✨Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam

Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam

Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam tắt là quan hệ Việt-Nhật (tiếng Nhật:日越関係) bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật Bản đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào ngày 21 tháng 9 năm 1973. Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên.

Lịch sử

Thế kỷ thứ 8, thời nhà Đường còn đô hộ Việt Nam, một viên quan nhà Đường gốc Nhật Bản là Abe no Nakamaro đã được cử sang làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ.

Đến thế kỷ 16, các thương nhân Nhật Bản thường xuyên qua lại khu vực biển ở Đông Nam Á để buôn bán, trong đó có lãnh thổ Đại Việt nhà Lê. Các thuyền chu ấn của Nhật Bản lúc này đã sang lãnh thổ Việt Nam. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Red Seal Ship departs Nagasaki to Annam (Vietnam).jpg|nhỏ|281x281px|Tranh vẽ một chiếc [[Châu Ấn Thuyền|Chu Ấn Thuyền (朱印船 Shuinsen) đi từ Trường Kỳ (Nagasaki) tới An Nam.]] Sang thế kỷ 17, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đẩy mạnh giao thương, chúa Nguyễn Hoàng cho phép thương gia Nhật Bản buôn bán và cư trú ở Hội An. Mạc phủ Tokugawa Ieyasu còn trao đổi công văn thương mại với chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn gả cả công nữ Ngọc Hoa (có nguồn ghi là Ngọc Khoa) cho thương nhân nổi tiếng Araki Shutaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang). Tuy nhiên, từ năm 1635 với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tỏa Quốc), Nhật Bản chỉ cho phép buôn bán với Trung Quốc, Triều Tiên và Hà Lan nên sự giao thương với Việt Nam bị gián đoạn.

Đến giữa thế kỷ 20, năm 1940, đế quốc Nhật mới thiết lập căn cứ chống lại phe Đồng Minh ở Đông Nam Á và xâm lược Việt Nam đến tận năm 1945.

Từ tháng 9 năm 1973, Nhật Bản và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức.

Về chính trị

Hàng năm đều có các cuộc gặp cấp cao.

Về phía Nhật Bản:

Thiên hoàng Nhật Bản thăm Việt Nam 1 lần (Akihito - 2017).

Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 6 lần (Murayama Tomiichi - 1994, Hashimoto Ryūtarō - 1997, Obuchi Keizō - 1998, Koizumi Junichirō - 2002, Abe Shinzō - 2006, 2012, Suga Yoshihide - 2020 và Kishida Fumio - 2022.).

Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản thăm chính thức 11 lần (Kōno Yōhei - 1996, 2000, Kawaguchi Yoriko - 2004, Kōmura Masahiko - 2008, Nakasone Hirofumi - 2009, Okada Katsuya - 2010, Maehara Seiji - 2010, Genba Kōichirō - 2012, Kishida Fumio - 2016, Kōno Tarō - 2018 và Motegi Toshimitsu - 2020)

Về phía Việt Nam:

Thủ tướng Việt Nam thăm Nhật Bản 6 lần (1993, 1999, 2001, 2003 - 2 lần, tháng 6 năm 2004 và tháng 11 năm 2021).

Chủ tịch nước Việt Nam cũng đã 5 lần thăm Nhật Bản (2007, 2011, 2014, 2018, 2023).

Tổng Bí thư thăm 3 lần (1995, 2002 và 2015),

Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã thăm Nhật Bản.

Năm 2002, Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam-Nhật Bản theo phương châm "đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững".

Hai bên đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều cấp. Ngoài đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993), hai bên cũng đã xây dựng được cơ chế đối thoại kinh tế, an ninh và quốc phòng. Hai bên đã trao đổi tùy viên quân sự, mở Tổng lãnh sự quán ở Thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam và Osaka ở Nhật Bản

Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...); coi trọng quan hệ với Việt Nam, lấy lợi ích và mục tiêu lâu dài làm trọng. Việt Nam ủng hộ Nhật làm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc mở rộng, và vận động Nhật ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.

Quan hệ kinh tế

Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.

