựa chọn tiêu chuẩn truyền hình số mặt đất DVB-T.

Từ đầu tháng 1 năm 2002, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương (BTV) đã bắt đầu phát sóng hệ thống truyền hình kỹ thuật số mặt đất (DVB-T, chuẩn nén MPEG-2) trên 2 kênh 50 và 53 UHF với 16 kênh truyền hình. Ngay sau đó, thì VTC với cũng 16 kênh (Kênh UHF 55, 56) mới xuất hiện và HTV (Kênh UHF 39 với 8 kênh) chỉ mang tính thử nghiệm.

Năm 2003, VTV bắt đầu phát sóng 2 kênh VTV1 và VTV3 theo chuẩn DVB-T. Cũng trong thời điểm này, BTV chính thức phát sóng 24/24h kênh BTV3 trên kỹ thuật số, ở vị trí 50 UHF, tạo tiền đề cho việc các Đài Truyền hình phát sóng 24/24h sau này.

Năm 2004, VCTV bắt đầu khai trương dịch vụ truyền hình số vệ tinh DTH, sau đó cung cấp dịch vụ Internet băng thông rộng trên mạng DTH và Truyền hình Cáp vào năm kế tiếp. Cùng năm đó, Đài truyền hình Kỹ thuật số VTC được thành lập và bắt đầu triển khai truyền hình số trên phạm vi toàn quốc dưới chuẩn DVB-T.

Cũng trong năm 2004, Teletext - giải pháp truyền dẫn thông tin dưới dạng văn bản thông qua kênh truyền hình - bắt đầu được ứng dụng tại Việt Nam thông qua sự hợp tác giữa Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai và Công ty cổ phần Công nghệ Việt (Vitek). Với công nghệ này, người xem có thể truy cập nhiều thông tin cần thiết như tin thời sự, giá cả,... được cập nhật liên tục trên màn hình mà không phải phụ thuộc vào chương trình phát sóng của đài. Công nghệ này sau đó cũng được Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên đưa vào thử nghiệm năm 2009 dưới sự hợp tác với công ty Hanel, nhưng cho đến nay Teletext tại Việt Nam đã không có sự phát triển và mở rộng nào thêm.

Giai đoạn 2008 đến nay

Năm 2008 là thời điểm truyền hình độ phân giải cao HD bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam, với việc truyền hình cáp HTVC lên sóng các kênh HTV7, HTV9, FBNC trên hệ thống theo tiêu chuẩn HD.

Từ tháng 9 năm 2016, SCTV đã tiến hành thử nghiệm truyền hình độ nét siêu cao 4K trên hệ thống truyền hình cáp đang có, lần đầu tiên tại Việt Nam. 1 năm sau đó, VTC cũng bắt đầu triển khai phát sóng miễn phí các chương trình được sản xuất theo tiêu chuẩn 4K trên hệ thống DVB-T2 tại một số tỉnh và thành phố. Từ năm 2016 đến nay, hàng loạt kênh truyền hình đồng loạt công bố phát sóng HD, thậm chí là Full HD 1080i, như Vĩnh Long, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương...

Năm 2025, để thực hiện Nghị quyết 18 và Nghị quyết 76/2025 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, sáp nhập tỉnh thành, hàng loạt kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương đều dừng phát sóng, giải thể, hoặc tiếp sóng với kênh truyền hình của tỉnh mới, như VTC, Quốc Hội, Hậu Giang, Bình Phước, Bến Tre, Thái Bình...

Mức độ phổ biến của truyền hình tại Việt Nam

Văn hóa, lối sống

Những năm 70, 80, 90 thế kỷ 20, khi điều kiện kinh tế còn khó khăn, phương tiện truyền thông còn hạn chế, thì nhu cầu giải trí thường nhật trở nên quá xa xỉ đối với nhiều người. Hiếm có hộ gia đình sở hữu được một chiếc ti vi đen trắng, nên những nhà này được coi là khá giả trong khu vực của mình thời điểm đó. Mỗi buổi tối, dân chúng thường tập trung ở các gia đình có ti vi để theo dõi các chương trình mình yêu thích. Các chương trình truyền hình, từ trung ương đến địa phương, hầu như chiếm được cảm tình của nhiều khán giả. Trẻ em thường thích nhất chương trình Những bông hoa nhỏ cùng với các tiết mục ca, múa, kịch thiếu nhi và phim hoạt hình ngắn của Việt Nam và nước ngoài. Trong khi đó, người lớn lại yêu thích sân khấu và phim truyện. Trên truyền hình Việt từng xuất hiện nhiều bộ phim Việt Nam nổi tiếng như: Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn, Cánh đồng hoang, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm,...; những tích chèo Quan âm Thị Kính, Kim Nham; tuồng Sơn Hậu, Ông già cõng vợ đi xem hội...; kịch Ông không phải là bố của tôi, Chát xình chát bùm…;sân khấu có cải lương, ca cổ, kịch... hay các phim nước ngoài như: Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Nô tỳ Isaura, Đơn giản tôi là Maria', Người giàu cũng khóc', Oshin, Trở về Eden, Hồng Lâu Mộng,... Đặc biệt, vào những dịp có các sự kiện thể thao lớn như World Cup 1994, SEA Games 18, Euro 1996..., chiếc ti vi trở thành thỏi nam châm thu hút hàng triệu sự chú ý của khán giả.

Cùng với cảnh cả ngôi làng cùng tập trung xem ti vi, trong tiềm thức của nhiều thế hệ còn có hình ảnh của những chiếc ăngten, thứ gắn liền với một thời "vàng son" của truyền hình - truyền hình analog. Hình ảnh người đứng trên nóc nhà vừa xoay vừa chỉnh ăngten bất chấp thời tiết để có tín hiệu truyền hình tốt nhất, giao diện bảng màu gắn liền với truyền hình analog, hay màn hình nhiễu sóng với nhiều “hột é” đã trở thành ký ức khó phai của nhiều người.

Sau này, khi công nghệ phát triển, đời sống được nâng cao, những chiếc ti vi màu dần thế chỗ ti vi đen trắng, ngày càng nhiều gia đình mua được ti vi. Những nếp sống trên vì thế cũng trở nên ít dần rồi không còn nữa. Ngày nay, nhiều gia đình sở hữu không dưới một chiếc ti vi màn hình phẳng và lớn với hàng trăm kênh khác nhau để lựa chọn, nội dung chương trình ngày càng đa dạng và ưu việt. Song do sự phát triển mạnh của các hình thức giải trí khác, đặc biệt là qua các nền tàng mạng xã hội như YouTube, Facebook nên không nhiều người giữ được thói quen xem truyền hình như trước đó.

Thời điểm đó, chiếc ti vi với giá thành đắt đỏ đã trở thành niềm mơ ước của nhiều gia đình. Việc có được chiếc tivi đã được coi là cả một gia tài đối với những gia đình sở hữu được nó, nên "làng nào chỉ cần có một đến hai chiếc ti vi là buổi tối người dân cả làng đến xem". Cùng với sự phát triển của xã hội, đời sống vật chất được nâng cao, những chiếc ti vi dần trở nên phổ biến hơn với người xem. Cho đến nay, máy truyền hình ngày càng được cải tiến, từ chiếc tivi LCD đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện từ năm 2003, hay những chiếc tivi HD 32 inch từ 2006 của LG, Samsung,... và hiện tại là những Smart TV, OLED TV hỗ trợ chuẩn hình ảnh 4K và cao hơn.

