✨Tê giác Bắc Sumatra

Tê giác Bắc Sumatra

Tê giác Bắc Sumatra (Danh pháp khoa học: Dicerorhinus sumatrensis lasiotis) hay còn gọi là tê giác lông dày miền Bắc hay tê giác Chittagong là phân loài phổ biến nhất của tê giác Sumatra (Dicerorhinus sumatrensis) và cũng là phân loài duy nhất có nguồn gốc lục địa châu Á trong khi loài này sống ở các đảo Indonesia. Đây là phân loài tê giác từng lang thang ở miền nam châu Á trong lịch sử từ bán đảo Đông Dương cho đến Trung Quốc và Ấn Độ, chúng cũng là phân loại từng ghi nhận là có phân bố ở Việt Nam bên cạnh phân loài tê giác một sừng Việt Nam.

Trong khi phân loài tê giác này đã được chính thức tuyên bố là tuyệt chủng rất nhiều lần vào đầu thế kỷ XX, chúng được báo cáo rằng vẫn có thể còn một quần thể nhỏ vẫn có thể tồn tại trong tự nhiên, chẳng hạn như ở Miến Điện và bán đảo Malaysia, mặc dù điều này là rất đáng ngờ. Tính đến năm 2008, Tê giác Sumatra miền Bắc được coi là thuộc tình trạng "cực kỳ nguy cấp" bởi IUCN. Tê giác Bắc Sumatra là loài đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp do săn bắn trộm để lấy sừng tê giác và là nạn nhân của việc buôn bán động vật hoang dã.

Phân loại

Tên khoa học của phân loài này có hậu tố lasiotis có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "lông tai" vì bề ngoài chúng có những nhúm lông thú dài hơn đáng kể trên chỏm đôi tai. Các phân loài tê giác phía Bắc Sumatra cũng được gọi là tê giác Sumatra hoặc tê giác có lông tua tai là chính vì lý do đó. Các nghiên cứu sau đó cho thấy rằng thực sự thì lông của chúng không dài hơn những con tê giác Sumatra khác, nhưng những cá thể tê giác Dicerorhinus sumatrensis lasiotis vẫn là một phân loài bởi vì nó lớn hơn đáng kể so với các phân loài khác. Từng có một cuộc tranh luận liệu mẫu vật Dicerorhinus sumatrensis lasiotis có nên được coi là một phân loài riêng biệt với mẫu vật Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis (tê giác Sumatra miền Tây) được đề cử tương tự từ Indonesia hay không. Tuy nhiên, rốt cuộc thì nó vẫn được coi là một phân loài như tên gọi tê giác Sumatra phía Bắc vì lớn hơn đáng kể, với lông tóc dài bất thường trên tai và sừng dài hơn, lớn hơn.

Phân bố

nhỏ|phải|Ký họa về tê giác Bắc Sumatra Tê giác Bắc Sumatra là phân loài phổ biến nhất của tê giác Sumatra. Nó phân bố khá xa so với bán đảo Đông Dương, miền đông Ấn Độ, phía đông dãy Himalaya của Bhutan và Bangladesh đến tận Nội Mông ở miền bắc Trung Quốc. Những con tê giác Chittagong này (tên gọi khác của tê giác Bắc Sumatra), từng từng lang thang Ấn Độ và Bangladesh nay đã bị tuyên bố tuyệt chủng ở những quốc gia này. Các báo cáo chưa được xác nhận cho thấy một quần thể nhỏ vẫn có thể sống sót ở Miến Điện, nhưng tình hình chính trị ở quốc gia đó đã ngăn chặn sự xác minh của các nhà nghiên cứu. Tê giác Sumatra miền Bắc nói chung đã từng sinh sống ở một vùng xa nhất ở phía bắc như Miến Điện, miền đông Ấn Độ và Bangladesh. Các báo cáo chưa được xác nhận cũng đã được đưa vào danh sách các quốc gia này như ở Campuchia, ở Lào và Việt Nam.

