✨Tê giác một sừng Việt Nam
Tê giác một sừng Việt Nam (Danh pháp khoa học: Rhinoceros sondaicus annamiticus) là một phân loài của loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) phân bố ở Việt Nam sống ở Việt Nam, Lào, Campuchia, tới cả Thái Lan và Malaysia. Thuật ngữ Annamiticus bắt nguồn từ tên gọi Annamite của dãy Trường Sơn ở Đông Dương, một phần khu vực phân bố của loài này, chúng còn biết với tên Tê giác Java Việt Nam hay còn gọi đơn giản là Tê giác Việt Nam vì Việt Nam chỉ có loài này, người Xtiêng gọi chúng là Pai-ro-mhai. Phân tích di truyền cho thấy rằng hai phân loài còn tồn tại ở Việt Nam và Indonesia đã có cùng một tổ tiên chung cách đây khoảng chừng 300.000 đến 2 triệu năm trước. Giống tê giác một sừng được coi là bị tuyệt chủng tại đất liền châu Á cũng như Đông Nam Á lục địa, cho đến khi người ta phát hiện ra một cá thể tê giác bị săn bắn vào năm 1988 tại khu vực Cát Tiên.
Dù được con người quan tâm bảo tồn nhưng diện tích cư trú của tê giác vẫn bị xâm lấn 15% vào năm 1990 và con số tê giác còn sống đã giảm xuống chỉ còn 5-8 con vào năm 1999. Theo đánh giá năm 2000, có khoảng 6.000 người sống bên rìa khu vực Vườn quốc gia, ở các vùng bãi bồi triền sông, môi trường sống ưa thích của tê giác, bắt đầu xâm lấn để trồng lúa, cộng thêm với lực lượng kiểm lâm bảo vệ ít ỏi (dưới 20 người), nên người ta cho rằng tê giác Việt Nam chỉ có thể tồn tại trong vòng từ 3-5 năm nữa. Sau đó cơ quan bảo tồn ước tính chỉ còn 3-8 con tê giác và có thể không có con đực nào sống sót. Tê giác Việt Nam sinh sống ở Vườn Quốc gia Cát Tiên tập trung chủ yếu trong phạm vi khoảng 5.000 ha rừng trên địa bàn xã Gia Viễn. Trong đó, cá thể tê giác cuối cùng đã từng sống tại khu rừng Cát Lộc, khu vực phía bắc của Vườn Quốc gia Cát Tiên.
Dù trước kia đã từng phổ biến trên toàn Đông Nam Á, nhưng sau Chiến tranh Việt Nam, phân loài tê giác Java Việt Nam được coi là đã tuyệt chủng. Những phương pháp sử dụng trong chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng hệ sinh thái của khu vực, ví dụ như sử dụng bom napan, chất độc da cam làm rụng lá, ném bom không kích hay thả mìn. Chiến tranh đã đem tới cho nơi đây hàng loạt những loại vũ khí mà người ta có thể tiếp cận với giá rẻ. Sau chiến tranh, những người dân nghèo, nếu trước kia chỉ dùng hố bẫy, nay lại có những vũ khí gây chết người trong tay, giúp họ trở thành những kẻ săn bắt hiệu quả. Vườn Quốc gia Cát Tiên được nhiều người biết đến bởi là khu bảo tồn động vật hoang dã và từng có loài tê giác một sừng tồn tại, trong khi đó loài này đã tuyệt chủng ở khu vực đất liền Đông Nam Á nhưng con tê giác cuối cùng cũng đã gục ngã trước tiếng súng của đám săn bắn.
Một bất ngờ khi một con tê giác cái trưởng thành bị bắn chết vào năm 1988. Tin này phản bác giả định rằng tê giác đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Năm sau, tức năm 1989, các nhà khoa học đến khảo sát khu rừng miền Nam Việt Nam để tìm dấu hiệu về những con sống sót còn lại đã phát hiện dấu vết mới của ít nhất 15 con tê giác sinh sống trong khu vực dọc sông Đồng Nai Do mức độ quan trọng của quần thể này nên khu vực chúng sống đã trở thành Khu bảo tồn tê giác Cát Lộc vào năm 1992, sau đó đã sáp nhập vào Vườn quốc gia Cát Tiên năm 1998, tuy nhiên hai khu vực này lại bị ngăn cách bởi các khu đất nông nghiệp và một con đường nối giữa các làng đã chia cắt môi sinh của quần thể tê giác.