Hạ tầng

Với việc độ phủ sóng truyền hình càng ngày được nâng cao, qua việc thành lập các trạm phát lại truyền hình ở các xã, phường, các Đài Truyền hình huyện.... tiếp phát sóng chương trình truyền hình trung ương & địa phương, và cũng có một số Đài Truyền hình địa phương lớn sẵn sàng ký kết hợp đồng với các Đài Truyền hình địa phương khác phát sóng chương trình truyền hình / tiếp phát chương trình truyền hình của đài địa phương đó trên kênh tần số riêng. Hay các đài truyền hình địa phương đua nhau ký kết hợp tác để phát sóng trên vệ tinh, để tăng độ phủ sóng, cùng với việc mạng truyền hình cáp phổ biến, phát triển,.... Do đó truyền hình càng dễ tiếp cận hơn với khán giả, qua mọi phương thức xem khác nhau: Di động, IPTV, internet, truyền hình cáp, DVB-T2....

Chương trình truyền hình

Các chương trình truyền hình, bao gồm nhiều thể loại như tin tức, giải trí, văn hóa - văn nghệ, thể thao, thiếu nhi, khoa học - giáo dục, phóng sự - tài liệu..., cũng là một bộ phận quan trọng tạo nên độ phổ biến của truyền hình. Đồng thời, mức độ nổi bật và sự quan tâm chương trình của khán giả còn dựa vào việc truyền thông, quảng bá qua các phương tiện thông tin đại chúng của nhà đài hay đơn vị sản xuất (thông qua quảng cáo, báo chí, mạng xã hội...)

Tỉ lệ người xem

Mức độ quan tâm của khán giả đối với các chương trình truyền hình Việt Nam được đo bằng Rating (tỉ lệ người xem). Tại Việt Nam, công ty TNS Media trực thuộc Tập đoàn Kantar Media (Anh) là công ty đo lường khán giả truyền hình đầu tiên và từng nắm thế độc quyền cung cấp dữ liệu chỉ số đo lường khán giả trong thời gian dài. Chính điều đó đã dẫn đến hàng loạt lùm xùm về sự thiếu minh bạch, không chính xác trong các chỉ số rating mà TNS đưa ra.

Đến tháng 3 năm 2016, Trung tâm Đo kiểm và dịch vụ phát thanh truyền hình thuộc Cục phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông) công bố sự tham gia của mình vào thị trường đo rating, phá vỡ thế độc quyền của TNS. Cơ quan này cùng với Công ty Nghiên cứu thị trường NielsenCông ty Trách nhiệm hữu hạn Đo kiểm AMI thiết lập nên hệ thống đo lường VIETNAM-TAM, phục vụ công tác quản lý của nhà nước đối với các kênh truyền hình và tạo ra nguồn thu từ việc bán các gói cung cấp rating cho các đài và công ty quảng cáo.

Các phương thức truyền dẫn phát sóng truyền hình

Truyền hình analog

Nguồn tham khảo:

Truyền hình analog xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1960. Tại Việt Nam, truyền hình analog phát sóng trên băng tần VHF (từ kênh 6 đến kênh 12), và trên băng tần UHF (từ kênh 21 đến kênh 62). Chỉ có một số nơi dùng tần số dưới 6 VHF (như kênh 3 VHF ở Tam Đảo, Cần Thơ và Lãnh sự quán Nga ở TPHCM). Khoảng đầu thập niên 1990, một số đài truyền hình ở phía Nam đã bắt đầu phát sóng trên băng tần UHF, điển hình là Đài Phát thanh - Truyền hình Sông Bé (tiền thân của Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương) tiên phong dùng băng tần UHF đầu tiên với tần số 25 và 44 UHF. Đa số truyền hình analog mặt đất tại Việt Nam dùng hệ D/K (riêng kênh HTV7 ở Vĩnh Phúc dùng hệ M vào giai đoạn 2003–2005).

Bên cạnh đó, tần số từ 13 đến 20 UHF được dành để phát sóng Chương trình Truyền hình Quân đội của một số tỉnh thành, như Ninh Bình (17 UHF),... Các kênh có tần số trong khoảng 63 - 69 UHF phần lớn được cho là để phát sóng truyền hình analog lậu ở một số tỉnh thành như Ninh Bình, Hà Tây (cũ), Long An, Điện Biên... Trước đây, nếu muốn xem được các kênh truyền hình bị nhiễu sóng (do trùng với kênh tần số), cần phải có bộ khuếch đại riêng.

Truyền hình analog mặt đất hiện không còn được phát sóng ở Việt Nam sau khi hoàn thành số hoá truyền hình mặt đất vào ngày 28 tháng 12 năm 2020.

Đầu tháng 9 năm 2003, HTV phát thử nghiệm DVB-T trên kênh 30 UHF, phát kênh HTV7, HTV9 và một số kênh khác. Sau đó không lâu, ngày 1 tháng 10 năm 2003, kênh này lên sóng chính thức và các kênh HTV1, HTV2, HTV3, HTV4 cùng lúc ra đời. Tháng 12 năm 2003, trước thềm khai mạc SEA Games 22, Đài Truyền hình TP.HCM (HTV) bắt đầu phát sóng truyền hình hình số mặt đất DVB-T trên kênh 39, sau đó là kênh 25 và dừng phát sóng vào ngày 31 tháng 12 năm 2011.. Cũng trong tháng 10 năm 2003, công ty Hanel tiến hành thử nghiệm truyền hình số DVB-T trên kênh 47 UHF tại Hà Nội, với nội dung là chương trình VTV3 và Đài PTTH Hà Nội từ 6h - 22h

Năm 2005, VTC được Nhà nước cấp phép triển khai phát sóng truyền hình số DVB-T toàn quốc.

Năm 2008, kênh 50 UHF của BTV xuống sóng, Đài vẫn tiếp tục phát sóng kênh 53 UHF.

Ngày 31 tháng 12 năm 2012, sau 10 năm phát sóng, Đài PT-TH Bình Dương chấm dứt phát sóng truyền hình kỹ thuật số DVB-T.

Theo đề án Số hóa truyền hình của Chính phủ, đến hết năm 2020, Việt Nam sẽ hoàn thành số hóa truyền hình, chuyển sang phát sóng truyền hình kỹ thuật số mặt đất theo chuẩn DVB-T2. Hiện tại tất cả các đơn vị truyền dẫn truyền hình số mặt đất đã chuyển sang phát hình theo chuẩn DVB-T2.

DVB-T2

Tại Việt Nam, Công ty Cổ phần Nghe Nhìn Toàn Cầu (AVG) bắt đầu cung cấp dịch vụ truyền hình số mặt đất với chuẩn phát sóng DVB-T2 vào năm 2011. Đây là đơn vị truyền dẫn đầu tiên của cả nước phát sóng truyền hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T2.

