✨Hình tượng tê giác trong văn hóa
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff Hình tượng con tê giác trong văn hóa (Rhinocéros dans la culture) mang nhiều ý nghĩa biểu tượng ở trong cả văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây dù so với nhiều loài vật khác, mức độ phổ biến trong không gian văn hóa của nó còn chưa sâu rộng. Hình ảnh loài tê giác đã sớm ghi dấu từ thời tiền sử hồng hoang, qua nhiều thế kỷ, nó đã là đối tượng của các tác phẩm nghệ thuật từ hội họa, điêu khắc, văn chương cho đến văn hóa đại chúng ngày nay. Chúng là đối tượng trong các loại hình tranh vẽ, tạo tác tượng và phù điêu, hình tượng tê giác cũng xuất hiện trong văn học hoặc điện ảnh ở phương Tây. Tê giác là loài động vật gây ấn tượng với con người bởi vẻ ngoài kỳ dị và to lớn của nó với nét đặc trưng phân biệt không lẫn vào đâu được là chiếc sừng (giác) lớn trên mũi (đôi khi được gọi là cái u) của con tê giác, chúng không mọc đối xứng hai bên như các loài thú khác.
Trong cả hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây, chúng đôi khi được đồng nhất như loài thần thú kỳ lân, tùy theo cách nhìn nhận của từng nền văn hóa, nhưng điểm chung đây là con thú một sừng, một sinh vật khổng lồ như trong truyền thuyết. Vì là loài thú có cuộc sống đơn độc và bí ẩn, hình ảnh của chúng được mô tả trong văn hóa có sự khác nhau. Trong văn hóa phương Tây, chúng được biết đến từ văn minh Hy Lạp với hình tượng kỳ lân. Kể từ sau thời Đế chế La Mã, tê giác ở châu Âu đã trở thành một loài sinh vật huyền thoại nên khi một con tê giác từ phương Đông tới luôn đem lại sự hiếu kỳ.
Tê giác trong văn hóa phương Đông là tượng trưng cho sức mạnh tinh thần, trí tuệ và văn hóa. Trong văn hóa Trung Quốc, nó còn được xem như một loài thủy thú, là thần thú trị thủy (với chiếc sừng tê). Tê giác là loài vật được xuất hiện riêng trong bài kệ mang tên "Kinh tê giác" và trở thành biểu tượng cho những người tu hành kiên trì dù cho không có bạn tu hành nhưng vẫn một mình tu tập tâm ý cho đến ngày giải thoát, là biểu tượng cho những người tu hành kiên trì cho đến ngày giải thoát. Trong huyền sử Việt Nam có lưu truyền câu chuyện An Dương Vương sau khi chém Mỵ Châu đã cầm sừng tê văn dài bảy tấc xuống biển, câu chuyện này đã được các sử sách nhắc đến như Đại Việt sử lược, An Nam chí lược, Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử ký toàn thư đều có chép lại.
Danh xưng và các loài
Trong tiếng Việt thì con Tê giác (Rhinoceros hay Rhino) là một cách gọi dành cho con tê (犀/xī), tên này trong tiếng Hán là tê ngưu (犀牛/xīniú), còn tê giác (犀角) có nghĩa là sừng (của con) tê, không dùng để chỉ đích thân con vật ấy (là con tê), vì vậy cái sừng của con tê ngưu gọi là tê giác (犀角), trong đó giác (角) có nghĩa là cái sừng, trước đây người ta gọi con vật này là tây hay là con tê, sau này từ tê/tây thành "tê giác". Trong một thời gian dài, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc Việt Nam đều gọi tê giác là tây, sau đó, tây đã chuyển thành tê, người miền Nam vẫn tiếp tục giữ âm tây còn ngoài Bắc thì đã chọn cách gọi là tê, nhưng thời đó không ở đâu gọi con vật đó là "tây giác" hoặc "tê giác" vì tê giác/tây giác là sừng (của con) tê, mà trong Nam còn gọi là u tây. Trong Đông y "tê giác" (sừng của con tê ngưu) có thể dùng làm thuốc, nhiều người không biết "tê giác" chỉ là cái sừng của con tê ngưu lại tưởng tê giác là tên gọi của con vật có cái sừng đó nên đã gọi con tê ngưu là "tê giác". nhỏ|phải|Một con tê giác Ấn Độ, nhiều con sừng không phát triển, nên người xưa gọi là con u nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật]] nhỏ|phải|Một con tê giác trắng châu Phi nhỏ|phải|Một con tê giác đen châu Phi Trong các tài liệu xưa, các tự điển cổ, cách gọi tê giác được định nghĩa như sau:
- Theo cuốn Dictionarium Latino-Annamiticum (Từ điển La Tinh-An Nam) thì "Rhinoceros là Con tây; tê ngưu, Bình bằng tây giác và "Rhinoceroticus Thuộc về con tây". Tây là biến thể ngữ âm của tê, đồng nghĩa với tê ngưu (có nghĩa là con tê) và tây giác là biến thể ngữ âm của tê giác và có nghĩa là sừng tê, "bình bằng tây giác" là bình làm bằng sừng tê.
- Theo cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt-Bồ-La) có âm "tây": "Tây, con tây: bada (tiếng Bồ), rhinoceros (tiếng La)". Bada là tiếng Bồ Đào Nha gọi là Rinoceronte bắt nguồn từ tiếng Mã Lai là Badak, có nghĩa là tê/tây, đồng nghĩa với Rhinoceros trong tiếng Latin.
- Theo cuốn Dictionarium Annamitico Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine đã ghi nhận cả tây lẫn tê.
- Theo Việt-Nam Tự-Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội chỉ ghi nhận có tê mà không còn thấy tây.
- Theo Đại Nam quấc âm tự vị thì "u tây" là "Cái sừng ở trước mũi con tây, người khách lấy làm một vật quí báu, cũng là vị thuốc mát"
- Theo Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì còn lưỡng lự giữa tê và tê giác (là hai đơn vị đồng nghĩa) và có hai mục từ: "Tê–Cg. Tê giác, tê ngưu. Loài thú có guốc lẻ, da dày, trên mũi có một hoặc hai sừng" và " Tê giác.–Nh. Tê (loài thú).", tập thể tác giả đã nghiêng hẳn về tính chính xác của ngôn ngữ nên mới lấy Tê làm mục từ chính, và Tê giác thì chỉ được chuyển chú về mục Tê.
- Trong kinh Phật có bài kệ về con Tê ngưu một sừng hay Kinh tê giác (Khaggavisāṇa-sutta/Khaḍgaviṣāṇa-gāthā/Khargaviṣaṇa-sutra/Khargaviṣaṇa-gasa), với những câu: Hãy sống riêng một mình/Như tê ngưu một sừng nói về một con vật có tập tính sống đơn độc.
- Trong tiếng Đức thì loài tê giác Ấn Độ cho đến nay vẫn được gọi là Panzernashorn hay "tê giác bọc giáp", trong đó, phân loài Tê giác Bắc Sumatra được biết đến là một trong những con vật được tôn vinh và được mô tả nhiều trong văn học Trung Quốc. Hầu hết nghệ thuật Trung Quốc cổ đại và hiện đại và các bức tượng của tê giác hai sừng đại diện cho tê giác Bắc Sumatra như nột chiếc bình rượu ở dạng một con tê giác hai sừng bằng đồng bạc, từ thời Tây Hán (ở Thiểm Tây) và một chiếc yên ngựa trên lưng đã cho thấy những di chỉ của chúng từng tồn tại ở Trung Quốc.
Một số câu chuyện dân gian về tê giác Sumatra bị bắt giữ do các nhà tự nhiên thuộc địa và thợ săn từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Ở Miến Điện, nơi các phân loài phía Bắc đã từng sống trong những khu rừng rậm rạp thì có niềm tin đã từng phổ biến rộng rãi rằng tê giác Sumatra đã dập tắt đám cháy và ăn cỏ cháy như những nhà chữa cháy tự nhiên. Câu chuyện mô tả tê giác ăn những đốm lửa, như lửa trại, và sau đó tấn công trại. Cũng có một niềm tin của Miến Điện rằng thời gian tốt nhất để săn là vào tháng 7, khi con tê giác Sumatra sẽ tụ tập bên dưới ánh trăng tròn. Việc tê giác tụ tập cũng được ghi nhận thực tế trong tự nhiên vì chúng là loài có tập tính đi vệ sinh công cộng, các con tê giác sẽ cùng đại tiện vào cùng một chỗ trong khu vực nhất định. Từ xưa người Nam Chiếu (ở Vân Nam) săn tê giác bằng cách sử dụng bẫy hố và người ta tin rằng giết một con tê giác sẽ đem tới giông bão.