Về mậu dịch

Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999. Nhật Bản là bạn hàng số một của Việt Nam. Kim ngạch 2 chiều năm 2003 đạt 5,9 tỷ USD, nhanh chóng tăng lên đến 8,5 tỷ USD vào năm 2005, 10 tỷ USD năm 2006, 12 tỷ USD năm 2007, và 17 tỷ USD năm 2008. Tuy nhiên trong năm 2009, vì khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tổng thương mại giảm xuống 12,2 tỷ trong năm 2009, nhưng nhanh chóng phục hồi lại đến 16 tỷ USD trong năm 2010.

Đầu tư trực tiếp

Đến tháng 11/2003 có 354 dự án với số vốn đăng ký 4,47 tỷ USD. Trong số 62 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật đứng thứ 3 sau Singapore và Đài Loan về số vốn đăng ký nhưng đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào thực hiện (3,7 tỷ USD). 11 tháng đầu năm 2003, Nhật đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn 78 triệu USD, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2002. Hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng 11/2003. Tháng 12/2003 hai bên đã thoả thuận Sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Về ODA

nhỏ|340x340px|[[Chùa Cầu ở Hội An, một công trình do thương nhân Nhật Bản xây dựng.]] Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, từ 1992-2003 đạt khoảng 8,7 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại khoảng 1,2 tỷ USD. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yên, giảm khoảng 1.2% so với năm 2002.

Hai bên đã thoả thuận chương trình viện trợ lâu dài của Nhật Bản cho Việt Nam nhằm vào 5 lĩnh vực chính là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây dựng và cải tạo các công trình giao thông và điện lực; phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển giáo dục đào tạo và y tế; bảo vệ môi trường. Ngày 2/6/2004, Nhật Bản đã công bố chính sách viện trợ ODA mới cho Việt Nam với 3 mục tiêu chính: Thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống - xã hội, hoàn thiện cơ cấu. Tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Shinzo Abe công bố khoản ODA trị giá khoảng 100 tỷ yên (tương đương 1 tỷ USD) cho 5 dự án thuộc đợt 2 tài khóa 2013.

Về hợp tác lao động

Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử 16 ngàn tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật. Nhật là một thị trường tiềm năng cho lao động Việt Nam trong 5-10 năm tới. Tuy nhiên mấy năm gần đây nổi lên vấn đề lao động Việt Nam bỏ trốn tại Nhật (tỷ lệ bỏ trốn năm 2002 là 24,7%, cao nhất trong các nước cử lao động sang Nhật) gây khó khăn cho việc hợp tác lao động.

Về văn hóa giáo dục

Hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình thanh niên ASEAN (100 người/năm) và trao đổi các đoàn văn hóa, những người người tình nguyện, chuyên gia. Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam từ 1 đến 2 dự án viện trợ văn hoá không hoàn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết bị bảo quản tư liệu Viện Hán-Nôm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình. Về giáo dục, Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngoài ra còn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người. Trong 5 năm (1994-1999), Chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường tiểu học ở các tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai. nhỏ|[[Cầu Nhật Tân ở Hà Nội được tài trợ bởi Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản|340x340px]]

Về du lịch

Nhật Bản cũng là một thị trường được chú trọng để phát triển du lịch Việt Nam. Năm 2002 đã có 280 ngàn khách Nhật Bản thăm Việt Nam. Do ảnh hưởng của SARS, du lịch Nhật Bản vào Việt Nam trong năm 2003 giảm sút. Từ tháng 1/2004, Việt Nam đã chính thức đơn phương miễn thị thực cho người Nhật Bản đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và gần đây nhất từ 1/7/2004, Việt Nam đã quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho công dân Nhật. Đây là thuận lợi lớn để thúc đẩy du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Từ ngày 1/5/2005, Việt Nam và Nhật Bản song phương miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ. Trong năm 2011, du khách Nhật Bản đến thăm Việt Nam đã tăng lên đến 428.000 lượt, tăng 8,9% so với năm 2010.