Năm 2013, Đài Truyền hình Việt Nam thử nghiệm phát sóng truyền hình số mặt đất DVB-T2 tại Hà Nội, đến 2014 chính thức phát sóng. Công nghệ truyền hình hệ DVB-T2 hiện tại đang được sử dụng để phát sóng truyền hình trên băng tần UHF trên toàn quốc, với sự tham gia của các đơn vị truyền dẫn: VTV, SDTV, VTC (hiện đã dừng sóng), AVG và DTV, trên tần số từ 21–48 UHF.

Tần số DVB-T2 ở các địa phương

Từ năm 2017, để người dân dễ dàng thu sóng DVB-T2 hơn, các đơn vị truyền dẫn thường chuyển tần số kênh của các trạm về đúng với tần số kênh theo quy định của Cục tần số và của trạm chính, gọi là mạng đơn tần (SFN). Ngoài ra còn có mạng đa tần số (MFN). Ngoài ra, VTV còn áp dụng công nghệ Dolby Digital Plus cho các kênh phát sóng trên DVB-T2 từ năm 2016.

T-DMB

Năm 2009, VTV đã phát thử nghiệm TV Mobile ở Hà Nội, hoàn thiện thủ tục cấp phép phát sóng truyền hình số di động T-DMB trên toàn quốc. Đến năm 2018, Công ty Truyền hình KTS Miền Nam (SDTV) cũng bắt đầu thử nghiệm truyền hình số di động trên khu vực miền Nam.

Truyền hình vệ tinh

Khái niệm truyền hình vệ tinh xuất hiện lần đầu ở Việt Nam trong khoảng thời gian đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, khi một số cơ quan, đơn vị của TPHCM bắt đầu sử dụng truyền hình vệ tinh. Những kiểu anten thu hình rất mới lạ lần đầu tiên xuất hiện trên những mái nhà thành phố, được gọi là TVRO (công nghệ truyền hình vệ tinh).

Vào đầu những năm 2000, người dân ở những vùng bị lõm sóng, không thể xem được truyền hình analog đã sử dụng truyền hình vệ tinh để theo dõi các kênh truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên, Nhà nước không thể kiểm soát được nội dung của các kênh trên vệ tinh và điều này dẫn tới việc người dân theo dõi những chương trình có nội dung 'không lành mạnh' . Để giải quyết vấn đề này, ngày 15 tháng 10 năm 2004, Trung tâm kỹ thuật Truyền hình cáp Việt Nam (VCTV) bắt đầu cung cấp dịch vụ Truyền hình số vệ tinh (DTH), phủ sóng toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù vậy, do phải thuê vệ tinh Measat 2 của Malaysia với chi phí lớn, trong khi lại thiếu bộ phát đáp vệ tinh, nên số lượng kênh trên DTH không nhiều.

Sau khi vệ tinh Vinasat-1 được phóng thành công năm 2008, HTV là đơn vị đầu tiên ký hợp đồng thuê kênh và phát sóng quảng bá các kênh của mình và nhiều kênh truyền hình địa phương khác. Người xem có thể dễ dàng thu xem miễn phí cùng lúc nhiều kênh truyền hình với chất lượng cao hơn thay vì sử dụng truyền hình analog mặt đất với số kênh giới hạn và chất lượng không đảm bảo. Cuối năm 2008, Tổng công ty truyền thông đa phương tiện VTC cho ra mắt dịch vụ Truyền hình số vệ tinh độ nét cao (HD), phát sóng trên vệ tinh Vinasat 1, sử dụng tiêu chuẩn DVB-S2, với nhiều chương trình có độ phân giải cao (HD).

Từ tháng 5 năm 2009, VCTV thực hiện việc chuyển đổi phát sóng từ vệ tinh Measat 2 sang vệ tinh Vinasat 1, và hoàn tất chuyển đổi vào ngày 1 tháng 7 năm 2009.

Ngày 12 tháng 6 năm 2009, Trung tâm Kỹ thuật Truyền hình cáp Việt Nam (VCTV), cùng với Canal+ Group công bố thành lập liên doanh Tổng Công ty Truyền hình số Vệ tinh Việt Nam (VSTV). Đến ngày 12 tháng 1 năm 2010, VSTV công bố tên thương hiệu mới cho dịch vụ truyền hình số vệ tinh là K+.

Năm 2011, Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) cung cấp dịch vụ Truyền hình An Viên tới tất cả các tỉnh thành trên toàn quốc, thông qua dịch vụ truyền hình số vệ tinh DVB-S2, phát sóng trên vệ tinh NSS6. Đến năm 2015, AVG chuyển đổi phát sóng sang vệ tinh Vinasat 2.

Ngày 5 tháng 12 năm 2014, Tổng Công ty Truyền hình cáp Việt Nam (VTVcab; trước đây là VCTV) chính thức rút khỏi liên doanh VSTV, chuyển quyền chủ đầu tư cho Đài Truyền hình Việt Nam (VTV). Tỷ lệ vốn trong liên doanh VSTV vẫn không thay đổi, trong đó VTV tiếp tục nắm giữ 51% và Canal+ là 49%.

Truyền hình cáp

Truyền hình cáp bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào năm 1992, khi Công ty TNHH Truyền hình cáp Saigontourist (SCTV) ra đời. Đây là hãng truyền hình cáp đầu tiên tại Việt Nam, là liên doanh giữa Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) và Tổng công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist) thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 20 tháng 9 năm 1995, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) thành lập Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật Cáp MMDS. Trung tâm được thành lập trên cơ sở được tách ra từ Trung tâm Kỹ thuật sản xuất chương trình, với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là phát triển hệ thống truyền hình viba nhiều kênh MMDS, trở thành hệ thống truyền hình trả tiền nhiều kênh thứ 2 tại Việt Nam. Đến năm 2000, Trung tâm được đổi tên thành Hãng Truyền hình cáp Việt Nam (VCTV). Ngày 17 tháng 2 năm 2003, Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật Truyền hình Cáp Việt Nam được thành lập trên cơ sở VCTV. Đến ngày 21 tháng 11 năm 2003, đổi tên thành Trung tâm Kỹ thuật Truyền hình Cáp Việt Nam, mở thêm dịch vụ truy cập internet cùng với các dịch vụ gia tăng khác. Ngày 7 tháng 5 năm 2013, Truyền hình cáp Việt Nam đổi tên thương hiệu thành Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam, logo thương hiệu đổi từ VCTV sang VTVcab.

Ngày 30 tháng 4 năm 2002, Đài PT-TH Hà Nội bắt đầu cung cấp dịch vụ Truyền hình cáp (HCATV) trên toàn thành phố Hà Nội. Ưu điểm của HCATV là cung cấp dịch vụ truyền hình cáp hữu tuyến, không sử dụng sóng viba, có thể truyền tải được nhiều kênh. Đến tháng 9 năm 2014, HCATV thay đổi thương hiệu thành Hanoicab. Tháng 6 năm 2017, Hanoicab và chi nhánh SCTV tại Hà Nội hợp nhất lại thành Chi nhánh Hanoicab-SCTV, do Hanoicab quản lý.