Ở Trung Quốc cổ đại, trong Sơn Hải Kinh phần Dị thú chí cũng có nói về con tê giác cụ thể là Tê (犀) rất giống trâu nước, chân và bàn chân giống voi lớn, đầu giống con heo, trên đầu mọc ba cái sừng, lần lượt là ở trên đỉnh đầu, cái trán và cái mũi, trong miệng thường xuyên khạc ra bọt máu. Sừng tê (tê giác) có khả năng giải độc, Lý Thời Trân có nói sừng tê là "Nơi tụ họp tinh linh của Tê, còn là thuốc giàu âm dương, có thể giải nhiều độc". Trong Bản thảo cương mục có ghi chép: "Tê xuất hiện ở nhiều nơi như Tây Phiên, Nam Phiên, Điền Nam, Giao Châu, có ba loại Sơn Tê, Thủy Tê, Hủy Tê, lại có thêm Mao Tê, tựa như Sơn Tê, sống ở núi rừng, nhiều người thấy được. Thủy Tê ra vào trong nước, hiếm thấy nhất", căn cứ theo những ghi chép này thì con Tê chính là con tê giác.
Kinh sách này còn chép về sinh vật tên Hủy (兕/sì) hay tỷ là sinh vật có tướng mạo giống một con trâu, thân thể màu xám đen, trên đầu mọc một cái sừng. Hủy còn được gọi là Độc Giác Thú, tượng trưng cho văn đức, cổ nhân thường hay khắc hình ảnh của Hủy lên đồ đồng thau hoặc là vẽ thành chân dung để làm đồ trang trí hay còn gọi là Hủy quang. Quách Phác chú thích: "Tê như trâu nước, Hủy cũng như trâu nước, màu đen, một sừng, nặng ngàn cân và chân to, ngắn, mỗi bàn chân có ba ngón, đầu có ba sừng, trên trán có hai sừng và mũi có hai sừng; và con Hủy có một sừng". Trong chú giải của Nhĩ Nhã (biên soạn vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên) thì con Tây (xī) được cho là giống con lợn rừng trong khi con Hủy/Tỷ (sì) được cho là giống con dã ngưu. Nhiều học giả sau này cho rằng con Hủy (sì) chỉ về một dã ngưu (trâu rừng).
Chuyện có liên quan đến Hủy được ghi chép trong Tam tài đồ hội: "Hủy như hổ mà nhỏ, không cắn người. Ban đêm đứng một mình ở đỉnh vách núi cao nhất, nghe tiếng suối, rất yên tĩnh, cho đến khi chim muông hót, trời gần sáng mới quay về tổ". Hay loài Quán Sơ (矔疏) tức ngựa một sừng là một loài thú Thụy thú chống lửa, trên sừng của Quán Sơ có hoa văn đan chéo vào nhau, giống như áo giáp. Đồ Tán của Quách Phác ghi chép: "Loài thú ngăn ngừa hỏa hoạn, tên nó là Quán Sơ". Thuyết văn giải tự cũng ghi chép rằng nó một con ngưu xuất hiện bên ngoài biên giới phía Nam, trên mũi có một sừng và một sừng khác trên đỉnh đầu và trông giống một con lợn" và Hủy thì "giống như một con dã ngưu và có màu sẫm" . Nơi nó sống thường là thung lũng ẩm ướt trong rừng già có độ cao tương đối. Tê giác quen sống độc thân, tuy to lớn nhưng di chuyển nhanh nhẹn, vùng hoạt động khá rộng. Trong thiên nhiên chúng không có kẻ thù, không cạnh tranh với các loài thú khác. Giống tê giác, thích ăn thực vật có gai, khi uống thì quậy cho đục nước mới uống, tê giác là loài thú rất quí của rừng xanh.
Trong lịch sử thời phong kiến, những sử sách Trung Hoa ghi chép xứ Giao Chỉ là nơi có nhiều tê (bao gồm cả loài tê giác một sừng và tê giác hai sừng) và dân bản địa vẫn thường phải cống nạp sừng tê cho các triều đại ở Trung Hoa Theo thông lệ đương thời, các vị quân vương thường trao đổi những con thú lạ để trưng bày trong vườn thượng uyển, vì vậy con tê giác của Sultan Muzafar II đã được thuần dưỡng để thích nghi với cuộc sống nuôi nhốt. Về phần mình, Alfonso de Albuquerque đã quyết định chuyển con thú, vốn có tên tiếng Gujarati là ganda, cùng người chăm sóc nó đem về Bồ Đào Nha cho vua Manuel I. nhỏ|phải|Bức tượng điêu khắc Rinoceronte vestido con puntillas (1956) của [[Salvador Dalí.]] nhỏ|phải|Tượng sứ con tê giác tại bảo tàng đồ sứ ở [[Meissen, dựa trên bức điêu khắc của Johann Gottlieb Kirchner thực hiện khoảng năm 1730.]] nhỏ|phải|Huy hiệu của [[Alessandro de' Medici, từ tác phẩm của Paolo Giovio, Dialogo dell'impresse militari et amorosi.]] nhỏ|phải|Bản sao Rhinocerus do [[David Kandel thực hiện cho tác phẩm Cosmographia của Sebastian Münster.]] Con tê giác rời Ấn Độ trên con tàu Nossa Senhora da Ajuda của thuyền trưởng Francisco Pereira Coutinho.. Nossa Senhora da Ajuda rời cảng Goa tháng 1 năm 1515, vượt qua mũi Hảo Vọng rồi tiến về phía Bắc, dừng chân tại đảo Saint Helena và Açores trước khi về tới Lisboa tháng 5 năm 1515. Sau chuyến đi kéo dài 120 ngày (tương đối nhanh so với kỹ thuật hàng hải thời đó), con tê giác được chuyển lên bờ tại địa điểm gần với Tháp Belém đang được xây dựng. Sau này ngọn tháp đã được trang trí với các miệng máng xối có hình đầu con tê giác.
Con thú nuôi độc lạ được nuôi tại vườn thượng uyển của vua Manuel trong Cung điện Ribeira ở Lisboa thay vì nuôi chung với đàn voi và những con thú khác ở Cung điện Estãos. Vào ngày lễ Thánh 3 tháng 6, vua Manuel cho tổ chức một cuộc thi đấu giữa tê giác và voi hầu kiểm chứng những ghi chép của Caius Plinius Secundus từ thời La Mã và theo Caius thì voi và tê là hai loài thù địch. Trong đấu trường khi con tê giác chậm rãi tiến về đối thủ thì con voi con, bị đám đông náo động, bỏ chạy khỏi sân trước khi cuộc đấu kịp bắt đầu..
Vua Manuel sau quyết định gửi con tê giác như một món quà tặng Giáo hoàng Leo X ngõ hầu mong muốn qua chuyện này thì Giáo hoàng sẽ ban cho Bồ Đào Nha quyền sở hữu tuyệt đối của mình trên các mảnh đất mới khám phá được ở vùng Viễn Đông kể từ khi nhà thám hiểm Vasco da Gama tìm ra tuyến đường tới Ấn Độ vòng qua châu Phi năm 1498. Một năm trước đó, vua Manuel I cũng đã gửi tặng Giáo hoàng một con voi trắng, món quà mà Leo X rất ưng ý và đặt tên là con voi Hanno. Cùng với nhiều tặng vật giá trị bằng bạc và hương liệu, Manuel I cho đính vào cổ con tê giác một dải lụa thêu hoa trước khi chuyển lên tàu tháng 12 năm 1515 ở Tejo trực chỉ Roma.
Đầu năm 1516, khi sứ bộ dừng nghỉ ở hải đảo ngoài khơi Marseille thì vua François I của Pháp xuống chiếu muốn đích thân ngự giá đến xem Con thú này vinh hạnh ra mắt nhà vua Pháp ngày 24 tháng 1 năm 1516. Sau khi đoàn tàu nhổ neo tiếp tục chuyến hải hành thì bất ngờ gặp bão lớn ở eo biển Porto Venere ở phía Bắc La Spezia. Con tàu chở tặng vật cho Giáo hoàng không may bị đắm chìm. Loài tê giác theo tập tính tự nhiên vốn biết bơi lội nhưng vì con vật này lại bị cột bằng xích vào thành tàu nên con thú xấu số này đã chết đuối. Xác của nó trôi dạt vào gần bờ biển thuộc Villefranche-sur-Mer thì được vớt lên, chuyển về Lisboa để nhồi bông.