Đã từng có thời phân loài tê giác này phổ biến rộng rãi ở khu vực Đông Nam Á, Bănglađét, Mianma, Thái Lan, những con tê giác lông phía Bắc đã được tuyên bố tuyệt chủng ở Ấn Độ, Bangladesh, Trung Quốc và các nước khác trong thập niên 1920, và một lần nữa vào năm 1997 ở phía đông bắc Ấn Độ, mặc dù người ta tuyên bố rằng họ vẫn tồn tại tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Tamanthi (Tamanthi Wildlife Sanctuary) của Myanmar. Mặc dù loài này đã được tuyên bố tuyệt chủng ở Myanmar vào những năm 1980, nhưng những lần nhìn thấy tê giác Sumatra đã được báo cáo trong nhiều lần. Các báo cáo chưa được xác nhận cho thấy một số lượng nhỏ tê giác Bắc Sumatra có thể vẫn tồn tại ở Myanmar, nhưng tình hình chính trị trong nước đã ngăn chặn sự xác minh. Nó cũng có thể cho thấy rằng tê giác lông phía Bắc vẫn còn sống trong Vườn quốc gia Taman Negara ở bán đảo Malaysia, mặc dù sự sống còn của quần thể trên bán đảo Malaysia là rất đáng nghi ngờ.

Tại Việt Nam từng xuất hiện cả loài tê giác hai sừng chứ không chỉ có tê giác Java một sừng. Năm 1920, cá thể tê giác hai sừng cuối cùng của Việt Nam bị bắn chết tại vùng rừng Cam Ranh (Khánh Hòa). Ở Việt Nam, chúng từng được ghi nhận tại các khu rừng ở tỉnh Khánh Hòa nhiều thập niên trước cho đến tận thập niên 1970-1980, rồi sau đó biến mất khỏi tầm nhìn của con người năm 1992 và trong nhiều năm sau để rồi chúng chính thức được xác định là đã tuyệt chủng trong sách đỏ 1992, đây là những loài động vật đã bị xác nhận tuyệt chủng ở Việt Nam trong khoảng 2 thập kỷ qua. Bên cạnh loài tê giác một sừng Việt Nam vừa tuyệt chủng năm 2010 thì Việt Nam từng tồn tại một loài tê giác khác đó là tê giác miền Bắc Sumatra và còn gọi là tê giác hai sừng. Tài liệu trước đây có nhắc đến tê giác hai sừng ở Cam Ranh nhưng đến nay chưa phát hiện được vùng cư trú của chúng, có lẽ chúng đã bị tuyệt chủng, có thông tin xác nhận tại Việt Nam từng có loài tê giác hai sừng sinh sống, nhưng vào năm 1920, con tê giác hai sừng cuối cùng bị bắn chết tại Cam Ranh, chính thức kết thúc sự hiện diện của tê giác hai sừng trên những cánh rừng Việt Nam.

Đặc điểm

nhỏ|phải|Tê giác Begum ở Sở thú Luân Đôn Tê giác hai sừng Sumatra miền Bắc rất dễ phân biệt với người họ hàng một sừng bởi thân hình đầy lông lá và hai chiếc sừng nhỏ trên đầu mũi. Tê giác Bắc Sumatra là phân loài lớn nhất, nó có lông trên tai dài hơn và sừng dài hơn nhưng, nó có thể có ít lông trên cơ thể hơn so với tê giác Sumatra miền Tây. Đặc điểm nhận dạng của chúng là có tấm thân cỡ lớn, có thể dài tới 2,6m, hình dạng giống như con tê giác một sừng, ngay trên mũi chúng có hai sừng xếp theo hàng dọc. Da rất dầy có hai nếp gấp ở trước và sau lưng làm cho da không bị gấp nhiều như áo giáp. Bàn chân của chúng to ngắn, có 3 ngón với móng guốc hình bán nguyệt, móng giữa to, hai móng bên nhỏ. Thức ăn của chúng là, lá, củ, rễ cây rừng. Thời gian mang thai khoảng 16 tháng, trọng lượng con sơ sinh khoảng 25 kg.