Ngày 1 tháng 7 năm 2003, Trung tâm Truyền hình cáp–Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTVC) được thành lập, là trung tâm phân phối Truyền hình cáp trực thuộc Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh., sử dụng công nghệ cáp vô tuyến (công nghệ hyper cable) & hữu tuyến (CATV) . HTVC cũng là đơn vị đầu tiên trong cả nước triển khai ra mắt dịch vụ truyền hình độ phân giải cao (HDTV) vào năm 2008.

Năm 2009, Công ty Điện tử và Truyền hình cáp Việt Nam (CEC) trực thuộc Tổng công ty truyền thông đa phương tiện VTC đã cho ra mắt dịch vụ Truyền hình cáp CEC (VTC-Cable). Tuy nhiên, do hoạt động thua lỗ, đến ngày 1 tháng 11 năm 2012, VTC đã bán lại mạng truyền hình cáp CEC cho Truyền hình cáp Việt Nam (VCTV).

Cũng trong khoảng những năm 2000 đến 2010, rất nhiều hãng truyền hình cáp địa phương đã được thành lập. Phần nhiều trong số đó hiện nay đã bán lại mạng cáp của mình cho các hãng truyền hình cáp lớn, tiêu biểu có Sông Thu–Arico (Đà Nẵng), NTH (Tây Nguyên), Quy Nhơn Cable, Quảng Ninh Cable, Một số mạng cáp thuộc công ty điện tử TC Corp (Huế, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bến Tre) ...

Đa phần mạng truyền hình cáp tại Việt Nam sử dụng hệ B/G nên sẽ ít gây nhiễu, chỉ có HCATV (Truyền hình cáp Hà Nội) và một số đơn vị truyền hình cáp địa phương sử dụng hệ D/K, hệ mà truyền hình analog phổ thông dùng, do đó chỉ cần cây ăngten thường và vị trí nhà gần hộp cáp thì đã có thể xem được rõ nét các kênh truyền hình cáp.

DVB-C

DVB-C là công nghệ truyền hình cáp kỹ thuật số, với chất lượng hình ảnh và âm thanh sắc nét, sử dụng hạ tầng mạng cáp đồng trục HFC để truyền dẫn, với băng thông rộng lớn có thể phát sóng cả những kênh có độ nét cao từ HD trở lên. Để xem được các kênh truyền hình cáp kỹ thuật số, người dùng sẽ phải có một bộ đầu thu giải mã, một thẻ thông minh (thẻ giải mã) mới có thể xem được các kênh truyền hình cáp kỹ thuật số. Công nghệ truyền hình cáp kỹ thuật số được các đơn vị truyền hình cáp lớn tại Việt Nam như HTVC, VTVCab, SCTV và VTC (thời CEC) sử dụng để có thể thêm được nhiều kênh với chất lượng sắc nét và ổn định, tăng thêm nhiều sự lựa chọn cho khán giả.

Truyền hình số DVB-T2 của các đơn vị cáp tại Việt Nam cũng sử dụng hạ tầng mạng cáp đồng trục HFC có sẵn để truyền dẫn . Do kết nối thẳng từ cáp đồng trục của hạ tầng mạng đến socket (ổ cắm cáp) trên tivi, do đó người xem chỉ cần có máy thu hình có tích hợp DVB-T2 là có thể dò kênh và xem được các kênh truyền hình cáp DVB-T2 với chất lượng ổn định mà không phải qua các thiết bị trung gian nào. Hiện nay, SCTV, HTVC và VTVCab là các đơn vị đang truyền dẫn và triển khai dịch vụ truyền hình cáp số DVB-T2 tại Việt Nam.

Truyền hình giao thức Internet

Ngày 11 tháng 12 năm 2007, Công ty cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) thuộc Tập đoàn FPT đã ra mắt dịch vụ IPTV đầu tiên tại Việt Nam với tên gọi "iTV" (sau này là FPT TV). Đây được xem là bước đầu của việc bùng nổ thị trường IPTV tại Việt Nam, với hàng loạt dịch vụ và loại hình sau này.

Theo dạng IP (udpxy hoặc m3u8)

Từ đầu những năm 2010, phương thức xem truyền hình qua dạng link m3u8 từ list IPTV của các dịch vụ truyền hình, các website truyền dẫn tín hiệu bắt đầu phát triển tại Việt Nam, người xem chỉ cần tải ứng dụng xem video như VLC, Pot Player, Windows Media Player... trên máy tính và các thiết bị di động và link IPTV là có thể xem được từ hàng trăm - hàng ngàn kênh truyền hình trong nước và quốc tế xuất hiện trên các list IPTV tùy vào các đơn vị hoặc người dùng tự làm.

Truyền hình OTT

Năm 2013, trước xu hướng thay đổi của công nghệ, nhất là lĩnh vực truyền hình OTT (phát nội dung qua Internet), các nhà đài đã có một cuộc thử nghiệm lớn với dịch vụ truyền hình OTT. VTVCab là đơn vị đầu tiên chính thức cung cấp dịch vụ truyền hình OTT mang thương hiệu VTV Plus từ tháng 1 năm 2013, thông qua sự hợp tác giữa VTVcab và Công ty Cổ phần Truyền thông Mạng và dịch vụ (Medianet Corporation). Ứng dụng này cho phép xem đa kênh truyền hình trực tiếp, riêng biệt hoá với tính năng xem lại và đặc biệt là trải nghiệm hoàn toàn mới với truyền hình tương tác.

Cùng với đó, các công ty Internet cũng nhảy vào lĩnh vực này, tiên phong là FPT Telecom với ứng dụng xem truyền hình trực tuyến cho các thiết bị cầm tay mang tên FPT Play. Sự ra đời của FPT Play đã đánh dấu sự mở đường của dịch vụ truyền hình OTT – truyền hình Internet tại Việt Nam.

Ngày 1 tháng 11 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1984 phê duyệt đề án tạo điều kiện cho kiều bào Việt Nam ở nước ngoài được nghe, xem các kênh phát thanh, truyền hình qua nhiều phương thức khác nhau: trên tivi, máy tính, điện thoại, máy tính bảng và các thiết bị di động khác, qua đó tạo cơ hội để truyền hình OTT có bước phát triển lớn hơn trong giai đoạn kế tiếp.

Năm 2016 đã chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của dịch vụ truyền hình OTT với hàng loạt ứng dụng như MyK+ Now (Truyền hình số vệ tinh Việt Nam – K+, nay là App K+), SCTV Vod (Truyền hình cáp Saigon Tourist), VTVcab On (VTVcab)... Bên cạnh đó, sự tham gia của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới như Facebook, Google (YouTube), Netflix... vào thị trường Việt Nam cũng khiến cho thị trường truyền hình OTT trở nên sôi động hơn.