Con tê giác này sau đó lại chuyển qua thành Roma vào tháng 2 năm 1516 để trưng bày nhưng một con vật đã chết và đã không còn gây chú ý như một con thú sống bằng xương bằng thịt như trước kia ngoài một vài ghi chép của Giovanni da Udine và Raffaello Con tê giác nhồi bông sau khi đến Ý được ít lâu thì mất tích; có thuyết cho là dòng họ Medici chuyển cn vật kỳ dị này về Firenze hoặc nó bị phá hủy trong cuộc Cướp phá Roma năm 1527. Nghi vấn này đã được Lawrence Norfolk sử dụng cho cuốn tiểu thuyết ông viết năm 1996 The Pope's Rhinoceros (Con tê giác của Giáo hoàng)..
Vào cuối năm 1515 vua Manuel I của Bồ Đào Nha đã gửi con vật tặng Giáo hoàng Leo X làm quà nhưng chiếc tàu chở con thú đã bị đắm ngoài khơi Ý đầu năm 1516 và phải chờ đến năm 1579 con tê giác thứ hai mới được mang từ Ấn Độ về châu Âu. Ngày 20 tháng 5 năm 1515, một con tê giác bằng xương bằng thịt được đưa từ Ấn Độ tới cảng Lisboa bằng đường biển, khi con vật xuống thuyền ở Bồ Đào Nha thì công chúng náo động ví như con người thời Phục Hưng chợt tìm thấy một di vật của thời Cổ Đại. Con vật đã được cả giới bác học lẫn đại chúng đến xem xét kỹ lưỡng Một phần ghi chép trên bản khắc bằng tiếng Đức, phần lớn dựa trên tác phẩm của Caius Plinius Secundus. Mặc dù có nhiều lỗi về cơ thể học, bản khắc của Dürer vẫn nổi tiếng và được coi là một minh họa chính xác về loài tê giác cho tới cuối thế kỷ 18. Theo một khía cạnh khác thì việc thêm thắt "bộ giáp" của Dürer là lối mô tả các phần vảy sừng dày của tê giác Ấn Độ; hoặc chỉ đơn thuần là sự hiểu lầm và phóng tác của chính tác giả.Dürer sống ngay gần xưởng sản xuất vũ khí Schmeidegasse ở Nürnberg, ông cũng thiết kế giáp vào cùng thời điểm đó, các chi tiết này có thể cũng ảnh hưởng tới bản khắc Rhinocerus.
Trong văn hóa truyền thống
Cho dù sự mô tả con tê giác trong văn hóa mỗi thời, mỗi khác và đôi khi không lột tả đúng hình dáng thật sự của một con tê giác (bất kỳ loài nào) bằng xương bằng thịt trên thực tế, nhưng cho dù như thế, những con tê giác vẫn để lại những hình tượng quan trọng về mặt văn hóa từ Đông sang Tây.
Thần thú trị thủy
Thời xa xưa, khi người cổ đại ở Trung Quốc nhìn thấy những con tê giác khổng lồ bơi trong làn nước, thấy sừng tê giác nhô lên, tách sóng như chẻ đôi dòng nước, họ đã hình thành nên một tín ngưỡng về thần thú có khả năng và năng lực trị thủy. Ở Trung Quốc cổ đại, người ta đặt tê giác đá trên bờ để trấn áp thủy quái (trấn thủy), theo truyền thuyết, tê giác có công năng phân chia nước (gọi là cực năng phân thủy, xung khai minh lộ). nhỏ|trái|Tê giác được người cổ xem như thần thú trị thủy, sừng tê có công năng phân thủy Vào thời nhà Tần, đồng bằng Thành Đô thường xuyên xảy ra lũ lụt, Tần Thủy Hoàng đã bổ nhiệm Lý Băng làm Thái thú với trọng trách kiểm soát công việc trị thủy. Lý Băng đã kiến tạo một dòng chảy trên dòng Mân Giang còn được biết đến với cái tên Đô Giang Yểm và chế ngự lũ lụt ở đồng bằng Thành Đô, biến đất Thục trở thành vùng đất trù phú thời ấy. Để trấn yểm, Lý Băng đã ra lệnh tạc 5 con tê giác đá làm thần thú, có 2 con được chở đến Thành Đô và 3 con được đặt ở Đô Giang Yểm.
Chiếc sừng trên đầu của ba tên Tê Ngưu Tinh có một công dụng đặc biệt liên quan đến nhược điểm của Tôn Ngộ Không là không giỏi thủy chiến vì bản chất là con khỉ. Trong nguyên tác đã giới thiệu về những chiếc của Tê Ngưu Tinh như sau: "Những chiếc sừng trên đầu của yêu quái này, cực năng phân thủy, xung khai minh lộ", cực năng phân thủy là những chiếc sừng này có khả năng chống nước, chỉ cần có được nó thì có thế tự do hành động dưới nước mà Tôn Ngộ Không không giỏi chiến đấu dưới nước (và phải niệm thần chú tỵ thủy chú) nên Tôn Ngộ Không phải nói với các sư đệ: "Hiền đệ! Chuyện này nói thật, ta không giỏi chiến đấu dưới nước. Mỗi khi xuống nước đều phải niệm tị thủy chú", nên khi có được chiếc sừng của Tê Ngưu Tinh, Tôn Ngộ Không không cần phải niệm chú khi chiến đấu dưới nước, có thể thoải mái phát huy hết bản lĩnh của mình như khi chiến đấu trên trời hoặc mặt đất.
Vào thế kỉ XIII, một đội viễn thám của Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự xâm lăng Ấn Độ gặp gỡ trên sa mạc một sinh vật "như một con nai, với cái đầu như của một con ngựa, một chiếc sừng trên trán, và lông xanh phủ trên thân mình". Một trong những viên thượng thư người Trung Hoa của Thành Cát Tư Hãn, nhờ tra cứu, đã giải thích với ông rằng loài thú nọ chính là chio-tuan, một loại kì lân, ông sau đó đã lui quân vì điềm báo của loài thần thú này. Hai mươi hai thế kỉ trước kỉ nguyên Kitô giáo, một trong những pháp quan của Hoàng đế Thuấn (舜) có sở hữu một 'con dê một sừng' không tấn công người bị buộc tội oan nhưng sẽ húc kẻ phạm tội (thực tế theo mô tả này thì nó chính là con Giải trãi)
Thú một sừng được thừa nhận rộng rãi như một sinh thể siêu nhiên và một điềm lành nên nó được nhắc đến trong những vần thơ trữ tình Ode, trong những pho Sử biên niên (Annals), trong lai lịch của những danh nhân, và trong các văn bản với quyền uy không thể nghi ngờ khác. Ngay cả phụ nữ và trẻ con trong làng cũng biết rằng thú một sừng là một dấu hiệu may mắn. Nhưng loài sinh vật này không mang dáng dấp của những thú nuôi trong nhà, thật không dễ thấy nó, nó không can dự vào bất kì sự phân loại nào. Nó không giống một con ngựa hay một con bò, một con sói hay một con nai. Trong tình trạng như vậy, có thể giáp mặt một con thú một sừng và không biết chắc đó có phải là nó hay không, việc biết đến một sinh vật có bờm như vậy là một con ngựa, và một sinh vật có sừng như thế là một con bò, không biết một con thú một sừng trông ra sao (Jorge Luis Borges).