Môi trường sống

nhỏ|phải|Tranh vẽ về tê giác Bắc Sumatra tại Luân Đôn Tê giác Bắc Sumatra sống trong rừng mưa nhiệt đới, đầm lầy, rừng mây, rừng rậm và đồng cỏ. Nó cũng sinh sống ở các khu vực đồi núi, gần sông, thung lũng và đồi núi cao. Tê giác Bắc Sumatran còn sống ở cả rừng nhiệt đới thứ sinh và vùng cao nguyên. Nó cư trú ở các khu vực đồi núi gần với nước, đặc biệt là các thung lũng trên dốc với những bụi cây phong phú thậm chí còn là những cánh rừng già trong thung lũng ẩm ướt, các sình lầy. Chúng sống đơn lẻ, vùng hoạt động rộng, di chuyển nhanh nhẹn.

Thời xưa, ở phương Đông, người ta cho rằng, sừng tê giác là một thứ linh thiêng kỳ dị và tê giác không chỉ là một vật linh thiêng, với những tác dụng rất kỳ lạ, mà còn có tác dụng giải độc mạnh. Người xưa tin rằng, chén làm từ sừng tê giác có tác dụng phát hiện được chất độc. Nếu rót rượu độc vào chén, thì sẽ thấy sủi lên bọt trắng, người xưa còn cho rằng, bị tên độc bắn trúng, lấy sừng tê giác đâm vào vết thương, lập tức khỏi. Cho đến những năm cuối thế kỷ XIX, trong giới Đông y còn lưu truyền quan niệm cho rằng, dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng thức ăn, thì ngay trong mùa Hè, từ 3 đến 4 ngày sau thức ăn trong đó vẫn không bị biến chất, chén tê giác có tác dụng như một chiếc đồ giữ lạnh như vậy, vì sừng tê giác là thứ có tính cực hàn. nhỏ|phải|Tượng đồng tê giác ở Trung Quốc cổ đại thumb|Tranh vẽ về một con tê giác ở Thái Lan năm 1867 Sừng tê giác là vị thuốc đã có từ lâu và được ghi chép trong "Thần Nông bản thảo kinh" là bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y học và rất nhiều các y thư khác. Một số ghi chép trong thư tịch của Trung Quốc về sừng tê giác như:

  • Sách "Dưỡng sinh diên thọ lục" và "Danh y biệt lục" của Đào Hoằng Cảnh (456-536) đã viết: "Dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng gạo cho gà ăn, thì gà sợ mà không dám mổ. Đem chén gạo đặt lên nóc nhà, thì chim sẽ cũng không dám ăn.
  • Sách "Hoài nam tử" có chép như sau: "Đặt sừng tê giác vào hang, cáo không dám trở về".
  • "Bản thảo Cương mục" của Lý Thời Trân đã trích dẫn một số điều nói về tính năng kỳ dị của sừng tê giác, mà các thư tịch cổ đã ghi chép lại, và cũng nói tới một loại sừng tê giác thượng phẩm gọi là "dạ minh tê", loại sừng này ban ngày và ban đêm đều phát sáng, có khả năng thông với thần linh, có thể xẻ nước, chim bay qua hay thú chạy qua, nhìn thấy đều kinh sợ ("năng thông thần linh, phách thủy, phi cầm tẩu thú kiến liễu đô vi chi kinh hãi").
  • Sách "Khai nguyên di sự" có nói về loại sừng tê giác có tính năng chống lạnh, gọi là "tịch hàn tê", loại sừng này màu vàng, xuất xứ từ Giao Chỉ, mùa Đông loại sừng này tỏa ra hơi ấm, làm khí lạnh không nhiễm được vào người.
  • Sách "Bạch khổng lục thiếp" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống nắng nóng, gọi là "tịch thử tê", Đường Văn Tông nhờ có được loại sừng này, mà mùa Hè nóng bức vẫn thấy mát mẻ.
  • Sách "Lĩnh biểu lục dị" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống bụi bẩn gọi là "tịch trần tê"; dùng loại sừng này chế ra lược hay châm cài đầu thì người luôn sạch sẽ, không sợ bị bụi bẩn bám vào.
  • Sách "Đỗ Dương biên" nói về loại sừng tê giác có tính năng giúp kiềm chế sự cáu giận, gọi là "quyên phẫn tê", dùng sừng loại này làm ngọc bội đeo ở đai áo, sẽ giúp người ta kiềm chế được những cơn tức giận.
  • Sách "Thần Nông bản thảo kinh" chép: "Tê giác có thể giải tất cả các loại chất độc, như chất độc của sâu bọ, nọc rắn, lông chim độc, thậm chí giải được cả độc của lá ngón"
  • Sách "Bão Phác Tử" của Cát Hồng viết: "Tê giác có thể ăn tất cả các loại cỏ độc và các loại cây bụi có gai, do đó nó có thể giải được các chất độc (Tê thực bách thảo chi độc cập chúng mộc chi cức, sở dĩ năng giải độc)"