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, người ta phát hiện một con tê giác đã bị kẻ săn trộm bắn chết tại vườn quốc gia Cát Tiên. WWF đã điều tra và kết luận con tê giác không chết do nguyên nhân tự nhiên, vì nó đang ở tuổi trưởng thành từ 15-25 tuổi. Tê giác thường sống thọ 40 năm, nó chết do vết thương đạn gây ra, vết thương do viên đạn ở chân, bị bắn khoảng hơn 2 tháng trước khi con vật chết, tê giác bị chết do vết thương từ viên đạn. Viên đạn đã gây ra các vết thương rộng miệng, dẫn đến thương tổn nặng, nhiễm trùng và làm nó tê liệt không di chuyển được nhiều tháng trước khi chết. Những kẻ săn trộm dễ dàng lần theo dấu vết của một con tê giác bị thương và không loại trừ khả năng nó đã bị bắn tiếp sau đó. Mặc dù động cơ giết con tê giác này chưa được xác định, nhưng có khả năng nó bị giết để lấy sừng và sử dụng làm đông dược vì sừng tê giác đã bị cưa và lấy mất Đến tháng 10 năm 2011, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên cho biết con tê giác đó là con tê giác cuối cùng tại Việt Nam, và hiện tại loài tê giác Java đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế (International Rhino Foundation- IRF) cũng đã khẳng định tin này. Hiện nay, chúng được công bố là đã tuyệt chủng khi cá thể tê giác cuối cùng đã bị bắn hạ vào tháng 4 năm 2010, là dấu chấm hết cho những nỗ lực bảo tồn của quốc tế về loài tê giác này. Xác tê giác được báo chí thế giới đưa tải trong các bài viết về nạn buôn bán sừng tê giác được cho là xuất phát từ Việt Nam.
Đặc điểm
Hình thái
Về tầm vóc, tê giác một sừng Việt Nam cùng thuộc một chi với loài tê giác Ấn Độ, nhưng nhỏ hơn tê giác Ấn Độ và gần tương đương với kích cỡ loài tê giác đen, đồng thời những con tê giác Việt Nam thì nhỏ hơn đáng kể so với đồng loại ở Java dựa trên những bằng chứng hình ảnh hay kích cỡ dấu chân của chúng. Những thông số cơ thể cho thấy chúng chỉ dài có 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và cao 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft), mỗi con tê giác này có chiều dài thân 3.000mm, dài đuôi 600-750mm, cao 1.500mm, trọng lượng trên 2.000 kg, có con chỉ dài 2m. Không có sự khác biệt kích cỡ đáng kể nào giữa hai giới, nhưng con cái có thể to hơn con đực một ít. Bề ngoài, con tê giác có một cái sừng, mình dài, nhưng thấp hơn con trâu, và đen trùi trũi. Chúng là loài mãnh thú to lớn, đầy sức mạnh, nét nổi bật của tê giác là lớp da bảo vệ của chúng được tạo thành từ các lớp chất keo với độ dày như một bộ áo giáp, và nhất là chiếc sừng mọc trên mũi tạo thêm sức mạnh cho tê giác, điểm yếu là chúng sẽ chẳng thể làm gì nếu mất một chân hoặc không có chân, chúng quá nặng để đi cà nhắc, đi khập khiễng.