Kỳ lân Phương Đông
Kỳ lân là biểu tượng của văn hóa và lịch sử cổ truyền ở Việt Nam cũng như Trung Quốc và cũng có ý kiến cho rằng nguyên mẫu của Kỳ lân lại là con tê giác, một loài vật chỉ gặp ở xứ nhiệt đới phương Nam. Tê giác vốn là một loài thú lớn, chỉ sống ở vùng nhiệt đới nóng ẩm nhưng hình tượng tê giác đã đi vào trong kinh sách và hiện vật văn hóa Trung Hoa hàng nghìn năm trước, tê giác còn hiện hữu trong văn hóa phương Đông ở trong bộ linh vật là Tứ linh. Sách Lễ ký của Khổng Tử là tài liệu sớm nhất nói về Tứ linh xếp trật tự 4 con vật này như sau: "Lân, Phụng, Quy, Long". Con Lân hay Kỳ Lân là loài linh vật đứng đầu Tứ linh còn theo Ngũ hành được tóm tắt thấy trong sách Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi thì Lân là con thần thú đứng đầu các loài có lông mao và là biểu tượng của hướng Tây. Điều này trùng khớp với tên của loài tê giác vì bản thân chữ tê còn có âm đọc là tây (con tây) hay tây ngưu, hay độc giác ngưu. Kỳ lân đọc phản thiết là ly, tức là "Kỳ lân" là từ ghi âm của chữ ly, Lân hay Ly đều là về một con vật, một hình tượng.
Trong Kinh Thi phần Chu Nam có bài thơ Quyển nhĩ: "Trèo lên trái núi/Ngựa ta mệt rồi /Bình ta rót rượu hủy quang/Để mà tránh khỏi đau thương lâu dài". Bà Chu hậu nhớ chồng đi xa, lên núi cao, uống rượu trong một chiếc "hủy quang" để mong quên đi nỗi nhớ thương. Hủy quang là một loại đồ vật bằng đồng, mô phỏng hình dáng con Tê giác, dùng để đựng rượu, thịnh hành ở thời Tây Chu. Một chiếc Hủy quang bằng đồng xanh của thời kỳ này được thấy ở Lào, chiếc quang hình con tê giác này có phần đầu rất lớn, một sừng to, cong, vươn ra phía trước, sừng khác nhỏ hơn ở trên trán, tai tê giác nhọn, phần sau của nắp quang là hình mặt lợn, mõm rộng, tai cong, con mắt của con tê giác này to tròn, sống động, phần thân chiếc quang tê giác được trang trí bằng những hoa văn nổi, dài theo thân quang ở mỗi bên là hình một con chim lớn, cách điệu, mỏ tù, đuôi dài, mào cong như con chim phượng trên chiếc quang chim thú ở trên, phần ngực tê giác hai bên có hình con quỳ long nhỏ, có sừng, đang há miệng, quay đầu về phía con chim phượng, những con dấu với thiết kế như vậy được cho là mang dấu hiệu của vai vế cao cấp trong xã hội thời đó. Một con vật được gọi là Re'em (tiếng Hebrew: רְאֵם, có nghĩa là "Tê giác") được đề cập tới tại một số phần trong Kinh thánh Hebrew, thường như là một ẩn dụ đại diện cho sức mạnh giống như kỳ lân, đây là con vật thường được mô tả trong nghệ thuật nền văn minh Lưỡng Hà cổ xưa chỉ với một sừng có thể nhìn thấy được. Những bản dịch Kinh Thánh (1611) có thẩm quyền của King James, đã lấy từ Unicorn, hay kinh Hy Lạp lấy từ Monokeros và kinh La Mã lấy từ Unicornus, để dịch từ Re'em chỉ về một loài vật một sừng không thể thuần hóa mà dân gian có thể nhận ra được. nhỏ|phải|Đấng Tạo hóa của muôn loài của [[Raffaello, 1518–1519. Một con tê giác xuất hiện ở bên phải cái cây, cùng với một con voi.]] Ngày nay, cái tên khoa học của chi Tê giác là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại (ris) có nghĩa là cái 'mũi' và κέρας (keras) có nghĩa là sừng của một con vật. Các học giả Hy Lạp thời cổ đại về lĩnh vực lịch sử tự nhiên đã cho rằng thực tế thì loài kỳ lân sống tại Ấn Độ, một vương quốc xa xôi và tuyệt vời dành cho chúng, mô tả sớm nhất là từ học giả Ctesias, người đã miêu tả chúng như là những con lừa hoang dã, rất nhanh chân, có một sừng dài chừng một cubit rưỡi (khoảng 70 cm) và lông màu trắng, đỏ hoặc đen.
Nhà triết gia Aristotle đã theo ánh nhìn của Ctesias sau khi ông có đề cập đến một trong hai loài động vật một sừng, đó là các con thú Oryx (một loại linh dương) và cái gọi là "lừa Ấn Độ". Học giả Pliny thì đề cập đến các con linh dương Oryx (Linh dương sừng kiếm) và con bò Ấn Độ (có thể là một con tê giác) là một trong những con thú một sừng, cũng như "con vật rất hung dữ gọi là Monoceros có chiếc đầu của nai, bàn chân của voi và đuôi của heo rừng, trong khi phần còn lại của cơ thể lại tương tự như của ngựa và có một sừng đen đâm ra từ giữa trán dài tầm hai cubit". nhỏ|phải|Tượng sắt con Eenhoorn, nguyên mẫu của kỳ lân một sừng, trông nó giống con tê giác Một gợi ý là hình mẫu của loài kỳ lân một sừng phương Tây đã dựa trên loài (chi) động vật đã tuyệt chủng là sinh vật có tên Elasmotherium, đó một chủng loài tê giác Á-Âu lớn mang nguồn gốc ở các thảo nguyên Á Âu, nằm phía nam của phạm vi sinh sống của những con tê giác lông mịn ở Kỷ băng hà châu Âu. Về tổng thể thì Elasmotherium nhìn giống như ngựa một chút, nhưng nó có một sừng lớn duy nhất ở trán của nó. Dù nó đã tuyệt chủng tuy nhiên, theo Sách gia đình Bắc Âu và nhà khoa học Willy Ley, loài vật đó có thể đã sống sót đủ lâu để được nhớ trong truyền thuyết của những người Evenk của Nga như là một con bò đen khổng lồ với một sừng trên trán và duy nhất.
Trong số sự ủng hộ này, một điều đã được ghi nhận rằng, vào thế kỷ XIII, nhà thám hiểm Marco Polo tuyên bố đã thấy một con kỳ lân tại Java nhưng mô tả của ông rõ ràng làm cho người đọc hiện đại nhận ra ông thực sự nhìn thấy một con tê giác Java. Marco Polo đã miêu tả chúng là "... nhỏ hơn con voi một chút. Chúng có bộ lông như trâu và bàn chân thì giống của voi. Chúng có một cái sừng đen ở giữa trán... Chúng có cái đầu giống loài lợn lòi hoang dã... Chúng dành phần thời gian đầm mình vào bãi bùn. Trông chúng rất bẩn thỉu. Chúng không giống tất cả những gì mà chúng ta đã miêu tả khi liên hệ với việc chúng được nuôi dưỡng bởi những trinh nữ, thực sự trái ngược với ý niệm của chúng ta", rõ ràng là Marco Polo đang nói đến một con tê giác. Trong khi đó, Tại Đức, từ thế kỷ 16, từ Einhorn (tiếng Anh: one-horn, tiếng Việt: một sừng) đã miêu tả một vài loài tê giác.
Năm 1663, trong số nhiều mẩu xương thời tiền sử được tìm thấy ở Einhornhöhle tại vùng núi Harz Đức, một số đã được lựa chọn và lắp ráp lại thành một con kỳ lân bởi Ngài Otto von Guericke vùng Magdeburg. Trên thực tế, con vật được gọi là kỳ lân của Guericke chỉ có hai chân, và được ghép lại từ xương hóa thạch của một con tê giác lông mịn và voi ma mút, với cái sừng của một con kỳ lân biển. Bộ xương này được kiểm tra bởi Gottfried Leibniz, người trước đó đã nghi ngờ sự tồn tại của kỳ lân, nhưng được thuyết phục bởi nó. Tiến sĩ W. Franklin Dove, giáo sư Đại học Maine, đã hợp nhất các chồi sừng của một con bê với nhau, tạo ra hình dáng bên ngoài của một con bò một sừng. Kể từ khi tê giác là động vật trên cạn còn sống sót duy nhất có một sừng, nó đôi khi được coi là nguồn gốc của truyền thuyết kỳ lân, bắt nguồn từ cuộc đọ sức giữa những động vật châu Âu kỷ băng hà và tê giác lông mịn, hoặc là truyền thuyết có thể đã được dựa trên hình mẫu loài tê giác của châu Phi.