Trong khi dịch vụ truyền hình trả tiền nói chung đang có dấu hiệu xuống sức, thì truyền hình OTT lại có tốc độ phát triển chóng mặt. Theo số liệu của Bộ Thông tin & Truyền thông, vào cuối năm 2017 truyền hình OTT mới chỉ có 720.000 thuê bao, nhưng đến cuối năm 2019 đã nhảy vọt lên con số 2,5 triệu thuê bao.

Truyền hình OTT ở Việt Nam hiện nay đang có 4 nhóm tham gia:

  • Nhóm 1: Các đơn vị sản xuất nội dung truyền hình chuyển sang hướng làm OTT, lấy Internet làm nền tảng truyền dẫn (K+, VTV, VTC, HTV,...).
  • Nhóm 2: Các đơn vị lấy nội dung của nhà đài hoặc tự sản xuất nội dung để làm truyền hình (Viettel, MobiFone,...).
  • Nhóm 3: Các đơn vị sản xuất nội dung thuần túy (Cát Tiên Sa, BHD, Q.net...) có thế mạnh về các chương trình giải trí, muốn xây dựng ứng dụng riêng
  • Nhóm 4: Các đơn vị làm dịch vụ nền tảng (FPT Play, ZingTV, Clip TV, VNPT Media...)

Để phát triển nội dung, các đơn vị tham gia thị trường OTT truyền hình đang theo 3 hướng chính.

  • Đặt hàng và mua bản quyền chương trình. Đặc điểm của các đơn vị theo hướng này đều là sở hữu nền tảng công nghệ và không có thế mạnh nội dung, không tự sản xuất được nội dung; nếu có thì hầu như không mang tính bản sắc, chủ yếu dựa vào các chương trình ngoại để cạnh tranh.
  • Một số đài truyền hình (VTV, HTV,...) có thế mạnh sản xuất chương trình truyền hình, nắm giữ nhiều nội dung do chính họ sản xuất. Các đài này hầu như có sẵn nội dung cho các kênh sóng của mình và chuyển dịch sang phát trên nền tảng Internet. Thế mạnh của các đơn vị này là sở hữu và nắm giữ nhiều nội dung có bản quyền.
  • Một số đơn vị khác xác định đối tượng khán giả làm trung tâm và tận dung những nội dung thế mạnh sẵn có phù hợp với nhóm đối tượng đó, kèm theo là một số nội dung riêng biệt trên OTT. Trong nhóm này phải kể đến VTC Now, SCTV, VTVcab. Bước đầu, người dùng tại 4 tỉnh thành được cung cấp 8 kênh truyền hình, trong đó có một kênh cung cấp dịch vụ video theo yêu cầu từ một danh mục các chương trình được VTC giới thiệu. Dịch vụ này có sẵn trên các thiết bị đa truyền thông N-serie hỗ trợ chuẩn DVB-H của Nokia.

Trong khi VTC và Nokia đang nghiên cứu để sớm ra mắt truyền hình di động thì hãng điện thoại S-Fone cũng đã sớm triển khai dịch vụ truyền hình trên điện thoại, cũng như dịch vụ xem phim và nghe nhạc theo yêu cầu. Tuy nhiên, giá cước không hợp lý khiến cho các dịch vụ này không được sử dụng nhiều.

Sau một thời gian, VTV cũng tham gia vào thị trường truyền hình di động vào năm 2010 khi Công ty TNHH Dịch vụ truyền hình viễn thông Việt Nam (VTV Broadcom) đã đưa vào thử nghiệm dịch vụ VTV MobileTV (T-DMB). VTV Broadcom đã phối hợp với Vinaphone và một số đối tác khác tiến hành cung cấp dịch vụ tới các thuê bao sử dụng dịch vụ thông tin di động trên mạng Vinaphone ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh với 300 thiết bị đầu cuối. Sau thử nghiệm, VTV dần hoàn thiện thủ tục cấp phép chính thức cho dịch vụ truyền hình số di động trên toàn quốc.

Hiện nạy, truyền hình di động được cung cấp bởi các doanh nghiệp viễn thông như Mobifone, Vinaphone, Viettel,...

Hệ thống truyền hình tại Việt Nam

Các đài truyền hình

Hiện tại, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), Kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV) của Bộ Công an, Kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam của Bộ Quốc phòng và Viettel Media là các đài truyền hình quốc gia, phủ sóng toàn quốc, thuộc hệ các kênh truyền hình thiết yếu. Ngoài ra còn có các đài phát thanh - truyền hình của 63 tỉnh thành trên cả nước, nổi bật trong đó là Đài Truyền hình TP.HCM (HTV), Đài PT-TH Hà Nội, Đài PT-TH Vĩnh Long (THVL), Đài PT-TH Bình Dương (BTV)..., cùng với hơn 500 đài truyền thanh–truyền hình ở các huyện/thành phố trực thuộc tỉnh trên khắp cả nước.

Các kênh truyền hình

Các kênh truyền hình thiết yếu quốc gia

Dưới đây là danh sách kênh chương trình truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của Việt Nam do Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ định. Các kênh truyền hình này được lựa chọn dựa trên một số tiêu chí, trong đó có "tôn chỉ, mục đích là thời sự - chính trị tổng hợp hoặc nội dung chuyên biệt, đảm bảo phục vụ yêu cầu thông tin, tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng của quốc gia". Các đơn vị truyền dẫn quảng bá và trả tiền được yêu cầu phải truyền dẫn phát sóng các kênh này đến người xem.

Các thể loại truyền hình

Truyền hình tương tác

Tại Việt Nam, loại hình này có thể đã xuất hiện từ giữa những năm 90, ban đầu từ chung kết SV 96 trên sóng VTV, sau đó được áp dụng ở nhiều chương trình khác như loạt chương trình MTV, Giải trí trên truyền hình của VTV, Nhịp cầu âm nhạc (HTV)... thông qua việc nhắn tin và gọi điện để dự đoán, bình chọn và yêu cầu. Từ năm 2004, chương trình Vui cùng Hugo và nhiều chương trình tương tác khác trên sóng HTV như Thử thách, Stinky và Stomper, Người chiến thắng,... đã áp dụng hình thức tương tác trực tiếp qua việc điều khiển bằng cách gọi điện thoại hoặc nhắn tin. Một số trò chơi hoặc các chương trình khác trên sóng các kênh địa phương cũng như quốc gia đều áp dụng phương thức này, trong đó khán giả ở trường quay và tại nhà có thể tương tác, thậm chí khán giả ở trường quay bình chọn cho thí sinh (như Ai là triệu phú, Tìm người bí ẩn...). Những năm 2000, các kênh truyền hình tương tác cũng bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam, người xem chỉ cần nhắn tin yêu cầu bài hát, có thể chat trực tiếp trên sóng truyền hình như kênh VCTV4 (M4Me), VTC13, HTVC+...