Từ lâu, Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng sừng tê giác như một vị thuốc sau đó lan truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên và Viêt Nam. Trong Y học cổ truyền Trung Quốc (Trung y), sừng tê giác đã được đề cập trong "Thần Nông Bản thảo Kinh", sách này chia tất cả các vị thuốc thành ba loại là thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm và sừng tê giác được xếp vào "trung phẩm". Trong sách thuốc Trung y các thời đại sau, sừng tê giác dược xếp vào loại thuốc "thanh nhiệt lương huyết". Việc sử dụng sừng tê giác ở Việt Nam cũng gắn liền với tác dụng "thanh nhiệt lương huyết". Các bệnh có thể được chữa trị bằng sừng tê giác bao gồm sốt cao, mê sảng, co giật, đau đầu, sởi, động kinh.

Một số câu chuyện dân gian về tê giác Sumatra được thu thập bởi các nhà tự nhiên thuộc địa và thợ săn từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Ở Miến Điện, nơi các phân loài phía Bắc đã từng sống, niềm tin đã từng phổ biến rộng rãi rằng tê giác Sumatra đã dập tắt đám cháy và ăn cỏ cháy như những nhà chữa cháy tự nhiên. Câu chuyện mô tả tê giác ăn những đốm lửa, đặc biệt là lửa trại, và sau đó tấn công trại. Cũng có một niềm tin của Miến Điện rằng thời gian tốt nhất để săn là vào tháng 7, khi con tê giác Sumatra sẽ tụ tập bên dưới ánh trăng tròn. Việc tê giác tụ tập cũng được ghi nhận thực tế trong tự nhiên vì chúng là loài có tập tính đi vệ sinh công cộng, các con tê giác sẽ cùng đại tiện vào cùng một chỗ trong khu vực nhất định.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tê giác Bắc Sumatra** (Danh pháp khoa học: _Dicerorhinus sumatrensis lasiotis_) hay còn gọi là **tê giác lông dày miền Bắc** hay **tê giác Chittagong** là phân loài phổ biến nhất của tê giác Sumatra
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
nhỏ|Một con tê giác tại Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh nhỏ|phải|Một con tê giác tại Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh **Tê giác** hay con **tê** là những loài động
**Tê giác lông mượt** (_Coelodonta antiquitatis_) là một loài tê giác đã tuyệt chủng phổ biến ở khắp Châu Âu và Bắc Á trong kỷ nguyên Pleistocen và tồn tại cho đến cuối thời kỳ
**Tê giác Sumatra** hay còn gọi là **tê giác hai sừng** (danh pháp hai phần: **_Dicerorhinus sumatrensis_**) là loài tê giác hiện còn tồn tại có kích thước nhỏ nhất, cũng như là một trong
**Tê giác Java** hay **tê giác Sunda**, còn được gọi **tê giác một sừng** (_Rhinoceros sondaicus_) là một trong năm loài động vật guốc lẻ còn sống sót của họ Tê giác. Chúng cùng thuộc
**Tê giác Borneo** (Danh pháp khoa học: _Dicerorhinus sumatrensis harrissoni_) hay còn gọi là **tê giác Sumatra miền Đông** hoặc còn gọi là **tê giác lông rậm miền Đông** là một phân loài của tê
**Tê giác Ấn Độ** hay **tê giác một sừng lớn** (_Rhinoceros unicornis_) là một loài tê giác có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Chúng được đánh giá là