Yêu quái Tê ngưu
nhỏ|phải|Tôn Hành Giả không rành thủy chiến nên phải nhờ đến sừng tê giác Trong tác phẩm Tây Du Ký ở Hồi 91 có sự xuất hiện ba con yêu quái tê giác thành tinh xưng vương ở động Huyền Anh, núi Thanh Long Cung. Chúng nguyên là ba con tê giác tu luyện thành tinh xưng Vương ở động Huyền Anh, núi Thanh Long đến phủ Kim Bình giả làm phật, lừa rồi ăn trộm dầu thơm của dân chúng và bắt Đường Tăng về động. Ba con yêu quái đó là: Tích Hàn Đại Vương (Tị Hàn Đại Vương) có khả năng tạo ra băng từ binh khí và tay không, sử dụng rìu làm binh khí. Tích Thử Đại Vương (Tị Thử Đại Vương) có khả năng phun ra lửa từ binh khí và tay không, sử dụng giáo làm binh khí và Tích Trần Đại Vương (Tị Trần Đại Vương) có khả năng tạo ra khói từ binh khí, sử dụng giáo làm binh khí.
Người dân kể lại ấy là núi Thanh Long, trong núi ấy có động Huyền Anh, trong động ấy có ba con yêu: Con yêu lớn hiệu là Tịch Hàn đại vương, con yêu thứ nhì hiệu là Tịch Thử đại vương, con yêu thứ ba hiệu là Tịch Trần đại vương, bầy yêu ấy ở đây đã ngàn năm, chúng nó từ nhỏ đến lớn hảo uống dầu tô điệp, nên chúng ở đây hay giả làm hình Phật, gạt quân dân Phủ Kim Bình, thắp đèn Nguơn tiêu bằng dầu tô điệp, năm nào đến nữa tháng nầy, chúng nó giả hình Phật mà đi thâu dầu. Tôn Hành Giả nói: "Ta coi bộ con yêu ấy chắc là con tây (tức tê giác) thành tinh". Trư Bát Giới nói: "Nếu quả nó là con tây thành tinh, thì mình bắt nó cưa lấy u (tức là cái sừng tê giác) mà bán, cũng đặng bạc ít chục".
Bị Tôn Ngộ Không biết đuổi đến động giao đấu thì Tôn Ngộ Không đành chịu thua vì không chịu nổi tiếng la hét của bọn tiểu yêu, không chỉ có ba con yêu quái tê giác thích món dầu thơm như phủ Kim Bình xưa kia, mà là có hàng nghìn hàng vạn yêu tinh. Bát Giới giao đấu với Tích Thử Đại Vương bị phóng hỏa thiêu cháy và bị bắt vào động, còn Sa Ngộ Tĩnh giao đấu bị Tích Trần Đại Vương phun khói cuốn bắt vào hang, Ngộ Không giao đấu với Tích Hàn Đại Vương bị đóng băng trong tuyết. Lúc đầu ba con tê giác giao đấu với Ngộ không rồi bị Tứ Mộc Tinh Quân tước vũ khí và trốn xuống Thủy Cung. Cuối cùng giao đấu với công chúa Thủy Cung và Ngộ Không rồi giải về Thiên Cung để Ngọc Hoàng định đoạt.
Trong số những yêu quái khó đánh nhất trong Tây Du Ký, không thể không nhắc đến ba tên Tê Ngưu Tinh ở động Huyền Anh, núi Thanh Long. Thành tích của ba tên Tê Ngưu Tinh này vừa bắt sống Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng; Ngộ Không hai lần đến cứu thầy đều dễ dàng bị ba tên Tê Ngưu liên thủ đánh bại, thực lực không thua kém Cửu Linh Nguyên Thánh. Nhưng ba con Tê Ngưu cũng có khắc tinh, chính là Tứ Mộc Đàm Tinh trong nhóm 28 Tinh Túc, gồm: Khuê Mộc Lang, Giác Mộc Giảo, Đấu Mộc Hải, Tỉnh Mộc Ngại. Trong đó, Tỉnh Mộc Ngại lợi hại nhất với kỹ năng "Thượng sơn ngật hổ, hạ hải cầm tê". Tứ Mộc ra tay, Tị Hàn đại vương bị Tỉnh Mộc Ngại bị cắn đứt đầu, Tị Thử và Tị Trần bị bao vây bắt sống. Khi Tôn Ngộ Không giải Tị Thử và Tị Trần vào Kim Bình phủ để hỏi tội, thì Bát Giới đã vội vàng xuống tay đánh chết Tại Đông Nam Á và nhất là ở Việt Nam, người dân mài sừng tê giác pha với nước hay rượu để uống và tin rằng nó có thể dùng để chữa bệnh..
Trong Đông Y
Thời xưa, ở phương Đông, người ta cho rằng, sừng tê giác là một thứ linh thiêng kỳ dị, thời cổ đại, sừng tê giác là một vị thuốc quý, có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, nó cùng ngọc dạ quang, minh nguyệt châu và tê giác không chỉ là một vật linh thiêng, với những tác dụng rất kỳ lạ, mà còn có tác dụng giải độc mạnh, những niềm tin này còn được các cổ thư ghi chép và gán cho sừng tê nhiều công năng đặc biệt. Người xưa có niềm tin rằng, chén làm từ sừng tê giác có tác dụng phát hiện được chất độc, nếu rót rượu độc vào chén, thì sẽ thấy sủi lên bọt trắng, người xưa còn cho rằng, bị tên độc bắn trúng, lấy sừng tê giác đâm vào vết thương, lập tức khỏi. Chiếc sừng của tê giác được các thư tịch cổ xem như "Thần dược" Cho đến những năm cuối thế kỷ XIX, trong giới Đông y còn lưu truyền quan niệm cho rằng, dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng thức ăn, thì ngay trong mùa Hè, từ 3 đến 4 ngày sau thức ăn trong đó vẫn không bị biến chất, chén tê giác có tác dụng như một chiếc đồ giữ lạnh như vậy, vì sừng tê giác là thứ có tính cực hàn. Từ những ghi chép này có ảnh hưởng đến suy nghĩ, nhận thức của các cư dân ở trung Quốc, Việt Nam về công dụng của sừng tê, và chiếc sừng mà dân gian đồn thổi như "thuốc tiên" khiến loài tê giác trở thành nạn nhân của chính sự quý hiếm người ta dành cho chúng.
Trong các thư tịch cổ và những sử sách thi chép thì Sừng tê giác được xem là vị thuốc đã có từ lâu và được ghi chép trong "Thần Nông bản thảo kinh" là bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y học và rất nhiều các y thư khác. Một số ghi chép trong thư tịch của Trung Quốc về sừng tê giác như:
- Sách "Dưỡng sinh diên thọ lục" và "Danh y biệt lục" của Đào Hoằng Cảnh (456-536) đã viết: "Dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng gạo cho gà ăn, thì gà sợ mà không dám mổ. Đem chén gạo đặt lên nóc nhà, thì chim sẽ cũng không dám ăn.
- Sách "Hoài nam tử" có chép như sau: "Đặt sừng tê giác vào hang, cáo không dám trở về".
- Sách "Khai nguyên di sự" có nói về loại sừng tê giác có tính năng chống lạnh, gọi là "tịch hàn tê", loại sừng này màu vàng, xuất xứ từ Giao Chỉ, mùa Đông loại sừng này tỏa ra hơi ấm, làm khí lạnh không nhiễm được vào người.
- Sách "Bạch khổng lục thiếp" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống nắng nóng, gọi là "tịch thử tê", Đường Văn Tông nhờ có được loại sừng này, mà mùa Hè nóng bức vẫn thấy mát mẻ.
- Sách "Lĩnh biểu lục dị" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống bụi bẩn gọi là "tịch trần tê"; dùng loại sừng này chế ra lược hay châm cài đầu thì người luôn sạch sẽ, không sợ bị bụi bẩn bám vào.
- Sách "Đỗ Dương biên" nói về loại sừng tê giác có tính năng giúp kiềm chế sự cáu giận, gọi là "quyên phẫn tê", dùng sừng loại này làm ngọc bội đeo ở đai áo, sẽ giúp người ta kiềm chế được những cơn tức giận.
- Sách "Thần Nông bản thảo kinh" chép: "Tê giác có thể giải tất cả các loại chất độc, như chất độc của sâu bọ, nọc rắn, lông chim độc, thậm chí giải được cả độc của lá ngón"
- Sách "Bão Phác Tử" của Cát Hồng viết: "Tê giác có thể ăn tất cả các loại cỏ độc và các loại cây bụi có gai, do đó nó có thể giải được các chất độc (Tê thực bách thảo chi độc cập chúng mộc chi cức, sở dĩ năng giải độc)".
