✨Quan hệ Đài Loan – Việt Nam

Quan hệ Đài Loan – Việt Nam

Quan hệ Đài Loan – Việt Nam là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc. Tuy là một quốc gia có mối quan hệ mật thiết và chỉ chính thức công nhận chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cũng như chính sách Một Trung Quốc, Việt Nam vẫn duy trì mối quan hệ ngoại giao không chính thức với Đài Loan một cách độc lập. Những tác động từ văn hóa (Đài lưu), di dân hoặc hợp tác lao động, hợp tác đầu tư (Đài Loan là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam vào năm 2006) đã củng cố mối quan hệ không chính thức này. Hai nước thường xuyên duy trì những chuyến viếng thăm song phương, giúp đẩy mạnh dòng vốn đầu tư đáng kể giữa Đài Loan và Việt Nam.

Phong trào cách mạng Việt Nam với Chủ nghĩa Tam Dân

Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, nhiều nhà cách mạng Việt Nam đã học hỏi từ các mô hình cách mạng của Trung Quốc. Đặc biệt, chủ nghĩa Tam Dân và sự thành công cách mạng Tân Hợi đã cổ vũ rất nhiều cho phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Sau thất bại của phong trào Đông Du, nhà cách mạng Phan Bội Châu đã thành lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội, đưa nhiều nhà cách mạng trẻ Việt Nam sang đào tạo, huấn luyện tại Trung Hoa Dân quốc. Dù không lâu sau đó, lãnh tụ Phan Bội Châu bị bắt, Quang phục Hội tan rã, các tổ chức cách mạng Việt Nam kế tục như Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Đại Việt Quốc dân Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng... vẫn phát triển trên những nền tảng mà Phan Bội Châu đã gầy dựng. Trong thời kỳ hợp tác Quốc - Cộng, các tổ chức cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc liên tục được mở rộng. Một số nhà cách mạng trẻ Việt Nam còn được đào tạo tại Trường Quân sự Hoàng Phố, cái nôi đã đào tạo ra nhiều danh nhân quân sự Trung Quốc thời hiện đại.

Hợp tác Quốc - Cộng tan vỡ, phong trào cách mạng Việt Nam vì thế cũng bị phân hóa. Do ảnh hưởng của Trung Quốc Quốc dân Đảng đối với cách mạng Việt Nam, hình thành nên nhiều tổ chức chính trị theo chủ nghĩa Tam Dân, nổi bật nhất là Việt Nam Quốc dân Đảng. Những nhà cách mạng Việt Nam theo xu hướng Quốc tế Cộng sản, không lâu sau đó, cũng tập hợp thành tổ chức thống nhất Việt Nam Cộng sản Đảng (sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương). Phái bảo hoàng hình thành tổ chức Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội dưới sự tài trợ của Đế quốc Nhật Bản. Cả 3 xu hướng đều lấy Trung Quốc làm hậu cứ để phát triển lực lượng cho phong trào cách mạng trong nước.

Đồng minh chống Nhật ở Đông Dương

Thế chiến thứ hai nổ ra, Nhật tiến quân vào Đông Dương nhưng vẫn duy trì chính quyền thực dân Pháp. Trước tình hình này, các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc hình thành ý định hợp nhất trong một tổ chức mở rộng. Tháng 10 năm 1940, tại Quế Lâm (Trung Quốc), nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc vận động các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc thống nhất hoạt động dưới danh nghĩa Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, do Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần lãnh đạo. Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội vốn là tổ chức tiền thân của Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội từ năm 1936 đến 1939. Các tổ chức cách mạng Việt Nam tham gia Hội trên danh nghĩa gồm Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng. Các nhà cách mạng cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc cũng có điều kiện hoạt động hợp pháp dưới danh nghĩa của Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội.

Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phát triển cách mạng trong nước sau 30 năm ở nước ngoài. Ông cũng đã xúc tiến thành lập Hội Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Kế thừa tính chất cách mạng mở rộng thống nhất của Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, tổ chức này ra tuyên ngôn: "Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Điều lệ của Việt Minh cũng ghi rõ "Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh".

Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện cho Việt Minh để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Tuy nhiên, khi sang đến Trung Quốc, ông bị chính quyền địa phương Trung Quốc bắt giữ và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Trước đó, với Sự kiện Tân Tứ quân (tháng 1 năm 1941), mặt trận thống nhất chống Nhật của người Trung Quốc xem như tan vỡ, tác động tiêu cực cả lên sự hợp tác giữa các nhà cách mạng Việt Nam.