sắp nguy cấp và
**Hổ Sumatra** (danh pháp hai phần: _Panthera tigris sumatrae_) là một phân loài hổ nhỏ nhất còn sống sót, được tìm thấy ở đảo Sumatra (Indonesia). Theo Sách đỏ IUCN, chúng là loài cực kỳ
**Voi Sumatra** (Danh pháp khoa học: _Elephas maximus sumatranus_) là một phân loài của lài voi châu Á chỉ tìm thấy ở đảo Sumatra thuộc Indonesia. Chúng là phân loài nhỏ thứ hai, chỉ cao
**Nīas** (, tiếng Nias: **_Tanö Niha_**) là một hòn đảo phía bờ Tây của Sumatra, Indonesia. Nias là một hòn đảo trong dãy quần đảo nằm dọc theo bờ biển ngăn cách với Sumatra bằng
**Đười ươi Sumatra** (_Pongo abelii_) là một trong ba loài đười ươi. Chỉ được tìm thấy ở phía bắc đảo Sumatra của Indonesia, nó hiếm hơn đười ươi Borneo nhưng phổ biến hơn đười ươi
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**Borneo** hay **Kalimantan** là đảo lớn thứ ba thế giới và lớn nhất tại châu Á. Đảo thuộc Đông Nam Á hải đảo, nằm về phía bắc của đảo Java, phía tây đảo Sulawesi và
**Cuộc hành quân xâm chiếm Sumatra** là cuộc tấn công của quân đội Nhật Bản vào Đông Ấn Hà Lan diễn ra từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 3 năm 1942. Cuộc
**Vườn Quốc gia Kerinci Seblat** là vườn quốc gia lớn nhất trên đảo Sumatra, Indonesia. Nó có một khu vực rộng tổng cộng là 13,791 km², và bắc qua 4 tỉnh: Tây Sumatra, Jambi, Bengkulu, và
nhỏ|phải|Nụ vị giác **Vị** (hay **vị giác**) là một hình thức cảm nhận hóa học trực tiếp. Vị giác là một trong năm giác quan của con người. Khái niệm vị giác đề cập đến
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
**Người Hoa Indonesia** () hoặc (tại Indonesia) chỉ gọi đơn thuần là **Trung Hoa** () là sắc tộc có nguồn gốc từ những người nhập cư trực tiếp từ Trung Quốc hoặc gián tiếp từ
**Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004**, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là **Cơn địa chấn Sumatra-Andaman**, là trận động đất mạnh 9.3 _M_w xảy ra dưới đáy biển
**Srivijaya** hay **Tam Phật Tề** (三佛齊) là một liên minh kiểu mandala gồm nhiều nhà nước cổ từng tồn tại ở miền Đông Sumatra, bán đảo Malay và một phần đảo Borneo và Java, hình
**Vườn quốc gia Gunung Leuser** hay **vườn quốc gia Núi Leuser** là một vườn quốc gia nằm tại phía bắc đảo Sumatra, Indonesia. Vườn quốc gia có diện tích 7.927 km² nằm giữa ranh giới của
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
nhỏ|phải|Một con [[nai đen tại Thảo cầm viên Sài Gòn, nai là loài thú phổ biến ở Việt Nam]] **Thú** là nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau
thumb|right|Một số món cà ri rau từ Ấn Độ right|thumb|Món cà ri gà với bơ trong một nhà hàng Ấn Độ thumb|Cà ri đỏ với thịt vịt ở [[Thái Lan]] **Cà-ri** (từ chữ Tamil là
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
nhỏ|phải|Hổ là động vật nguy cấp và đã được cộng đồng quốc tế có các giải pháp để bảo tồn nhỏ|phải|Hổ ở vườn thú Miami nhỏ|phải|Hổ Đông Dương là phân loài hổ nguy cấp ở