- "Bản thảo Cương mục" của Lý Thời Trân đã trích dẫn một số điều nói về tính năng kỳ dị của sừng tê giác, mà các thư tịch cổ đã ghi chép lại, và cũng nói tới một loại sừng tê giác thượng phẩm gọi là "dạ minh tê", loại sừng này ban ngày và ban đêm đều phát sáng, có khả năng thông với thần linh, có thể xẻ nước, chim bay qua hay thú chạy qua, nhìn thấy đều kinh sợ ("năng thông thần linh, phách thủy, phi cầm tẩu thú kiến liễu đô vi chi kinh hãi").
Công dụng thực
nhỏ|phải|Đã có nhiều bàn cãi về công dụng thực của sừng tê giác Từ lâu, Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng sừng tê giác như một vị thuốc sau đó lan truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên và Viêt Nam. Trong Y học cổ truyền Trung Quốc (Trung y), sừng tê giác đã được đề cập trong "Thần Nông Bản thảo Kinh", sách này chia tất cả các vị thuốc thành ba loại là thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm và sừng tê giác được xếp vào "trung phẩm". Trong sách thuốc Trung y các thời đại sau, sừng tê giác dược xếp vào loại thuốc "thanh nhiệt lương huyết". Việc sử dụng sừng tê giác ở Việt Nam cũng gắn liền với tác dụng "thanh nhiệt lương huyết". Các bệnh có thể được chữa trị bằng sừng tê giác bao gồm sốt cao, mê sảng, co giật, đau đầu, sởi, động kinh.
Y học phương Đông tin rằng, sừng tê giác có tác dụng cải tử hoàn sinh và tăng cường khả năng tình dục, máu tê giác chữa được bách bệnh, da tê giác có tác dụng hút được nọc độc nơi vết thương do rắn cắn và có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, định kinh, thường dùng trong trường hợp sốt quá cao hóa điên cuồng, sốt vàng da, thổ huyết dẫn đến việc săn loài thú này để lấy sừng. Tuy nhiên theo một nghiên cứu của Trung Quốc thì sừng tê giác không khác gì sừng trâu. Ngày nay, các tổ chức quốc tế đã phát động một chiến dịch rầm rộ về tuyên truyền cho người dân nhận thức đúng đắn và đầy đủ công dụng của sừng tê giác để góp phần ngăn chặn nạn săn bắn tê giác lấy sừng đã và đang đẩy tê giác đến bờ vực tuyệt chủng.
Trong nghệ thuật
nhỏ|phải|Con tê giác thường được tạo hình như một cỗ xe tăng thiết giáp Tê giác xuất hiện trong nghệ thuật tiền sử châu Âu dù nó không thường phổ biến như các loài động vật khác, những con tê giác góp mặt trong nhiều nghệ thuật hang động, trang trí ở các hang động của Combarelles, Chauvet, Margot, Cussac và Arcy-sur-Cure, những con Tê giác lông mịn được khắc họa ở Lascaux và Rouffignac. Các nhà khảo cổ đã khai quật được ở Thung lũng Indus trên di chỉ Mohenjo-daro những ngôi mộ được cho là thuộc giai đoạn -2.400-1.800. Họ đã tìm thấy những con dấu bằng đá màu trắng hình chữ nhật với những dòng chữ ngắn và hiện diện các loài thú vật bao gồm cả tê giác. Ở Ai Cập có nhắc đến Pharaoh Thutmose III (khoảng -1.450) có chuyến săn tê giác.
Tại Trung Quốc, người ta đã phát hiện ra những chiếc bình bằng đồng (zun) có chạm hình con tê giác, có niên đại từ các triều đại nhà Thương (thế kỷ 11 trước Công nguyên) và Tây Hán (năm 206 trước Công nguyên đến thế kỷ IX sau Công nguyên). Loài động vật bán thần thoại này tiếp tục xuất hiện trong chủ đề nghệ thuật các thế kỷ XVII và XVIII một cách khá thường xuyên trong nghệ thuật trang trí (thảm trang trí, bích họa, trang trí gốm sứ, minh họa sách) nhưng không gây cảm hứng cho những thành tựu hoành tráng như ở thế kỷ XVI nhưng có một bức phù điêu bằng đồng của Jean Bologne trên cửa nhà thờ Pisa (Ý), vào giữa thế kỷ 18, tê giác bọc thép là một chủ đề truyền thống được gắn kết rõ ràng với chủ đề trang trí.
Thời tiền sử
nhỏ|phải|Tranh vẽ hang động tiền sử về tê giác trong hang Chauvet nhỏ|phải|Tranh vẽ về một con tê giác lông mịn Nhiều bức tranh hang động từ thời đồ đá cũ trên mô tả những con tê giác lông mịn thời tiền sử. Các đặc điểm nhận dạng của con vật được vẽ nổi bật, hoàn chỉnh với phần lưng và bướu nhô cao, tương phản với phần đầu thấp của nó. Hai đường cong tượng trưng cho cái tai, chiếc sừng của con vật được vẽ với độ cong dài của chúng, và trong một số trường hợp, lớp lông cũng được biểu thị khá rõ. Nhiều bức tranh cho thấy một dải đen chia cắt cơ thể. Khoảng 20 hình vẽ thời kỳ đồ đá cũ về tê giác lông mượt đã được biết đến trước khi phát hiện ra Hang Chauvet ở Pháp.
Chúng có niên đại hơn 31.000 năm tuổi, có thể là từ thời Aurignacian, được khắc trên tường hang động hoặc được vẽ bằng màu đỏ hoặc đen. Một cảnh mô tả hai con tê giác chiến đấu với nhau bằng sừng. Các hình minh họa khác được tìm thấy trong các hang động Rouffignac và Lascaux. Một bức vẽ từ Font-de-Gaume cho thấy tư thế đầu cao hơn và những bức khác được vẽ bằng sắc tố đỏ trong Hang động Kapova ở dãy núi Ural. Một số hình ảnh cho thấy tê giác bị tấn công bằng giáo hoặc mũi tên, biểu thị việc săn bắt của con người. Địa điểm Dolní Věstonice ở Moravia, Cộng hòa Séc, được tìm thấy với hơn bảy trăm tượng thú vật với nhiều con tê giác lông mượt.
Trong lịch sử, tê giác lông mịn đã chia sẻ môi trường sống của chúng với con người, nhưng bằng chứng trực tiếp cho thấy chúng tương tác với nhau là tương đối hiếm. Chỉ 11% các địa điểm được biết đến của các bộ lạc Siberia thời tiền sử có di tích hoặc hình ảnh của loài vật này. Nhiều hài cốt của tê giác được tìm thấy trong các hang động (chẳng hạn như hang Kůlna ở Trung Âu), vốn không phải là môi trường sống tự nhiên của tê giác hay con người, và những kẻ săn mồi lớn như linh cẩu có thể đã tha đi các bộ phận của tê giác ở đó, đôi khi, những gì còn lại chỉ có răng hoặc mảnh xương riêng lẻ được phát hiện, thường chỉ đến từ một loài động vật.
Hầu hết các hài cốt của loài tê giác ở Tây Âu đều được tìm thấy ở cùng những nơi tìm thấy hài cốt hoặc hiện vật của con người, nhưng điều này có thể xảy ra một cách tự nhiên. Các dấu hiệu cho thấy con người ban đầu đã săn bắt hoặc lùng sục tê giác đến từ các dấu hiệu trên xương của con vật. Một mẫu vật có vết thương do vũ khí của con người gây ra, với dấu vết của vết thương do vật sắc nhọn đánh dấu ở vai và đùi, và một ngọn giáo được bảo quản được tìm thấy gần xác chết. Một số địa điểm từ giai đoạn đầu của Thời kỳ băng hà cuối cùng vào cuối thời kỳ đồ đá cũ giữa, chẳng hạn như Hang động Gudenus (Áo) và địa điểm ngoài trời Königsaue (Sachsen-Anhalt, Đức), đã bị phá hủy nặng nề xương tê giác lót bằng dấu gạch chéo.
Hành động này được thực hiện một phần để chiết xuất phần tủy xương bổ dưỡng. Cả xương và xương của tê giác đều được sử dụng làm nguyên liệu cho các công cụ và vũ khí, cũng như di vật của nhiều loài động vật khác nhau. Tại khu vực ngày nay là Zwoleń, Ba Lan, thiết bị này được làm từ xương đập của người bại liệt. Những chiếc ném dài nửa mét, được làm từ lông tê giác khoảng 27 nghìn năm trước, đến từ bờ sông Yana. Một ngọn giáo 13.300 năm được tìm thấy trên đảo Bolshoy Lyakhovsky với đầu giác quan, xa nhất về phía bắc mà con người từng được tìm thấy. Người đàn ông trong hang Pinhole là một hình tượng người đàn ông thuộc thời kỳ đồ đá cũ muộn được khắc trên xương sườn của một con tê giác lông mịn được tìm thấy tại Creswell Crags ở Anh.
Trong điêu khắc
nhỏ|phải|Hiện vật điêu khắc sừng tê giác trong [[Bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] nhỏ|phải|Tượng [[Bố Đại La hán cưỡi Tê giác (Thiên mã giác), tại Chùa Linh Ứng trên bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng]] Các mô tả về tê giác trong nghệ thuật cổ đại của Trung Quốc thường rất chính xác và sống động như thật, cho thấy rằng chúng được người nghệ sĩ mô phỏng trực tiếp trên những con tê giác sống chứ không phải dựa trên truyền thuyết hoặc câu chuyện của những người du hành Hầu hết các mô tả về tê giác trong nghệ thuật thời nhà Thương, nhà Chu và nhà Hán đều thể hiện hai chiếc sừng riêng biệt, và trong một số trường hợp, nếp nhăn quanh mắt cũng rõ ràng, đây là những đặc điểm chỉ có ở Tê giác Sumatra (tê giác Ấn Độ và Java chỉ có một sừng duy nhất), tuy nhiên cũng có tác phẩm điêu khắc thể hiện tê giác một sừng cũng được biết đến, chẳng hạn như trên một trụ bằng đồng được đỡ bởi ba con tê giác trong lăng mộ của Vương Thố Trung Sơn (cuối thế kỷ 4 trước Công nguyên). Thời Minh-Thanh, nghệ thuật "Giác điêu" phát triển cực thịnh, trở thành một loại trân phẩm để sưu tầm, trân quý và thưởng ngoạn. Điêu khắc sừng tê giác khó vì sừng tê giác cứng, khó điêu khắc, khó mài bóng. Chúng ngắn và có hình dáng khó tạo hình nên đa số cá tác phẩm "Giác điêu" đều điêu khắc thành dạng tôn, chén hoặc đồ đựng rượu, số ít khác thì thành các vật trang trí nhỏ. Nay các nghệ thuật điêu khắc cổ truyền như Giác điêu cùng Nha điêu (điêu khắc ngà voi) thiếu thốn nguồn nguyên liệu truyền thống, mà giữ lại được những kỹ thuật chế tác cổ truyền quý giá, nghệ thuật "Giác điêu" còn lại số lượng nghệ nhân còn ít hơn cả "Nha điêu".
Ngoài ra, Bức tượng tê giác vàng Mapungubwe là một trong những hiện vật quan trọng được phát hiện ở Nam Phi. Bức tượng bao gồm những lá vàng mỏng dát trên một khung gỗ chạm khắc tinh xảo. Cùng với bức tượng tê giác là 9 kg trang sức bao gồm chuỗi hạt và những con giống bằng vàng khác đã được phát hiện. Mapungubwe là vương quốc lớn nhất trong thế kỷ XIII ở vùng tiểu Sahara châu Phi, tượng tê giác Mapungubwe được chế tạo tại địa phương trong thời kì tiền thực dân.
Trong hệ thống hình tượng động vật xuất hiện trên cổ vật Việt, tê giác là một hình tượng rất hiếm gặp. Tại Chùa Phật Tích thuộc huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh có bộ tượng 10 linh thú được đánh giá là những tác phẩm điêu khắc quý báu của thời nhà Lý với 5 cặp ngựa, tê giác, trâu, voi, sư tử được xếp đối xứng nhau phía trước hành lang tòa Tam Bảo. Cặp tượng tê giác được tạo tác bằng đá sa thạch nguyên khối, cao khoảng 1,2m, được tạo hình trong tư thế phủ phục, mình của tê giác được chạm hình vẩy hình tròn, đều tăm tắp như vẩy cá. Tình trạng hai bức tượng còn khá nguyên vẹn, năm 2017, bộ tượng 10 linh thú của chùa Phật Tích, trong đó có hai tượng tê giác tuổi đời gần 1.000 năm đã được công nhận là Bảo vật quốc gia Việt Nam.
Trong quần thể di tích Lam Kinh thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa có lăng mộ vua Lê Thái Tổ với những cổ vật quý của nền điêu khắc thời Hậu Lê là những bức tượng quan văn, quan võ và tượng các loài động vật gồm voi, nghê, ngựa, tê giác và hổ. Sự xuất hiện của tượng tê giác là điều hy hữu vì hình tượng loài vật này hầu như không được ghi nhận tại các lăng mộ cổ khác ở Việt Nam. Cặp tượng tê giác ở lăng mộ vua Lê Thái Tổ được tạc từ đá nguyên khối, dáng đứng, mang những đường nét chạm khắc mềm mại, đơn giản, trong tạo hình của hai bức tượng này là sừng tê giác được đặt trên đỉnh đầu giống như hình tượng kỳ lân trong văn hóa phương Tây mà sừng không nằm trên mõm như hình ảnh loài tê giác trong thực tế. phải|Tranh vẽ bằng bút mực về con tê giác, [[Albrecht Dürer, 1515, British Museum. Phần ghi chép bị nhầm khi ghi con tê giác tới Lisboa năm "1513".]] nhỏ|phải|Tranh bút mực về con tê giác, [[Hans Burgkmair, 1515, nay được lưu giữ tại bảo tàng Graphische Sammlung Albertina, Wien.]] nhỏ|phải|Bản in đầu tiên về con tê giác có lẽ xuất phát từ một bản khắc gỗ thô để minh họa cho bài thơ của [[Giovanni Giacomo Penni xuất bản ở Roma tháng 7 năm 1515. (Biblioteca Colombina, Sevilla).]] Sau này Bức tranh Rhinocerus (Tê giác) là tên tác phẩm khắc gỗ của họa sĩ, nghệ nhân khắc bản in người Đức Albrecht Dürer sáng tác năm 1515. Một vài nguồn cho rằng tác phẩm ra đời năm 1513 nhưng thực ra đó là lỗi ấn bản của Dürer trong một số bức tranh gốc.
Vị trí của Rhinocerus bắt đầu lung lay từ cuối thế kỷ 18 sau khi nhiều con tê giác sống được đưa về triển lãm tại châu Âu, giúp công chúng có được cái nhìn chân thực hơn về loài vật này. Cùng thời điểm với Dürer, một bản khắc thứ hai được Hans Burgkmair thực hiện ở Augsburg. Burgkmair vốn có quan hệ với các lái buôn ở Lisboa và Nürnberg, nhưng không rõ liệu ông có trực tiếp xem các bức thư và phác họa như Dürer không. Minh họa của Burgkmair có đường nét chân thực hơn so với tác phẩm của Dürer; bức vẽ còn có cả phần xiềng xích của con tê giác. đều có 6 hàng chữ chú thích. Các hình vẽ bắt nguồn từ bản khắc này xuất hiện trong nhiều văn bản về khoa học tự nhiên, trong đó có Cosmographiae của Sebastian Münster (1544), Historiae Animalium của Conrad Gessner (1551), Histoire of Foure-footed Beastes của Edward Topsell (1607) và rất nhiều tác phẩm khác. Hình ảnh con tê giác dựa trên bản khắc của Dürer cũng được Alessandro de' Medici chọn làm huy hiệu của ông vào tháng 6 năm 1536 với dòng khẩu hiệu "Non buelvo sin vencer" ("Không trở về nếu không chiến thắng"). Một tác phẩm điêu khắc dựa trên Rhinocerus cũng được Jean Goujon thực hiện ở Paris năm 1549 để chào mừng sự kiện Henri II của Pháp đăng quang.
Tuy vào năm 1790, trong buổi nói chuyện về chuyến thám hiểm đầu nguồn sông Nile, James Bruce đã phê phán Rhinocerus là "mô tả đặc biệt sai lầm ở mọi phần" và "là nguồn gốc cho hình dáng quái vật của loài thú này", mặc dù minh họa loài tê giác trắng ở châu Phi của Bruce có nhiều khác biệt so với tê giác Ấn Độ nhưng nó vẫn cho thấy những đặc điểm khác biệt lớn so với Rhinocerus của Dürer. Tuy vậy, cho đến cuối những năm 1930, bản khắc của Dürer vẫn còn xuất hiện trong sách giáo khoa như là minh họa chân thực cho loài tê giác.
Về mặt nghệ thuật, Rhinocerus tiếp tục có ảnh hưởng đến nghệ thuật hiện đại, một ví dụ điển hình là tác phẩm điêu khắc nổi tiếng Rinoceronte vestido con puntillas do Salvador Dalí sáng tác năm 1956
Trong văn hóa đại chúng
Tính hình tượng
Tượng tê giác, trước tòa nhà khoa Sinh học, [[Đại học Harvard, Cambridge, Massachusetts.]] nhỏ|phải|Mô hình một con tê giác trong nhà trẻ ở Việt Nam để giáo dục cho các bé ý thức bảo vệ loài thú này Có khả năng khơi dậy trí tò mò và trí tưởng tượng của khán giả trẻ châu Âu, thường là những loài sinh vật kỳ bí và thú nuôi độc lạ do đó, đôi khi tê giác xuất hiện trong sách và truyện tranh minh họa, và đặc biệt hơn là vào nửa đầu thế kỷ XX, khi các đế chế cai trị thuộc địa đang ở đỉnh cao vậy nên nhà thiết kế mô hình động vật Benjamin Rabier đã nhiều lần thể hiện một con tê giác trong tác phẩm của mình và thường thể hiện tê giác giống như một chiếc tăng thiết giáp. Ở phương Tây, tê giác được khuôn mẫu là loài hung dữ hoặc hung ác và cũng là con vật dễ nổi khùng, hiếu chiến và cứng đầu, mắt kém, điển hình là nhân vật trong Ninja rùa thì con tê giác đột biến Rocksteady là chiến hữu với lợn lòi (bộ đôi Lợn lòi điên và Tê giác khùng).
Trong tác phẩm Tintin ở Congo của Hergé xuất bản trước đen trắng từ tháng 6 năm 1930 cho đến tháng 6 năm 1931 trên các trang của Le Petit Vingtième, anh chàng Tintin trong một cuộc đi săn đã tiêu diệt một con tê giác bằng thuốc nổ. Cảnh này được lặp lại trong phiên bản màu xuất bản năm 1946. Được vẽ lại vào năm 1975 theo yêu cầu của nhà xuất bản Scandinavia, đoạn này trong album sau khi chỉnh sửa thay thế khi đã cắt xén bớt cảnh giết chóc khủng khiếp này đối với con tê giác mà chỉ thể hiện chung chung khi nhân vật chính thoát khỏi nghịch cảnh, để lại vụ nổ lớn sau lưng. Ngày nay, chỉ có các ấn bản của Pháp và Hà Lan giữ lại cảnh ban đầu, trong khi các ấn bản khác lấy bối cảnh mới, phù hợp hơn với sự nhạy cảm hiện tại liên quan đến bảo tồn thiên nhiên.
Trong lĩnh vực phim ảnh, trong phim Người nhện Spiderman xuất hiện một kẻ phe ác là nhân vật Rhino-Tê giác một sừng từ nguyên mẫu của một con tê giác, nhân vật này không được chăm chút kĩ càng về câu chuyện cá nhân, gã tên thật là Aleksei Sytsevich là một mafia Nga, gã này ôm ý định trả thù Người Nhện sau khi bị anh bắt trong một vụ cướp, đồng thời phá hủy thành phố để thỏa mãn sự hung tàn của mình, xuất hiện với phong cách hữu dũng vô mưu, quái nhân Tê giác một sừng nhìn tưởng như nguy hiểm nhưng không để lại nhiều ấn tượng cho khán giả, ngoài vẻ ục ịch của mình, gã này đơn giản chỉ là một vai phụ chạy qua câu chuyện.
Trong bộ truyện tranh Siêu nhân Việt Nam của họa sĩ Hùng Lân, ở Tập 11 có tựa đề "Ông vua tê giác" kểu câu chuyện về Thống chế Nêvy và Gôliát bị nhiễm chất độc ở hồ thủy ngân phải đưa về trái đất điều trị, mà muốn đẩy chất độc ra ngoài thì cần phải chích máu tê giác vào người để tạo chất kháng thể, nên tiến sĩ Mạnh Cường phải cử người đến châu Phi tìm tê giác do các vườn thú không còn nữa. Đoàn chuyên gia bị tên trùng săn lậu Kin-gơ ám hại vì gã là tay săn trộm tê giác chuyên nghiệp, bán sừng cho quái nhân Mê-đít ở sao hỏa để tạo một đạo quân khổng lồ. Hai nhân vật chính quay về, bí mật đến châu Phi, khám phá ra đường dây buôn bán này, vạch trần âm mưu của bọn chúng để bảo vệ loài tê giác khỏi bị nạn tuyệt chủng.
Trong loạt phim hoạt hình Hãy đợi đấy! (Ну, погоди! hoặc là Nu, pogodi!, phiên âm: "Nu, pa-ga-đi!") có nhân vật phụ Tê giác xuất hiện ở Tập 2 có tựa đề "Trong công viên thành phố", nhân vật phụ tê giác này có vai trò duy nhất là người soát vé nhà gương. Nếu có người nào muốn vào nhà gương thì phải cắm vé lên sừng của Tê Giác bởi vì nó chỉ lo ngủ chứ không thức canh, khi đèn nhà gương tắt, lúc này nhân vật Sói đã mò mẫm làm vỡ hết gương rồi nghĩ rằng mình đã nắm vào tai Thỏ nhưng khi đèn bật lên thì đó lại là sừng của Tê Giác, điều đó làm Tê giác nổi giận, Sói sợ quá, hoảng hốt bỏ chạy, đâm thủng tường nhà gương.
Khi con tê giác cuối cùng ở Việt Nam không còn, để giáo dục và nâng cao ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên động vật rừng cho thế hệ trẻ, bảo tàng Vườn Quốc gia Cát Tiên đã cho trưng bày bộ xương con tê giác này, sau một thời gian thì bộ xương con tê giác cuối cùng đang được trưng bày tại bảo tàng này để nhằm giáo dục và nâng cao ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên động vật rừng cho thế hệ trẻ. Đây là bộ xương con tê giác một sừng cuối cùng ở Việt Nam đã bị bắn chết trước đó tại Cát Tiên, việc trưng bày bộ xương còn nhằm nhắc nhở mọi người nâng cao ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên động vật rừng Việt Nam. Tất cả xương còn thiếu của con tê giác như đốt sống cổ, đốt sống hông, đốt sống sườn, xương bánh chè, một số xương ngón cùng vùng mõm (nơi sừng bị cắt mất) đã được các chuyên gia phục chế bằng chất liệu composite và thạch cao.
Tê giác xám
Tê giác xám (Grey rhino) là một thuật ngữ để miêu tả những rủi ro mà nền kinh tế một quốc gia đã nhận thấy được nhưng thường bị lơ là, cũng được dùng để miêu tả một mối đe dọa hiển nhiên nhưng bị phớt lờ còn Thiên nga đen ám chỉ các sự kiện bất ngờ có hậu quả nghiêm trọng, cái gọi là Tê giác xám là khái niệm bổ sung cho sự kiện thiên nga đen. Bản tính của giống tê giác khá hiền lành, nhưng nếu chúng tức giận, việc đưa con vật này trở lại trạng thái ban đầu là hết sức khó khăn nên, các nhà kinh tế học dùng tê giác xám để mô tả những sự việc tiềm ẩn nguy cơ nhưng vẫn bị lờ đi. Thuật ngữ Tê giác xám chưa được dùng nhiều trước năm 2016 trước thời điểm cuốn sách của Michele Wucker có tên là Gray Rhino: How to Recognize and Act on the Obvious Dangers We Ignore ("_Tê giác xám: Làm sao để nhận diện và hành động đối với những rủi ro hiển hiện mà chúng ta đã bỏ