Nhằm tạo ra một đồng minh chống Nhật ở Đông Dương, lãnh đạo Chính phủ Quốc dân Tưởng Giới Thạch, từ đầu thập niên 1940 đã chỉ thị tướng Trương Phát Khuê hỗ trợ cho các tổ chức cách mạng người Việt chống Pháp trong lãnh địa của mình (Nam Trung Quốc), và chuẩn bị cho việc kiểm soát miền Bắc Đông Dương sau chiến tranh,, tiến đến đưa Bắc Đông Dương thống nhất vào Trung Quốc theo nguyên tắc Tam Dân. Dưới sự bảo trợ của Trương, một tổ chức liên minh chính trị đấu tranh cho quyền độc lập của Việt Nam nhưng loại trừ những người Cộng sản hoặc có xu hướng thiên Cộng, lấy tên là Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Cách, thành lập 1 tháng 10 năm 1942. Việc loại trừ mọi ảnh hưởng những người Cộng sản Việt Nam trong tổ chức Việt Cách, với Trương là nhằm mục tiêu gây dựng ảnh hưởng của Trung Quốc với Đông Dương.

Trên thực tế, các tổ chức thành viên của Việt Cách bị chia rẽ, chống đối nhau về phương pháp tiến hành đấu tranh và sự tranh giành quyền lực giữa lãnh tụ của các nhóm này đã che lấp mất mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ. Trong số các lãnh tụ của Việt Cách, nhóm Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ, do được chính phủ Trùng Khánh hậu thuẫn, được xem có thế lực nhất. Trong khi đó, Trương lại đặc biệt hỗ trợ cho Nguyễn Hải Thần. Trước tình hình đó, Trương đành chuyển sự chú ý đến Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng mới nổi và đang được "an dưỡng" trong các nhà tù của Trương.

Hồ Chí Minh được trả tự do, kèm theo lời hứa thống nhất và tổ chức Việt Cách thành một khối thuần nhất do Trung Quốc đỡ đầu. được đặt ra và do tướng Tiêu Văn, phó chỉ huy lực lượng Trung Quốc giải giáp quân Nhật ở miền Bắc Đông Dương, trực tiếp phụ trách.

Cuối tháng 8 năm 1945, 20 vạn quân Trung Quốc do Lư Hán làm Tổng chỉ huy, vượt biên giới Việt-Trung tiến vào Việt Nam. Các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách và Phục Quốc, dưới sự hỗ trợ của quân Trung Quốc chia nhau kiểm soát các địa phương phía Bắc Hà Nội, xung đột vũ trang với Việt Minh để giành quyền kiểm soát ở một số nơi. Phía Trung Quốc còn gây nhiều áp lực, đòi phải "báo cáo quân số thực tế và tổ chức quân đội Việt Nam", đòi mỗi bộ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải có một người "liên lạc viên" của Trung Quốc, thậm chí đòi Việt Nam lùi giờ lại một tiếng theo giờ Trung Quốc.

Cũng trong thời gian này, dưới sự hỗ trợ của quân Anh, quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến hòng tái kiểm soát Đông Dương. Để tránh phải một lúc đối đầu với nhiều kẻ thù, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực hiện nhiều chính sách nhượng bộ, tránh xung đột với phía Trung Hoa Dân quốc, thậm chí với cả Việt Quốc, Việt Cách để tránh phải một lúc đối đầu với nhiều kẻ thù. Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Một chính phủ mới được thành lập, bổ sung thêm các thành viên của Việt Quốc và Việt Cách. Một cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, dù không tham gia nhưng Việt Quốc, Việt Cách vẫn gây sức ép để có 70 đại biểu đặc cách. Lãnh đạo Việt Cách, Nguyễn Hải Thần, trở thành Phó chủ tịch nước.

Tuy nhiên, bóng ma cuộc nội chiến mới đang trùm lên đất nước Trung Quốc. Nắm bắt được tình thế này, chính phủ Pháp đã ký với phía Trung Hoa Dân quốc Hiệp ước Hoa – Pháp, theo đó phía Trung Hoa Dân quốc sẽ rút quân khỏi Bắc Đông Dương, nhường lại quyền tiếp quản cho quân Pháp. Đổi lại, Pháp sẽ từ bỏ các quyền lợi ở Trung Quốc và ưu tiên cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi kinh tế ở Bắc Đông Dương. Sau khi quân Trung Quốc rút về nước, mất đi hậu thuẫn, Việt Quốc, Việt Cách nhanh chóng suy yếu hẳn, không đủ sức tranh giành quyền lực với Việt Minh. Nhiều lãnh đạo của Việt Quốc và Việt Cách bỏ trốn sang Trung Quốc, tiếp tục cuộc sống lưu vong.