Khi các chương trình truyền hình thực tế, cuộc thi bùng nổ, loại hình này được phát triển rộng hơn, mở rộng ra việc tương tác qua mạng xã hội, internet, các ứng dụng nhắn tin... Tuy nhiên, những hình thức này lại tạo nên kẽ hở khi một người có thể nhắn tin liên tục không giới hạn số lần trong 1 khoảng thời gian ngắn, dùng sim rác, tạo nhiều tài khoản đăng nhập, thậm chí có sự thao túng, dàn xếp kết quả từ những người điều hành chương trình hay các đơn vị khác qua việc mua tin nhắn... Cá biệt, một số trường hợp còn lừa đảo, thao túng gây nên sự bất bình trong dư luận, chẳng hạn như chương trình Đi tìm kho báu của VTV.

Truyền hình thực tế

Đầu năm 2005, VTV3 ra mắt chương trình Khởi nghiệp và ngay lập tức thu hút lượng người xem mỗi tuần. Đây có thể được xem là chương trình truyền hình thực tế tiên phong tại Việt Nam. Cùng năm đó, Vượt lên chính mình, Ngôi nhà mơ ước - một dạng khác của truyền hình thực tế - lần lượt được lên sóng trên HTV.

Tuy nhiên, Phụ nữ thế kỷ 21 (2006) mới thật sự là chương trình truyền hình thực tế đúng nghĩa đầu tiên tại Việt Nam. Ngay khi ra mắt khán giả truyền hình, chương trình đã tạo được sự chú ý bởi tính tươi mới, chân thật và thẳng thắn. Là một cuộc thi truyền hình nhưng các thí sinh được thoải mái bộc lộ quan điểm và cá tính, những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân để từ đó phác họa nên những nét độc đáo của phụ nữ ngày nay.

Sau đó, đến năm 2007, công ty Đông Tây Promotion cũng đã thực hiện thành công Vietnam Idol mùa đầu tiên. Từ đó đến nay, các chương trình truyền hình thực tế Việt Nam ngày càng nở rộ với hàng chục chương trình ở các thể loại: âm nhạc, thời trang, điện ảnh, mạo hiểm, nấu ăn, nhảy múa,... Thống kê năm 2016 cho thấy có khoảng hơn 50 chương trình truyền hình thực tế đã và đang phát sóng trên khắp các kênh truyền hình từ trung ương cho đến địa phương tại Việt Nam.

Giải thưởng

Liên hoan truyền hình toàn quốc là hoạt động thường niên do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức nhằm tạo cơ hội gặp gỡ cho những người làm truyền hình trên khắp đất nước, là dịp để chọn ra những tác phẩm truyền hình xuất sắc nhất trong năm và cùng chia sẻ những thách thức phải đối mặt trong quá trình phát triển của ngành công nghiệp truyền hình. Liên hoan bao gồm nhiều hoạt động: chấm thi và trình chiếu tác phẩm tham dự, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề, triển lãm ảnh,... Được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1980 và trải qua 41 lần tổ chức, liên hoan đã thu hút sự tham gia của hàng trăm đơn vị làm truyền hình, bao gồm các đài truyền hình tỉnh, thành phố, khu vực, các hãng phim truyền hình. Kể từ lần tổ chức thứ 41 (2023), Liên hoan truyền hình toàn quốc được tổ chức 2 năm một lần. Dự kiến từ lần tổ chức thứ 42 (2025), Liên hoan truyền hình toàn quốc được tổ chức mỗi năm một lần đã trở lại.

Chương trình truyền hình

Nội dung chương trình truyền hình tại Việt Nam đa dạng với các thể loại như tin tức, văn hóa, giải trí, khoa học, tổng hợp... Dưới đây chỉ trình bày những thể loại chương trình truyền hình phổ biến nhất tại Việt Nam.

Tin tức

Tin tức truyền hình là một trong những nội dung đầu tiên và cũng là quan trọng nhất trên truyền hình, cập nhật thông tin nổi bật của trong nước và quốc tế. Tại Việt Nam, các bản tin truyền hình được phát sóng ở nhiều khung giờ, như các kênh VTV1, HTV9, VTC1, VTC14 (trước đây) vào mỗi đầu giờ, một số kênh địa phương & quốc gia vào khung giờ vàng (60 giây, Người đưa tin 24h, Chuyển động 24h, Chuyển động Đông Tây, Chào buổi sáng, Chào buổi tối...) với cách trình bày ngắn gọn, súc tích, cập nhật liên tục. Ngoài ra, một số đài truyền hình còn phối hợp với các đài khác, hoặc các đơn vị báo chí, truyền thông sản xuất tin tức và phát sóng trên truyền hình.

Hiện nay, Việt Nam đã ban hành quy định không được liên kết sản xuất chương trình thời sự chính trị (trừ các kênh thiết yếu và truyền hình địa phương với thông tin chính trị tại địa phương và các thông tin quan trọng).

Văn hóa, giải trí

Trò chơi truyền hình, cuộc thi truyền hình

Từ những năm cuối thập niên 90, Đài Truyền hình Việt Nam đã đóng vai trò tiên phong trong sản xuất, khai thác các chương trình trò chơi truyền hình, cuộc thi... để phát sóng trên truyền hình, nhất là trên hai kênh VTV2 và VTV3. Đầu những năm 2000, nhiều đài truyền hình khác cũng tham gia sản xuất các trò chơi giải trí thu hút người xem như HTV, BTV (Bình Dương), ĐNRTV, HanoiTV... Tuy nhiên, nổi trội hơn cả là VTV3 khi đã tạo được thói quen xem truyền hình của nhiều khán giả với hàng loạt gameshow buổi tối hấp dẫn. Sau đó, gameshow trở nên bão hòa, các chương trình truyền hình thực tế, gameshow hài kịch, tình yêu, âm nhạc lên ngôi, lấn át trong khung giờ vàng của các kênh truyền hình lớn. Cho đến những năm 2019, khi những thể loại gameshow nói trên trở nên "bội thực", các gameshow kiến thức bùng nổ trở lại trên sóng truyền hình.

Nhiều năm trở lại đây, do tiềm lực tài chính không mạnh, việc sản xuất trò chơi truyền hình tại các đài địa phương không còn sôi động như trước. Truyền hình Vĩnh Long là một ngoại lệ với các cuộc thi hát bolero giúp cho đài vượt tầm ảnh hưởng ra khỏi địa phương và nhanh chóng trở thành một trong những kênh giải trí hấp dẫn hàng đầu khu vực phía Nam..

Ca nhạc

Ca nhạc trên truyền hình Việt Nam xuất hiện dưới nhiều hình thức, có thể là những chương trình tạp kỹ được ghi hình ở trường quay hay ở ngoài trời, cũng có thể là những sự kiện hay chương trình ca nhạc thường niên do các đài truyền hình hoặc công ty sản xuất, hợp tác phát sóng. Ngoài ra còn phải kể đến chương trình ca nhạc quốc tế, ca nhạc V-pop... do các đài truyền hình địa phương tự sản xuất.

Năm 1999, HTV lần đầu ra mắt Nhịp cầu âm nhạc, chương trình tương tác âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lớn với hàng chục triệu khán giả miền Nam. Chương trình đã giúp khán giả chủ động hơn trong việc giải trí trên màn ảnh nhỏ thông qua việc gọi điện thoại và gửi tin nhắn đến chương trình để yêu cầu bài hát hay trò chuyện trực tiếp với các ca sỹ. Sau đó vào năm 2000, HTV tiếp tục ra mắt Thay lời muốn nói, một dạng khác của ca nhạc theo yêu cầu nhưng với các ca khúc được ghi hình (đến năm 2004 bắt đầu được phát sóng trực tiếp).