Các đại sứ ngoại giao giữa hai nước

Đại sứ Nhật Bản tại Quốc gia Việt Nam & Việt Nam Cộng hòa

Konagaya Yutaka (1955–1957)

Ogawa Seishiro (1957–1958, Đại biện)

Kubota Kanichiro (1958–1961)

Takano Tokichi (1961–1963)

Takahashi Satoru (1963–1966)

Nakayama Yoshihiro (1966–1967)

Aoki Morio (1967–1968)

Kitahara Hideo (1968–1970)

Togo Fumihiko (1970–1972)

Nara Yasuhiko (1972–1975)

Hitomi Hiroshi (1975)

Đại sứ Nhật Bản tại Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Hitomi Hiroshi (1975)

Watanabe Koji (1975–1976, Đại biện)

Uchida Tomio (1976, Đại biện)

Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa & CHXHCN Việt Nam

Imagawa Yukio (1973–1976, Đại biện)

Hasegawa Takaaki (1976–1979)

Noda Eijiro (1979–1981)

Yatabe Atsuhiko (1981–1984)

Tsutsumi Koichi (1984–1986)

Matano Kagechiaka (1986–1988)

Asomura Kuniaki (1988–1991)

Yushita Hiroyuki (1991–1994)

Ogura Kazuo (1994–1995)

Suzuki Katsunari (1995–1999)

Nakamura Takeshi (1999–2001)

Yamazaki Ryuichiro (2001–2002)

Hattori Norio (2002–2008)

Sakaba Mitsuo (2008–2010)

Tanizaki Yasuaki (2010–2013)

Fukada Hiroshi (2013–2016)

Umeda Kunio (2016–2020)

Yamada Takio (2020–2024)

Ito Naoki (2024–nay)

Đại sứ Quốc gia Việt Nam & Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản

Đinh Văn Kiều (1955, Đại biện)

Nguyễn Ngọc Thơ (1955–1956)

Bùi Văn Thinh (1956–1962)

Nguyễn Huy Nghĩa (1963)

Nguyễn Văn Lộc (1963–1965, Đại biện)

Nguyễn Duy Quang (1965–1967)

Vĩnh Thọ (1967–1970)

Đoàn Bá Cang (1970–1972, Đại biện)

Đỗ Vạng Lý (1972–1974)

Nguyễn Triệu Đan (1974–1975)

Đại sứ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa & CHXHCN Việt Nam tại Nhật Bản

Trần Đức Tuệ (1976, Đại biện)

Nguyễn Giáp (1976-1980)

Nguyễn Tiến (1981-1984)

Đào Huy Ngọc (1984-1987)

Lương Mạnh Tuấn (1987–1988, Đại biện)

Võ Văn Sung (1988-1992)

Nguyễn Tâm Chiến (1992-1995)

Nguyễn Quốc Dũng (1995-1999)

Vũ Dũng (1999-2003)

Lưu Văn Kế (2003, Đại biện)

Chu Tuấn Cáp (2003-2007)

Nguyễn Minh Hà (2007–2008, Đại biện)

Nguyễn Phú Bình (2008-2011)

Đoàn Xuân Hưng (2012-2015)

Nguyễn Quốc Cường (2015-2018)

Vũ Hồng Nam (2018-2022)

Nguyễn Đức Minh (2022–2023, Đại biện)

Phạm Quang Hiệu (2023-nay)