Sừng của tê giác này có độ dài thường dưới 25 cm (10 inch), nhỏ hơn các loài tê giác khác, sừng tê giác này không lớn lắm, nó dễ dàng nằm lọt thỏm trong bàn tay, có thể bỏ nó vào túi. Mũi chúng cứng, môi trên cử động được để bứt lá, chúng có thị giác kém phát triển. Đôi chân chúng khỏe mạnh, chân chúng to, ngắn có 3 ngón với móng guốc hình bán nguyệt. Lưng và hai bên hông màu xám sẫm, bụng màu hơi đỏ. Giống tê giác Ấn Độ, chúng cũng có một bộ da nếp gấp giống như một bộ áo giáp, chúng có da dày, cứng với các nếp gấp sâu chia bề mặt ra thành nhiều mảnh giống áo giáp, với lớp da này, tê giác trông như một chiếc xe thiết giáp (xe bọc thép) đồ sộ, việc các loài thú ăn thịt tấn công chúng dường như là điều bất khả thi, do đó trong tự nhiên, tê giác gần như không có kẻ thù nào trừ con người và con người là kẻ đi săn duy nhất đối với các con tê giác trưởng thành.
Chúng có những bước đi của nó chắc nịch, mạnh mẽ, những tê giác có bước đi chậm rãi với bước đi oai vệ sừng sững uy lực, chúng thường hay dậm chân và thở phì phò, khi nghe tiếng kêu khè khè rồi tiếng chân giậm đất bình bịch thì biết là tê giác về, có nhân chứng cho biết khi nghe tiếng thở khì khì và chợt thấy một con tê giác lừng lững nặng hơn 1 tấn lấp ló đang ăn và con tê giác phát hiện người thì bỏ chạy, tiếng chân nó giẫm lên tre nứa gãy rôm rốp, ầm ầm như xe tăng đi trong rừng. Chúng rất nhút nhát và thường trốn chạy vào trong rừng rậm mỗi khi con người tới gần. Dù điều này là đặc điểm rất hữu ích khi đứng trên quan điểm bảo tồn, nhưng nó lại gây khó khăn cho việc nghiên cứu chúng Chúng chủ yếu sinh sống ở các vùng rừng mưa rậm rạp trên đất thấp, những vùng lau sậy và cỏ cao vốn rất nhiều cạnh các con sông, những vùng bãi bồi triền sông rộng lớn, hay những khu vực ẩm ướt với nhiều bãi bùn. Dù trong lịch sử, chúng thích sống ở những nơi thấp, thì phân loài ở Việt Nam đã di chuyển lên nơi cao hơn (2.000 m) bởi sự xâm lấn và săn bắt của con người.
Trong quá khứ chúng đã từng sinh sống trong những rừng mưa vùng đất thấp, vùng đồng cỏ ẩm ướt và các bãi bồi triền sông rộng lớn. Sự thu hẹp nơi cư trú, đặc biệt do hậu quả chiến tranh, như Chiến tranh Việt Nam tại Đông Nam Á đã tàn phá sinh cảnh bằng bom đạn và chất độc da cam, cũng góp phần làm suy giảm và cản trở việc khôi phục phân loài này. Khu vực sinh sống của tê giác tại Việt Nam đến năm 1999 chỉ còn lại 6.500 ha, chưa bằng 10% diện tích 10 năm trước đó. Sinh cảnh dành cho tê giác vốn từ diện tích 75.000ha khi tê giác được phát hiện tái xuất năm 1988 chỉ còn rộng chưa tới 30.000ha, thực tế con vật chỉ còn không gian khoảng 6.500ha do các hoạt động của con người. Ngoài ra, những thợ săn và khai thác gỗ địa phương ở Campuchia khẳng định rằng họ đã từng nhìn thấy tê giác một sừng trên dãy núi Kravanh, nhưng những khảo sát khu vực này đã không thể tìm ra bất cứ dấu hiệu nào của chúng Vùng sình lầy Bàu Chim là nơi có dòng nước khoáng nên tê giác thường kéo về đây uống nước, con tê giác thường hay về tắm bùn và ăn chất khoáng, chúng còn chúng thích ăn cây mây, một loại cây dây leo mọc khắp nơi trong rừng hay song mây, là loài dây deo thân gỗ có thể tìm thấy ở khắp nơi.