Năm 2002, thời điểm nhạc nhẹ Việt Nam đang trở nên thịnh hành, Đài Truyền hình Việt Nam ra mắt VTV - Bài hát tôi yêu, cuộc thi chuyên trình chiếu các video ca nhạc theo thiên hướng nhạc nhẹ Việt Nam. Với tinh thần thỏa sức sáng tạo để tạo ra những MV mới mẻ, hấp dẫn, VTV – Bài hát tôi yêu đã chiếm trọn tình cảm của phần lớn khán giả yêu âm nhạc cũng như là nơi đặt niềm tin của nhiều nghệ sĩ. Sự thành công của chương trình là tiền đề cho những chương trình lớn tiếp theo được xuất hiện: Album Vàng, Bài hát Việt,... Về sau, rất nhiều chương trình ca nhạc, liveshow đã xuất hiện không chỉ ở VTV, HTV mà còn ở các kênh địa phương cũng như các kênh chiếu mạng vào mỗi cuối tuần hay hàng tháng như Con đường âm nhạc, Nhóm ca và bạn trẻ, Giai điệu tình yêu, Quà tặng âm nhạc, FPT music home, Giao lộ thời gian, The Khang Show: Music Wave, Khung trời kỷ niệm...

Hài kịch, sân khấu

Trước đây, nhiều đài truyền hình thường dành giờ vàng cuối tuần để phát sóng chương trình Sân khấu. Giai đoạn những năm 1980 chứng kiến sự phát triển cực thịnh của thể loại hài kịch, nhất là trên sóng HTV, khi các vở chính kịch vào các ngày thứ Bảy thu hút đông đảo khán giả. Đặc biệt, kịch hài Trong nhà ngoài phố mỗi tối thứ Năm với sự dẫn dắt của đạo diễn Trần Văn Sáu đã tạo hiệu ứng mạnh trong xã hội; nhiều thuật ngữ, câu nói từ Trong nhà ngoài phố trở thành câu nói cửa miệng trong đời sống. Cho đến nay, các vở cải lương, sân khấu, kịch, các tác phẩm, tiểu phẩm hài,... xuất hiện trên sóng truyền hình với đủ thể loại từ châm biếm đến đời sống xã hội. Ở thể loại hài kịch có Gặp nhau cuối tuần (VTV), Kính đa tròng, Chuyện cảnh giác, Siêu thị cười (HTV), Sân khấu hài (một số kênh địa phương), ở thể loại cải lương, ca cổ phần lớn được phát sóng trên các đài địa phương miền Tây mỗi tối... Cùng với việc chất lượng, nội dung ngày càng được chú trọng, các tiết mục hài kịch đã mang lại nhiều giá trị tinh thần cho khán giả.

Về sân khấu truyền hình, năm 2003 VTV cho ra mắt Nhà hát truyền hình nhằm giới thiệu và trình diễn các tác phẩm kịch, sân khấu, cải lương mỗi tháng cũng như thúc đẩy sáng tác và biểu diễn trong lĩnh vực sân khấu. Thể loại cải lương, ca cổ cũng không kém cạnh với Vầng trăng cổ nhạc, Ngân mãi chuông vàng (HTV)..., và một số chương trình, cuộc thi cải lương, ca cổ trên sóng các đài địa phương.

Phim truyện

Phim truyện đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, ban đầu là những bộ phim Việt Nam tự sản xuất, mà tiên phong là Hãng phim truyện Việt Nam, về sàu là hãng phim truyền hình của các đài truyền hình như VTV, HTV, và một số đài truyền hình địa phương khác.

Từ khi Việt Nam mở cửa với thế giới, nền văn hóa của các nước đã du nhập vào Việt Nam, người dân do đó có nhiều lựa chọn hơn về giải trí. Mảng phim truyện lúc này đã có thêm nhiều thể loại đa dạng từ các nước châu Âu, Mỹ, Úc, châu Á..., điển hình như VTV vào những năm 1996 - 2005, với khung phim truyện mỗi tối trên VTV3 trình chiếu các bộ phim Âu-Mỹ, khung giờ buổi trua dành cho phim châu Á. VTC cũng có khung phim truyện châu Á (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông,