Mối quan hệ lững lờ

Tuy rút khỏi Việt Nam, Trung Hoa Dân quốc vẫn duy trì một quan hệ ngoại giao ở cấp Tổng lãnh sự với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lãnh sự đầu tiên là Viên Tử Kiện (Yuen Tse Kien). Mối quan hệ tế nhị và lững lờ khi mà Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến và Trung Quốc thì rơi vào nội chiến.

Với sự thắng thế của Trung Quốc Cộng sản Đảng, chính quyền Trung Hoa Dân quốc mất dần quyền kiểm soát ở Đại lục và phải dời đến Đài Loan. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, nhanh chóng công nhận chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời hỗ trợ cho công cuộc kháng chiến của Việt Nam. Đổi lại, phía Việt Nam cũng công nhận chính quyền Trung Quốc, cắt đứt quan hệ với Trung Hoa Dân quốc.

Trong khi đó, vai trò lãnh sự Trung Hoa Dân quốc tại Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì trong khu vực do chính quyền phi cộng sản là Quốc Gia Việt Nam kiểm soát.

Quan hệ giữa Trung Hoa Dân quốc và Việt Nam Cộng hòa

Sau thất bại tại Điện Biên Phủ, theo Hiệp định Genève, 1954, Pháp phải rút khỏi Việt Nam. Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết. Tòa lãnh sự Trung Hoa Dân quốc dời vào Sài Gòn. Khi Ngô Đình Diệm tuyên bố phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và thành lập Việt Nam Cộng hòa. Trung Hoa Dân quốc ngay lập tức công nhận Việt Nam Cộng hòa bởi hai quốc gia này có cùng chung chính sách chống cộng sản. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thiết lập mối quan hệ chính thức với chính quyền Đài Bắc năm 1955. Quan hệ cấp Lãnh sự được nâng lên hàng Đại sứ. Đại sứ đầu tiên của Trung Hoa Dân quốc tại Việt Nam Cộng hòa cũng chính là cựu Tổng lãnh sự Viên Tử Kiện.

Mối quan hệ giữa Việt Nam Cộng hòa và Trung Hoa Dân quốc khá thân thiết, gần gũi hơn nhiều so với quan hệ của Đài Loan với các nước khác ở Đông Nam Á. Đài Loan đã nỗ lực truyền thụ cho các nước Đông Nam Á về những kinh nghiệm cay đắng và hiếm có trong vấn đề chống cộng, và Việt Nam Cộng hòa chính là người nhận được nhiều bài học nhất.

Đài Bắc cũng là quốc gia tiếp đón nhiều chuyến thăm cấp tổng thống từ miền Nam Việt Nam hơn bất cứ quốc gia nào khác trong khu vực. Chính quyền Đài Bắc đã có nhiều hỗ trợ cho các sinh viên Nam Việt Nam đến Đài Loan du học, cũng như có nhiều hỗ trợ vật chất và hậu cần cho chính quyền Sài Gòn trong cuộc chiến tại Việt Nam.

Đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn từ 1964 đến tận 1972 là Hồ Liên, tướng của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc có nhiều kinh nghiệm quân sự từ cuộc Nội chiến Quốc-Cộng. Đài Bắc và Sài Gòn từng là hai thành phố kết nghĩa. Tuy vậy mối quan hệ này đôi khi trở nên căng thẳng, đặc biệt là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam khi mà phần nhiều trong số họ vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc; chính quyền Đài Bắc cảm thấy bị xúc phạm vì Việt Nam Cộng hòa ước tính dân số Hoa kiều thấp. Ngay trước khi Sài Gòn thất thủ, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã di tản đến Đài Bắc nơi anh trai ông đang làm đại sứ. Một máy bay của hãng hàng không miền nam Việt Nam Air Viet Nam đã bị bỏ lại sân bay Tùng Sơn Đài Bắc và rốt cuộc trở thành tài sản của hãng hàng không sở tại.