Sinh sản
Chúng là loài động vật sống đơn độc, ngoại trừ những cặp giao phối và mẹ cùng con non. Loài tê giác Việt hầu hết thời gian sống đơn độc, trừ khi kết đôi và nuôi dạy tê giác con, dù rằng thỉnh thoảng chúng có thể tập hợp thành bầy gần các bãi đằm, bãi bùn hay bãi liếm đất mặn. Trong môi trường hoang dã thì tuổi thọ của tê giác khoảng 40-45 năm, tuổi sinh sản 4-5 năm, thời gian có chửa 16-18 tháng, khoảng 3-4 năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa đẻ một con. Khu vực tê giác đẻ nằm ngay gần mép nước, xung quanh cây cối và cỏ được tê giác mẹ giẫm đạp bẹp xuống tạo thành một cái ổ êm cho tê giác con nằm, cái ổ ấy rất sạch. Tê giác con nhìn giống như chú heo ăn nhiều béo tốt, nó kêu héc héc, rúc rúc vào bụng của mẹ nó bú. Tê giác mẹ chỉ kêu heng héc, sau mấy ngày thì tê giác mẹ sẽ dẫn con vào rừng. Tê giác một sừng có thói quen sinh tồn là khi đi trong rừng, tê giác con luôn đi trước còn mẹ ở phía sau, đi đến đâu, tê giác mẹ lại xóa dấu chân tê giác con đi, tê giác mẹ làm vậy cũng là để xóa dấu vết của con lưu lại trên đường, tránh các loại thú ăn thịt khác theo dõi, do vậy, nhiều người theo dấu quan sát đi theo dấu chân xem mẹ con tê giác đi đâu nhưng chỉ thấy dấu chân to bè của tê giác mẹ và nghĩ tê giác con đã chết hay bị lạc rồi và có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, định kinh, thường dùng trong trường hợp sốt quá cao hóa điên cuồng, sốt vàng da, thổ huyết dẫn đến việc săn loài thú này để lấy sừng. Tuy nhiên theo một nghiên cứu của Trung Quốc thì sừng tê giác không khác gì sừng trâu.
Thập niên 2000
Vào năm 2006, lực lượng Kiểm lâm Vườn quốc gia Cát Tiên lần đầu tiên quay được hình một con tê giác, nhiều chuyên gia cho rằng quần thể tê giác tại khu Cát Lộc còn ít nhất từ 03 con trở lên, thậm chí có ý kiến cho rằng, còn từ năm đến sáu con nhưng cũng có ý kiến cho rằng thực chất nó chỉ còn có 01 con và không còn giá trị để bảo tồn.
Cuộc đầu tiên do trường Đại học Queen của Canada thực hiện năm 2004 đã nhận định có ít nhất hai con tê giác còn sống tại Vườn Quốc gia tại thời điểm đó Các mẫu phân này được gửi sang Trường Đại học Queen ở Canada để phân tích DNA xem còn bao nhiêu cá thể tê giác tại Vườn Quốc gia Cát Tiên. Tính đa dạng trong các mẫu này (22 mẫu phân) ban đầu cho thấy rằng ít nhất có hai cá thể còn sống ở Cát Tiên trong thời gian 2003-2006. Ngay sau chuyến khảo sát và nghiên cứu, các chuyên gia khảo sát đã cùng thống nhất kết luận chắc chắn Vườn Quốc gia Cát Tiên chỉ còn lại duy nhất một cá thể tê giác nhưng cán bộ Vường quốc gia thời điểm đó không dám công bố vì phải đợi kết quả phân tích DNA của các mẫu vật cho chắc chắn.
Những cuộc tìm kiếm tê giác trong tự nhiên tại Vườn quốc gia Cát Tiên vẫn tiếp diễn. Những người tìm kiếm tin rằng ở đâu đó trong những cánh rừng già vẫn còn những cá thể, thậm chí quần thể tê giác đang sinh sống nhưng chưa thấy. Giáo sư Đặng Huy Huỳnh cho hay những hình ảnh tư liệu ghi lại từ năm 2002-2005 chứng tỏ có 1 quần thể lớn. Trong số đó có hai con non nên không thể vì trong một thời gian ngắn mất dấu đã vội đưa ra kết luận tuyệt chủng. Tê giác sống tại Cát Tiên hàng trăm năm mà đến tận năm 1991 mới được phát hiện, điều này chứng tỏ chúng ẩn mình rất giỏi . Kể từ năm 1975, chính sách đưa người từ miền Bắc vào Khu Kinh tế mới đã làm tăng dân số và thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản dẫn đến sinh cảnh của các loài động vật hoang dã và tê giác, bị phá vỡ. Số lượng tê giác giảm đến 90% chỉ trong vòng 10 năm (1989-1999), chỉ còn lại vài dấu vết tại phía Tây Cát Lộc. Dân số tăng nhanh, môi trường của tê giác bị thu hẹp, thay đổi, nguồn nước bị hạn chế, đều khiến cuộc sống của tê giác thay đổi lớn. Một số chuyên gia về tê giác ở các nước được mời qua giúp Việt Nam nghiên cứu. Đầu những năm 1990, ông Haryono, chuyên gia về tê giác một sừng của Vườn Quốc gia Ujung Kulon, Indonesia đã cùng các cán bộ kiểm lâm đi sâu vào khu rừng Cát Lộc và nhóm nghiên cứu khẳng định có một quần thể tê giác một sừng của Việt Nam sinh sống tại đây và đang trong tình trạng "cực kỳ nguy cấp" cần được bảo vệ. Cuối năm 1999, Vườn Quốc gia Cát Tiên đã cho thành lập hai đội tuần tra giám sát tê giác. Thông qua Quỹ Chiến lược hành động voi và tê giác châu Á (thuộc WWF), Quỹ Hổ và tê giác của Tổ chức Động vật hoang dã và cá (Mỹ), hai đội tuần tra và giám sát đã sử dụng bẫy ảnh (camera trapping) để chụp ảnh tê giác.
Nhóm chuyên gia Tê giác Châu Á của IUCN cùng một số cơ quan ban ngành Việt Nam đã xây dựng Chương trình hành động nhằm Bảo tồn Tê giác Việt Nam (giai đoạn 2000-2010) chưa từng được chính thức thực hiện. Trong khoảng thời gian 1998-2004, Dự án Bảo tồn Vườn quốc gia Cát Tiên (Cat Tien National Park Conservation Project–CTNPCP) trị giá 13 triệu USD do WWF thực hiện đã thành lập hai đội Giám sát và Tuần tra Tê giác với tổng 6 kiểm lâm và 3 người dân địa phương, được tập huấn và trang bị đầy đủ, cán bộ khu bảo tồn cũng được hai chuyên gia từ Khu bảo tồn Umfolozi Game (Nam Phi) và Tổ chức Tê giác Quốc tế tập huấn kỹ năng thu thập dữ liệu và bảo vệ, dự án đã triển khai nhiều hoạt động giám sát bằng dấu chân hoặc camera. Đến năm 2003, đội Tuần tra chỉ còn lại 3 kiểm lâm, chủ yếu tuần tra các con đường dẫn vào khu bảo tồn và điều tra các vụ săn trộm. Sau khi dự án kết thúc, WWF tiếp tục một dự án ba năm (2005-2007) hỗ trợ kinh phí hoạt động cho đội Tuần tra cũng như cung cấp các hỗ trợ về kĩ thuật, cho đến cuối dự án, hoạt động giám sát hầu như không còn được duy trì.
Trong quá trình bảo tồn động vật, sự thiếu thông tin chính xác về những cá thể tê giác còn sót lại càng làm trì hoãn các quyết định của Chính quyền và trốn tránh những lựa chọn khó như biện pháp tái định cư hay vận chuyển tê giác sang nơi ở mới.
Đóng góp
Loài tê giác Java ở Việt Nam Rhinoceros sondaicus annamiticus khi đó đã được Sarah Brook (một nhà bảo tồn của Quỹ bảo tồn động vật hoang dã hay Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới WWF) theo dõi sát sao và chặt chẽ. Hàng ngày Brook vượt rừng với địa hình hiểm trở ở cánh rừng Cát Lộc, vật lộn với địa hình khắc nghiệt ở Vườn Quốc gia Cát Lộc đồi dốc và thảm thực vật dày đặc để theo dấu con tê giác, thu thập mẫu phân trong thời gian dài với một chú chó chuyên đánh hơi (chó đánh hơi) theo mùi phân của tê giác được huấn luyện để theo dõi mùi phân tê giác. Trong suốt gần 6 tháng kể từ khi Brook tiến hành thu thập mẫu phân tê giác, trên những tuyến đường mòn trong khu vực, theo dấu các con tê giác trong vùng và không biết chắc liệu chỉ còn có một con hay không để xác nhận chính xác rằng chỉ còn đúng duy nhất một cá thể tê giác ở khu vực này. Rừng Cát Lộc rất lớn và hoá ra chỉ có một mình con tê giác đơn độc sống. Vào tháng 10 năm 2011, tê giác Java Việt Nam đã chính thức được công bố là tuyệt chủng Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) công bố kết luận điều tra và xác nhận điều này là đúng, con tê giác đã bị giết chết. Kết luận điều tra do WWF công bố chỉ rõ nạn săn trộm có thể là nguyên nhân gây ra cái chết của cá thể tê giác nói trên. Con tê giác cái đơn độc từng có thời dạo bước trong những cánh rừng rậm nhiều dốc ở Cát Lộc bị những tay săn trộm bắn hạ, nỗ lực cuối cùng để bảo tồn loài tê giác đặc biệt quý hiếm thất bại. Việt Nam chính thức tuyệt chủng tê giác một sừng. Qua xem xét bộ xương, các chuyên gia của WWF xác định cá thể tê giác quý hiếm này đã bị bắn. Kết quả nghiên cứu các mẫu xương, mẫu phân và dấu vết tại hiện trường, xác định, bộ xương lạ đó là phần còn lại của một con tê giác một sừng. Họ cũng xác định những vết cắt không tự nhiên ở vị trí sừng trên sọ và một mảng lớn xương hàm trên của tê giác bị lấy đi cùng chiếc sừng, kết quả phân tích 22 mẫu phân do nhóm khảo sát thu thập được từ 2009-2010 chỉ ra rằng, tất cả mẫu này đều của con tê giác đã chết
- Tiến sĩ Sara Book cho biết cảm giác đầu tiên của bà khi nhận ra con tê giác cuối cùng đã chết ở Việt Nam là rất thất vọng và giận dữ và vẫn còn suy sụp.
Theo Giáo sư Đặng Huy Huỳnh-Chủ tịch Hội Động vật học Việt Nam, khu vực này đã bị thu hẹp rất lớn khi con người mở rộng phạm vi sinh sống và khi một dự án thủy điện được xây dựng thì nguồn nước khoáng cho tê giác sẽ chính thức bị xóa sổ.
Vùng rừng già Cát Lộc, nơi tổ tiên của cộng đồng S'Tiêng Nam Tây Nguyên hiền lành, cũng là thánh địa của loài tê giác một thời dạo bước, Cát Lộc là cánh rừng một phần đã bị tàn phá là khu bảo tồn động vật hoang dã, nơi đây, con tê giác cuối cùng đã bị bắn chết bởi những tay thợ săn. Sau nhiều ngày nghiên cứu trong rừng sâu để tiếp cận với con tê giác ở khu vực Vườn Quốc gia Cát Tiên. Các chuyên gia xác định, đây là con tê giác cái đơn độc (con tê giác cuối cùng trong phân loài của nó) có tên khoa học là Rhinoceros sondaicus annamiticus hay còn gọi là tê giác một sừng được cho là tuyệt chủng ở khu vực Đông Nam Á .
Quá trình điều tra
Phía Việt Nam
Khoảng cuối tháng 4 năm 2010, nhân viên kiểm lâm của trạm Kiểm lâm Gia Viễn phát giác một bộ xương lạ tại khu vực Cát Lộc, thuộc Vườn Quốc gia. Đó là chuỗi sự kiện: Một tay săn trộm đã bắn con tê giác ít nhất là 1 lần, viên đạn đã găm vào chân trước phía bên trái của con vật là nguyên nhân gây ra nhiễm trùng, viêm khớp và ngăn cản nó di chuyển là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp khiến con vật rơi ở khu rừng gần con suối nhỏ nơi mà con vật cuối cùng cũng đã chết. Viên đạn là nguyên nhân giết chết tê giác, nó chỉ mất thời gian dài để khiến con vật chết đi ông này cũng cho rằng "Thảm kịch của tê giác Java Việt Nam là một minh chứng đáng buồn cho cuộc khủng hoảng tuyệt chủng này". Vấn đề được cho là yếu tố quan trọng nhất để bảo vệ các loài tê giác khỏi sự tuyệt chủng là bảo vệ môi trường sống tự nhiên và ngăn chặn nạn săn bắn và buôn bán động vật hoang dã trái phép, nhưng Việt Nam chưa thực hiện được điều này. Nếu tình trạng trên không được cải thiện, nhiều loài khác tại Việt Nam sẽ bị tuyệt chủng là điều không thể tránh khỏi. Phải rút kinh nghiệm trong việc này để chuần bị bảo vệ các loài khác.