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),
nhỏ|Biểu trưng số hóa truyền hình tại Việt Nam. Biểu trưng này chính thức được công bố vào ngày 13 tháng 3 năm 2014. Tại **Việt Nam**, quá trình **số hóa truyền hình mặt đất**
**Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam** (tên đầy đủ là **Công ty Cổ phần Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam**, viết tắt là **VTVcab**, từ ngày 14 tháng 1 năm 2000
Truyền hình Cáp Việt Nam VTVcab - Đơn vị truyền hình trả tiền duy nhất trực thuộc trực tiếp Đài THVN với kinh nghiệm hơn 20 năm triển khai dịch vụ truyền hình trả tiền.Kinh
Truyền hình Cáp Việt Nam VTVcab - Đơn vị truyền hình trả tiền duy nhất trực thuộc trực tiếp Đài THVN với kinh nghiệm hơn 20 năm triển khai dịch vụ truyền hình trả tiền.Kinh
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội** là cơ quan truyền thông báo chí trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. ## Lịch sử * Đài Phát thanh – Truyền hình
**Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC**, còn gọi là **Đài Truyền hình Kỹ thuật số Việt Nam**, gọi tắt là **VTC** hay **Đài VTC**, là một đài truyền hình thành viên của Đài
**Báo và phát thanh, truyền hình Vĩnh Long** (tiếng Anh: **Vinh Long Newspaper and Radio – Television**, viết tắt: **THVL**) là cơ quan truyền thông trực thuộc tỉnh ủy Vĩnh Long. Cơ quan được rất
**Đài Phát thanh – Truyền hình Bình Dương** là một đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đài có trụ sở tại số 46 Đại
**Kiểm duyệt ở Việt Nam** rất phổ biến và được thực hiện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam với mọi loại phuơng tiện truyền thông – báo chí, văn học, tác phẩm nghệ thuật, âm
Dưới đây là **danh sách kênh truyền hình đã và đang phát sóng** **tại Việt Nam.** Danh sách này bao gồm các kênh truyền hình trong nước và các kênh truyền hình quốc tế, được
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong lịch sử của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam. Trong bài cũng đề cập đến
**Báo và Phát thanh – Truyền hình Ninh Bình** (tiếng Anh: _Ninh Binh Newspaper and Radio – Television_, viết tắt: **NBTV**) là một đài truyền hình địa phương, trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh
''Báo và Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Thuận là cơ quan trực thuộc tỉnh ủy Bình Thuận." Từ ngày 01/7/2025 sáp nhập với cơ quan Báo, Đài Lâm Đồng và Đắk Nông, lấy
**Truyền hình Cáp Hà Nội** (Hanoicab, từ 2005 đến 2011 là BTS) là loại hình dịch vụ truyền hình cáp hữu tuyến do **Công ty cổ phần Truyền hình cáp Hà Nội** cung cấp, mạng
**Báo Ấp Bắc và Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang** (tiếng Anh: **Ap Bac Newspaper and Tien Giang Radio - Television Station**), là cơ quan báo chí - truyền thông trực thuộc tỉnh
Việt Nam không công nhận hôn nhân cùng giới, kết hợp dân sự, chung sống có đăng ký hay bất kỳ hình thức tương tự nào khác cho các cặp đôi cùng giới. Hiến pháp
phải|Màn hình tại một quán Internet tại Việt Nam, cảnh báo khách hàng không được truy cập những trang web "[[phản động" hay "đồi trụy"]] Chính quyền **Việt Nam kiểm duyệt việc truy cập Internet**
**Báo và phát thanh, truyền hình Hải Phòng** là cơ quan truyền thông báo chí trực thuộc Thành ủy Hải Phòng. ## Lịch sử * Đài thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1956, với
**Đài Phát thanh – Truyền hình Bến Tre** là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre.. Trong quá trình hoạt động, đài được nhà nước tặng 8 huân chương
**Báo và Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Lạng Sơn** (tiếng Anh: **Lang Son Provincial Newspaper and Radio - Television Station**, viết tắt: **LSTV**) là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Tỉnh
**Người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam** phải đối mặt với những thách thức mà những người không phải LGBT đối mặt. Từ cuối thập niên
**Năng lượng ở Việt Nam** là một khái niệm đề cập đến việc nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ các nguồn năng lượng ở Việt Nam. ## Lịch sử Ngày 21-12-1954, Bác Hồ đã đến
**Báo và Phát thanh - Truyền hình Cần Thơ** (tiếng Anh: **_Can Tho Newspaper and Radio - Television_**, viết tắt: **_THTPCT_**) là một đơn vị sự nghiệp, trực thuộc thành ủy Cần Thơ ## Lịch
**Truyện cổ tích Việt Nam** là những truyện cổ tích được người Việt truyền miệng trong dân gian để kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật và sự kiện
**Điện Mặt Trời ở Việt Nam** thuộc nhóm công nghiệp năng lượng mới nổi, được nhập cuộc theo sự phát triển nguồn năng lượng tái tạo chung của thế giới, sự nhập khẩu khoa học
**Định dạng ngày và giờ ở Việt Nam** mô tả các phương pháp thể hiện ngày và giờ được sử dụng ở Việt Nam. ## Ngày và tuần ### Ngày nhỏ|320x320px|Giấy thông hành do [[Bộ
**Phân biệt dân tộc ở Việt Nam** là thái độ phân biệt của người Kinh chiếm đa số đối với các dân tộc thiểu số như người Thượng, người Chăm, người Khmer Krom và người
nhỏ|phải|[[Bia hơi ở Việt Nam]] **Bia ở Việt Nam** phản ánh tình hình tiêu thụ và sản xuất bia của đất nước này. Bia được tiêu thụ thông dụng ở Việt Nam, với mỗi năm
nhỏ|327x327px|Phụ nữ Việt Nam thời kỳ [[Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)|chiến tranh (theo học ở Leipzig, Đông Đức).]] **Phụ nữ Việt Nam** là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển
**Đài Truyền hình Việt Nam (THVN)** hay còn gọi là **Đài Truyền hình Sài Gòn** là đài vô tuyến truyền hình thuộc Nha Vô tuyến Truyền hình Việt Nam của Việt Nam Cộng hòa. Đài
Việt Nam là quốc gia thịnh hành **tục thờ cúng động vật** xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
Người **LGBT ở Việt Nam** bao gồm những người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và người chuyển giới. _LGBT_ là cụm từ viết tắt các chữ cái đầu gồm **_L**esbian, **G**ay, **B**isexual,
**Mại dâm ở Việt Nam** là một chủ đề về hoạt động mại dâm tại Việt Nam, cũng như những quy định của pháp luật về hành vi mua bán dâm, chủ chứa, môi giới
nhỏ|phải|Phù điêu ông Cọp ở đình Bình Đông nhỏ|phải|Phù điêu Bạch Hổ ở đình Cô Giang nhỏ|phải|Hoàng Hổ tướng quân trong ban thờ ở Đền thờ Đức Thánh Trần **Hổ được tôn thờ** và là
**_Thần tượng âm nhạc Việt Nam_** () là phiên bản Việt hóa của chương trình truyền hình thực tế _Pop Idol_ đến từ Anh, lên sóng lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 5 năm
nhỏ|Hình hiệu chương trình Phim truyện Việt Nam của đài [[Đài Truyền hình Việt Nam|VTV (2016-2021)]] **Phim truyện truyền hình Việt Nam** hay **phim bộ Việt Nam** là một thể loại truyền hình tiếng Việt
Tại Việt Nam, **bất đồng chính kiến** từng xuất hiện trong nhiều giai đoạn lịch sử dưới nhiều loại hình khác nhau. ## Thời Pháp thuộc Trong thời Pháp thuộc, Nhiều người bất đồng chính
**Báo và phát thanh, truyền hình Gia Lai** (viết tắt: GTV - Gialai televison) là đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh ủy Gia Lai, chịu sự quản lý nhà nước của Sở Thông tin và
**Cá chết hàng loạt ở Việt Nam 2016** hay còn gọi là **Sự cố Formosa** đề cập đến hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh) bắt đầu từ ngày
**MTV Việt Nam** là kênh âm nhạc và giải trí từng được phát sóng tại Việt Nam từ năm 2011 đến 2023, thuộc sở hữu của Paramount Networks EMEAA. Năm 2011, công ty BHD đã
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong nền văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới cũng như Việt Nam, rắn là con vật có sức ảnh hưởng mạnh
nhỏ|phải|Một cơ sở hạ tầng truyền hình Nga ở Oktyabrskiy nhỏ|phải|Một chiếc tivi ở Nga thường thấy trong các hộ gia đình nhỏ|phải|Tác nghiệp truyền hình ở Nga **Truyền hình ở Nga** là phương tiện
**Báo và phát thanh, truyền hình Điện Biên** (Tiếng Anh: _Dien Bien Newspaper and radio, television_) là một cơ quan báo chí - truyền thông trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên. Báo
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
**Báo và phát thanh, truyền hình Đồng Nai** là một cơ quan báo chí – truyền thông trực thuộc tỉnh ủy Đồng Nai. Đài được thành lập ngày 19 tháng 11 năm 1976 với nhiệm
nhỏ|phải|Tượng Phù Đổng Thiên Vương **Tục thờ ngựa** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ở Việt Nam, hình ảnh con ngựa đã in sâu vào tâm trí của nghệ sĩ dân gian, họ
**Báo và Phát thanh – Truyền hình Nghệ An** (tiếng Anh: **Nghe An Newspaper and Radio – Television Station**) là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Tỉnh ủy Nghệ An; là cơ quan