Đại sứ quán, lãnh sự quán

  • Tại VIệt Nam:
  • Hà Nội (Đại sứ quán)
  • Thành phố Hồ Chí Minh (Lãnh sự quán)
  • Đà Nẵng (Lãnh sự quán)
  • Tại Nhật Bản:
  • Tōkyō (Đại sứ quán)
  • Osaka (Lãnh sự quán)
  • Fukuoka (Lãnh sự quán)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam** () gọi tắt là **quan hệ Việt – Tây**, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng
**Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam** tắt là **quan hệ Việt-Nhật** (tiếng Nhật:日越関係) bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật Bản đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập
**Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
**Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam** là đại diện chính thức Nhật Bản tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. ## Lịch sử Bắt đầu từ năm 1973, Nhật Bản đã thiết
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Hệ thống đánh mã máy bay quân sự của Nhật Bản** trong thời kỳ Đế quốc (trước 1945) bao gồm hệ thống cho mỗi đơn vị vũ trang. Điều này dẫn đến việc sử dụng
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam** là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính thức giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai quốc gia
Huy hiệu chính thức của Chính phủ Nhật Bản **Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Nhật Bản đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Quan hệ Malaysia-Việt Nam** (tiếng Malay _Hubungan Malaysia-Vietnam_) là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Malaysia, được thiết lập ngày 30/3/1973. Việt Nam đã mở đại sứ quán tại Kuala Lumpur và
**Quan hệ Việt Nam - Cuba** là mối quan hệ đặc biệt, đồng minh chiến lược theo ý thức hệ, đồng thời là đối tác chiến lược toàn diện trên tất cả lĩnh vực, được
Quan hệ Việt Nam-Singapore đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Cộng hòa Singapore và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Singapore và Việt Nam bắt đầu quan hệ thương mại
**Quan hệ Algérie-Việt Nam** là quan hệ song phương giữa Algérie và Việt Nam. Hai nước thiết lập quan hệ vào năm 1962, mặc dù mối quan hệ giữa Algérie và Việt Nam đã được
thumb|Thủ tướng Nhật Bản [[Shinzō Abe (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Đà Nẵng, Việt Nam vào tháng 11 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Trung Quốc tại Nhật
nhỏ| Thủ tướng Nhật Bản [[Abe Shinzō|Shinzō Abe với Tổng thống Mỹ Donald Trump tại G7 lần thứ 45 ở Biarritz, tháng 8 năm 2019. ]] nhỏ|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Nhật Bản. nhỏ|Đại
là danh xưng lực lượng quân sự hợp thành của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi nắm được quyền lực kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện
**Giải bóng đá hạng Nhất Quốc gia Việt Nam** hay **giải hạng Nhất** (tiếng Anh: **V.League 2**, hiện tại còn được gọi là **Gold Star V.League 2** vì lý do tài trợ) là giải đấu
**Quan hệ ngoại giao Liên minh châu Âu (EU)-Việt Nam** chính thức thiết lập vào ngày 28-11-1990. Cơ quan đại điện ngoại giao của EU - Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam-
Lá cờ của tổng thống Cộng hòa Séc **Tổng thống Cộng hòa Séc thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Tổng thống Cộng hòa Séc đến Việt Nam vào những thời điểm khác
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
**Quan hệ Lào – Việt Nam** hay còn được biết đến với tên thông dụng là **Quan hệ hữu nghị Việt – Lào** là mối quan hệ cấp đặc biệt, đồng minh chiến lược theo
**Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines** là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12
**Hệ thống pháp luật Việt Nam** là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với
thumb|Logo kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Đức-Việt vào năm 2015 Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và Cộng hòa Liên bang Đức (BRD) đã lập quan hệ ngoại giao vào
là một bộ chỉ huy thống nhất trực thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USINDOPACOM). Đơn vị được kích hoạt tại Phi trường Fuchū ở Tokyo, Nhật Bản, vào ngày
**Đài Truyền hình Việt Nam** (VTV) là đài truyền hình quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam. Trong lịch sử hoạt động của mình, VTV từng vướng phải không ít những sự việc, thậm
**Sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam** là công dân Việt Nam được tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện và hoạt động trong lĩnh vực nghiệp vụ của Công an nhân dân Việt Nam,
**Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai** là một giai đoạn lịch sử quan trọng tại Việt Nam kể từ khi Thế Chiến thứ hai bùng nổ cho đến khi cuộc chiến này
**Quan hệ Việt Nam – Ukraina** là mối quan hệ song phương chính thức giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Ukraina. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên
**Hệ đo lường cổ Việt Nam** bao gồm chủ yếu các đơn vị đo số thập phân thường được sử dụng trong phong tục tập quán Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu sử
() cũng có thể gọi theo tiếng Nhật chuyển tự Latinh là **_Zainichi_** là những người Triều Tiên di cư đến Nhật Bản trước năm 1945 và trở thành công dân hoặc thường trú nhân
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện** là cụm từ chỉ quan hệ ngoại giao giữa hai nước với nhau. Quan hệ từ đối tác song phương, đối tác khu vực tới đối tác
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam** bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
Hiệp hội bóng chuyền nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay gọi là Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam) được thành lập ngày 10 tháng 6 năm 1961 theo Quyết định số 138-NV ngày
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI**, hay còn gọi là **Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam**, được tổ chức từ ngày 15
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.