Kiểm lâm viên
Các khu bảo tồn tại Việt Nam cần phải có nhiều kiểm lâm hơn, họ cần được đào tạo và giám sát tốt hơn nữa, đồng thời chịu trách nhiệm giải trình cao hơn.
Về phía NGO
Các tổ chức bảo tồn đều cũng có lỗi trong việc để xảy ra chuyện với con tê giác. Các nhà tài trợ cùng các tổ chức phi chính phủ thay vì tập trung bảo tồn loài lại tiếp cận vấn đề theo hướng lấy con người làm trung tâm thông qua các dự án tích hợp bảo tồn và phát triển (ICDPs), ngay trong tổ chức WWF cấp quốc gia và quốc tế cũng không thống nhất cam kết bảo tồn tê giác. Ngân sách từ phía các tổ chức phi chính phủ cũng hỗ trợ các hoạt động thúc đẩy thi hành luật nhưng các hoạt động phi lợi nhuận lại thường không lâu bền. Các tổ chức bảo tồn phải tích cực hơn trong việc kiểm soát và đánh giá các hình thức can thiệp bảo tồn, để đảm bảo các khoản đầu tư có hiệu quả, đưa ra các biện pháp thay thế nếu cách làm truyền thống không có tác dụng. Ông Đặng Huy Huỳnh cho rằng quỹ WWF rất có công, rất tích cực, đóng góp tiền bạc kỹ thuật, vấn đề là các cấp chính quyền địa phương vì con tê giác của Việt Nam, nó là đặc hữu chỉ có tại Việt Nam. Khi phát hiện nó bị giết thì tổ chức quốc tế chỉ có trách nhiệm một phần thôi chứ người Việt là chính vì đây là tài nguyên của Việt Nam chứ không phải tài nguyên của tổ chức quốc tế WWF.
Các tổ chức bảo tồn đã nỗ lực trong nhiều năm để có thể hoạt động dưới hệ thống ban bệ hiện nay, bằng cách hỗ trợ thêm kinh phí để tăng cường tuần tra, cải thiện năng lực, quản lý ở các khu vực được bảo tồn những cách như vậy đều không có hiệu quả. Các tổ chức bảo tồn thường bị giới hạn trong vai trò cố vấn kỹ thuật, và là nhà tài trợ tài chính, những người đưa ra khuyến nghị, trừ phi các tổ chức bảo tồn thật sự có vai trò ngang với các giám đốc khu vực bảo tồn mới có thể hợp tác hiệu quả Vai trò của Hội Động vật Việt Nam là chỉ giúp tập hợp những nhà khoa học nghiên cứu về động vật nói chung, chỉ có trách nhiệm giúp cho nhà nước. Mỗi lần có loài động vật nào xảy ra việc gì thì hội lên tiếng bảo vệ chúng như khuyến cáo về phát triển kinh tế cũng đừng phá hoại môi sinh của chúng như làm thủy điện, trồng cao su họ sẽ đề nghị với nhà nước, chủ đầu tư đừng làm ở đó, hoặc phải có biện pháp giảm thiểu, Hội phản biện nhằm đưa ra đề nghị với nhà nước còn quyền lực thì không có vì chỉ là cơ quan tư vấn giúp cho các cơ quan chính phủ các vấn đề trên cơ sở khoa học.
Ghi âm ngày 2 tháng 9 năm 1945]] **Ngày Quốc khánh