Mối quan hệ càng tiến triển khi Việt Nam bước vào tiến trình Đổi Mới, thực hiện mở cửa. Năm 1991, chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại Liên Xô và đông Âu khiến Việt Nam mất đi chỗ dựa về cả kinh tế, quân sự, ngoại giao. Điều này buộc lòng Việt Nam phải mở rộng mối quan hệ ngoại giao với các nước tư bản, Đài Loan là một trong những quốc gia đầu tiên của quá trình ấy. Năm 1992, Văn phòng Kinh tế Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam được thành lập, có vị thế tương đương Đại sứ quán một cách không chính thức, về lãnh thổ phụ trách các khu vực từ Huế ra Bắc, kiêm nhiệm Lào. Bên cạnh đó, Văn phòng Kinh tế Văn hóa Đài Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng được thành lập, có vị thế tương đương Lãnh sự quán một cách không chính thức, về lãnh thổ phụ trách các khu vực từ Đà Nẵng vào Nam, kiêm nhiệm Campuchia. Phía Việt Nam cũng đặt Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, có vị thế như một Đại sứ quán.

nhỏ|phải|Máy bay Trương Trung Mưu bay đến Hà Nội Năm 2006, chủ tịch công ty sản xuất chất bán dẫn Đài Loan Trương Trung Mưu tới Hà Nội với vai trò đại diện đặc biệt của Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc khi đó là Trần Thủy Biển tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Một cách bất thường, Trương Trung Mưu bay đến Hà Nội bằng máy bay riêng của Tổng thống Trần Thủy Biển, một chiếc Boeing 737-800 do Không quân Trung Hoa Dân Quốc điều khiển. Chiếc máy bay có sơn quốc huy và quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc vốn trước đó chưa bao giờ được phép hạ cánh xuống quốc gia mà Đài Loan không có quan hệ chính thức.

Đầu tư

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một công cụ chính trị quan trọng của Đài Loan. Theo Samuel Ku, Đài Bắc sử dụng "những nguồn lực kinh tế của hòn đảo để đổi lấy lợi ích chính trị từ Việt Nam".. Ngay từ ngày đầu Đổi Mới, Việt Nam đã rất quan tâm học hỏi kinh nghiệm của Đài Loan đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm làm giảm bớt sự thiếu hụt kinh niên hàng hóa tiêu dùng của chính Việt Nam. Tính đến 2006, các nhà đầu tư đến từ Đài Loan đã đầu tư 8 tỷ Đô la Mỹ vào Việt Nam, đặc biệt là vào thiết bị và công trình phục vụ các ngành sản xuất thâm dụng lao động tại các khu chế xuất. Mức đầu tư này đã biến Đài Loan trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Việt Nam vào năm 2006. Bài học của Đài Loan đã được Hàn Quốc, một lãnh thổ có hoàn cảnh tương tự như Đài Loan, học tập và vượt qua, trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Việt Nam trong thập niên 2010.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ Đài Loan – Hoa Kỳ** là chỉ quan hệ song phương giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc. Trước năm 1979, hai bên có quan hệ ngoại giao chính
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.
**Luật Quan hệ Đài Loan** là một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ quy định về quan hệ không chính thức giữa Hoa Kỳ và Đài Loan sau khi Hoa Kỳ thừa nhận nhà
**Người Đài Loan tại Việt Nam** bao gồm phần lớn là các thương gia và gia đình họ. Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh của Hiệp hội Phát triển Ngoại thương Đài Loan (trụ
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
**Quan hệ Đài Loan – Hàn Quốc** có tình trạng chính thức từ năm 1949 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1992, khi Đại Hàn Dân Quốc và Trung Hoa Dân Quốc đình chỉ
**Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam** (, _Trú Việt Nam Đài Bắc Kinh tế Văn hóa Biện sự xứ_) là văn phòng đại diện của Đài Loan tại Việt
Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đã đến thăm Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, vào ngày 2 tháng 8 năm 2022. Bà được hộ tống bởi một phái
nhỏ|phải|Khẩu hiệu phản đối Trung Quốc ở Vũng Tàu **Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc lắp đặt giàn khoan thăm dò dầu khí HD-981** đã diễn ra trong tháng 5 năm 2014 (gần
**Người Việt tại Đài Loan** hay **Người Đài Loan gốc Việt**, có số lượng tương đối lớn so với những người nước ngoài khác ở đây. Có khoảng 80.000 người Việt Nam ở Đài Loan
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam** là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính thức giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai quốc gia
**Vụ du khách Việt Nam bỏ trốn tại Đài Loan 2018** (hoặc **Chuyên án Quan Hồng** Năm 2015, Đài Loan ban hành chương trình thị thực Quan Hồng cho nhóm gồm số lượng từ năm
**Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc** (, _Trú Đài Bắc Việt Nam Kinh tế Văn hóa Biện sự xứ_) là một cơ quan đại diện ngoại giao không chính
**Cô dâu Việt tại Đài Loan** đã gia tăng số lượng khi hôn nhân giữa đàn ông Đài Loan và cô dâu sinh ở nước ngoài trở nên phổ biến hơn. Tính đến năm 2006,
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
**Cá chết hàng loạt ở Việt Nam 2016** hay còn gọi là **Sự cố Formosa** đề cập đến hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh) bắt đầu từ ngày
**Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam** tắt là **quan hệ Việt-Nhật** (tiếng Nhật:日越関係) bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật Bản đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập
**Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines** là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Làn sóng Đài Loan** hay **Đài lưu** (tiếng Nhật: 台流), hay còn gọi đầy đủ là **làn sóng văn hóa Đài Loan**, là tên gọi bắt nguồn từ Nhật Bản để chỉ sự lan toả
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan** còn được gọi là **Quốc Dân Đảng dời sang Đài Loan** hay **Cuộc rút lui vĩ đại **đề cập đến cuộc di cư của chính phủ Trung
**Lịch sử Đài Loan** từ ngày 25 tháng 10 của năm 1945 đến nay là một phần của lịch sử Trung Hoa Dân quốc dưới sự cai trị của Trung Hoa Dân quốc. ## Tóm
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Nhà đương cục Đài Loan** () còn gọi là **Nhà chức trách Đài Loan** (台湾有关方面), **Nhà cầm quyền Đài Loan** (台灣方面) gọi tắt là **Đài đương cục** (台当局), nghĩa là **Nhà đương cục Đài Loan,
**Vụ Trịnh Xuân Thanh trở về Việt Nam** là một câu chuyện có 2 phiên bản khác nhau. Chính vì 2 phiên bản trái ngược đưa đến một cuộc khủng hoảng quan hệ ngoại giao
**Trung Hoa Dân Quốc** (Đài Loan), thường được gọi là Quốc Dân Đảng Trung Quốc ủng hộ miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa) trong chiến tranh Việt Nam. Cả hai đều là các
Hiệp hội bóng chuyền nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay gọi là Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam) được thành lập ngày 10 tháng 6 năm 1961 theo Quyết định số 138-NV ngày
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Hội nghị Cấp cao APEC** lần thứ 14 được tổ chức từ ngày 12 đến 14 tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội, Việt Nam. Hội nghị tập trung vào việc thảo luận và thông
**Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam** (viết tắt **MLNQVN**), tên tiếng Anh là ** Vietnam Human Rights Network ** (viết tắt **VNHRN**), là một tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận, được thành
**Người Hàn Quốc tại Việt Nam**, theo thuật ngữ tiếng Việt hiện đại, là một trong những nhóm người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam mang quốc tịch Hàn Quốc. Họ gồm chỉ
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Bộ đội Phú Đài** là danh xưng phổ biến dùng để chỉ các đơn vị tàn quân của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) năm 1949 và được
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Văn hoá Đài Loan** là sự pha trộn giữa nhà Khổng giáo và các nền văn hoá thổ dân Đài Loan, thường được hiểu theo nghĩa truyền thống và hiện đại. Kinh nghiệm chính trị
**Văn phòng Kinh tế Văn hóa Đài Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh** (, _Trú Hồ Chí Minh thị Đài Bắc Kinh tế Văn hóa Biện sự xứ_) là một văn phòng đại diện
**Đảo Đài Loan** (Chữ Hán chính thể: 臺灣 hoặc 台灣; Chữ Hán giản thể: 台湾; Bính âm: _Táiwān_; Wade-Giles: _T'ai-wan_; tiếng Đài Loan: _Tâi-oân_) là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại **Đài Loan**, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ
**Phong trào độc lập Đài Loan** hay **Đài độc** (**臺獨** hoặc **台獨**) là một phong trào chính trị theo đuổi sự độc lập chính thức cho Đài Loan. Các mục tiêu của việc độc lập
**Đài Loan** là một hòn đảo và một quần đảo tại Đông Á, bao gồm đảo Đài Loan và một số đảo nhỏ hơn xung quanh như quần đảo Bành Hồ, Lan tự, Lục đảo,
**Địa lí Việt Nam** là các đặc điểm địa lí của nước Việt Nam, một quốc gia nằm ở bên phía đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á. Tổng
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),