thumb|right|Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và trẻ em dưới 2 tuổi cần cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng cách ăn thực phẩm tốt cho sức khỏe Trong dinh dưỡng, **chế độ ăn
**Thịt chó**, còn được gọi là **thịt thơm**, là thịt có nguồn gốc từ chó. Trong lịch sử, việc tiêu thụ thịt chó đã được ghi nhận ở nhiều nơi trên thế giới. Vào thế
**Núi Kerinci** (cũng được đánh vần Kerintji, trong số nhiều cách khác, và được gọi là Gunung Kerinci, Gadang, Berapi Kurinci, Kerinchi, Korinci / Korintji, hoặc Đỉnh Indrapura / Indrapoera) là núi lửa cao nhất
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
thumb|[[Tê giác trắng là động vật móng guốc lẻ lớn nhất.]] **Bộ Guốc** **lẻ, bộ Móng Lẻ** hay **bộ Móng guốc lẻ** **(_Perissodactyla_)** (từ tiếng Hy Lạp cổ đại, "περισσός _perissós_, "lẻ"; và δάκτυλος _dáktylos_,
thumb|right|Mô hình tàu của đội thám hiểm Trịnh Hòa, [[bảo tàng khoa học Hồng Kông.]] **Trịnh Hòa hạ Tây Dương** là bảy chuyến thám hiểm hàng hải của hạm đội kho báu cho nhà Minh
File:2018 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông 2018 tại PyeongChang, Hàn Quốc; Biểu tình nổ ra sau Vụ ám sát Jamal Khashoggi; Các cuộc
**_Rhamnus_** là danh pháp khoa học của một chi thực vật trong họ Rhamnaceae. Khi hiểu theo nghĩa rộng thì nó chứa khoảng 200 loài được công nhận, còn khi hiểu theo nghĩa hẹp hơn
**Xayabury** (, đọc là Xay-nhạ-bu-ly) là một tỉnh của Lào, nằm ở phía tây bắc của đất nước. Tỉnh Xayabury có diện tích 16.389 km2. Tỉnh có các tỉnh Bokeo và Oudomxai phía bắc, Luang
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
**Sóng hạ âm** là sóng âm có tần số thấp hơn 20 Hz, ngưỡng nghe thấy bình thường của người. Khả năng nghe trở nên kém đi khi tần số giảm, vì vậy nên để con
thumb|Bản đồ thể hiện các quốc gia sử dụng nhiều tiếng Indonesia. Xanh đậm = quốc gia, xanh nhạt = được nói bởi > 1%. thumb|Một người nói tiếng Indonesia được ghi âm ở [[Hà
nhỏ|phải|Quang cảnh rừng nhiệt đới ở Madagascar nhỏ|phải|Bộ tộc sống trong rừng nhiệt đới ở Jambi thumb|Một vùng [[rừng mưa Amazon ở Brazil. Rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ có sự đa dạng sinh
nhỏ|phải|Mỏ sừng của [[hồng hoàng mũ cát (Rhinoplax vigil)]] **Sừng hồng hoàng** (_Hornbill ivory_) hay còn gọi là **sừng đỏ** hay **sừng tê điểu** hay **ngọc hạc đính** là một vật dụng trang trí quý
nhỏ|Bản đồ quần đảo Mergui **Quần đảo Mergui** (cũng gọi là **quần đảo Myeik ** hay **_Myeik Kyunzu_**; ) là một quần đảo nằm ở khu vực cực nam của Myanmar và là một phần
**Penang** (tiếng Mã Lai: _Pulau Pinang_) là một bang tại Malaysia và được định danh theo đảo cấu thành nên bang. Bang Penang nằm ở vùng bờ biển tây bắc của Malaysia bán đảo, sát
nhỏ|phải|Một con hổ dữ nhỏ|phải|Một con [[hổ Sumatra, chúng là phân loài hổ có thể hình nhỏ nhất nhưng lại hung hăng và tích cực tấn công con người]] **Hổ vồ người** (hay **hổ vồ
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều