✨Hình tượng loài chim trong văn hóa

Hình tượng loài chim trong văn hóa

nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi tiết về hai người nuôi chim ưng thời Trung cổ De arte venandi cum avibus , c. 1240 Hình tượng các loài chim muông ảnh hưởng sâu đậm trong nền văn hóa và đời sống con người ở khắp nơi trên thế giới. Các loài chim muông (chim chóc) trong hàm nghĩa văn hóa được tiếp cận theo nghĩa rộng là tất cả các giống loài điểu cầm thuộc lớp chim (Aves) đã và đang là một phần quan trọng của văn hoá con người, theo nghĩa rộng của hành vi xã hội, phong tục tập quán, bao gồm nhưng không giới hạn ở các hình thức biểu hiện như nghệ thuật, âm nhạc và tôn giáo tín ngưỡng trong suốt hàng ngàn năm qua.

Xã hội loài người trong lịch sử đã thuần hóa sử dụng cả gia cầm, thủy cầm cả về mặt kinh tế, kể cả dùng làm thức ăn, và phi kinh tế như phục vụ cho thể thao (săn bắn), vui chơi và cảm hứng nghệ thuật. Các loài chim đã xuất hiện trong thần thoại và tôn giáo của nhiều nền văn hoá từ thời Ai Cập cổ đại trở đi. Ví dụ, nữ thần Hy Lạp Cổ đại Athena có một con cú nhỏ làm biểu tượng của mình, trong khi ở Ấn Độ con công tượng trưng cho Mẹ Trái Đất. Các loài chim thường được xem như là những biểu tượng, cho dù nó là biểu tượng mang lại may mắn (điềm tốt) hay cái chết (điềm gở), sự thiêng liêng, hoặc được sử dụng trong biểu tượng huy hiệu (heraldry).

Dấu ấn văn hóa

Vai trò đời sống

Về phương diện giải trí, chim ăn thịt đã được sử dụng trong trò nuôi chim săn, trong khi chim chóc đã được nuôi nhốt vì tiếng hót và màu sắc của chúng. Các loài chim khác đã được đưa ra cho các môn thể thao truyền thống của con người như đá gà và đua chim bồ câu. Ngắm chim (chơi chim) cũng phát triển thành một hoạt động giải trí lớn. Chim có nhiều hình dạng khác nhau và được thể hiện trong nghệ thuật của con người, bao gồm tranh, điêu khắc, thơ và văn xuôi, âm nhạc, múa ba lê truyền thống (chẳng hạn như vở Hồ thiên nga), phim ảnh và thời trang. Theo Phật thoại, Uyên ương (Vịt) là một trong các hóa thân của Phật nên trong nghệ thuật Việt Nam, Uyên ương xuất hiện phổ biến trong trang trí kiến trúc cung đình và chùa, tháp thời Lý-Trần, trong tư thế dang cánh đậu trên các viên ngói bò lợp mái. nhỏ|phải|Trứng đà điểu được người châu Phi và La Mã khai thác, sử dụng từ lâu Về mặt sử dụng trong kinh tế, các loài chim đã bị săn tìm thực phẩm từ thời Palaeolithic. Chúng đã bị bắt và nuôi như gia cầm cung cấp thịt và trứng từ ít nhất là thời Ai Cập cổ đại. Một số loài cũng đã được sử dụng để giúp xác định vị trí hoặc để tìm nguồn thức ăn, như với đánh cá bằng chim cốc và việc sử dụng mật ong. Các lông vũ từ lâu đã được sử dụng để làm giường, cũng như cho bút viết và cho các mũi tên. Ngày nay, nhiều loài đối mặt với sự suy giảm môi trường sống và các mối đe dọa khác do con người gây ra.

Nhờ có những tập tính đặc trưng, các loài chim đã trở thành đề tài lý tưởng để dùng làm minh họa và phép ẩn dụ. Cổ nhân Phương Đông cũng đúc kết: "Chim khôn tiếc lông, người khôn tiếc lời". Trong Kinh Thánh, nhiều câu đề cập đến loài chim giúp đúc rút ra nhiều bài học quan trọng về đời sống và mối quan hệ với Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, tộc trưởng Gióp nhận thấy các loài chim cho biết nhiều điều về công việc của Đức Chúa Trời "Khá hỏi... các chim trời, thì chúng nó sẽ bảo cho ngươi. Trong các loài nầy, loài nào chẳng biết rằng tay của Đức Chúa Trời đã làm ra những vật ấy?"-(Gióp 12:7, 9).

Có rất nhiều điều có thể học từ các loài chim khi quan sát chúng với phép ẩn dụ trong Kinh Thánh như hình ảnh chim én sẽ giúp quý trọng nhà của Đức Giê-hô-va, đặt hy vọng nơi Đức Chúa Trời hầu có thể cất cánh bay cao như đại bàng, đến với Chúa Giê-su để được bảo vệ như gà mẹ bảo vệ con mình, hình ảnh con cò nhắc luôn tỉnh thức trước các biến cố thế giới đánh dấu thời kỳ. Trong đời sống, thuật ngữ "chim" hay "cu" còn chỉ về bộ phận sinh dục nam (cùng với con rùa–quy đầu). Ngoài ra, có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ trong kho tàng dân gian của các dân tộc trên thế giới có liên quan hoặc ám chỉ về các loài chim chóc. nhỏ|phải|Đảng kỳ của Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (Miến Điện) với hình con công Loài chim còn xuất hiện trên Quốc kỳ nhiều nước cũng như cờ hiệu của các địa phương, Đảng kỳ của các chính đảng. Quốc kỳ của Cộng hòa Dominica có hình ảnh một chú vẹt làm trung tâm, đây là loài vẹt đặc hữu của quốc gia này, đang trong tình trạng cần được bảo tồn. Quốc kỳ của Papua New Guinea có hình ảnh chim vàng cách điệu, loài chim được cho là đến từ thiên đường, đã trở thành biểu tượng mang ý nghĩa văn hóa đặc trưng của quốc gia này. Cánh chim thần đại diện cho tự do của quốc gia khi giành được độc lập.

Một số tỉnh thành ở Việt Nam đã sử dụng biểu tượng loài chim trong thiết kế logo nhằm gợi nhắc về những điểm nổi bật của tỉnh. Đối với Đồng Tháp, tỉnh có số lượng sếu đầu đỏ lớn nhất cả nước, sếu đầu đỏ chính là biểu tượng của vùng đất nơi đây. Logo tỉnh Đồng Tháp sử dụng hình ảnh sếu đầu đỏ đang múa, sếu đầu đỏ còn là biểu tượng của lòng chung thủy cũng như tình yêu bền vững, ý nghĩa của logo này nhằm thể hiện sự thanh bình, thịnh vượng, môi trường thiên nhiên trong lành. Logo tỉnh Khánh Hòa sử dụng hình ảnh chim yến, ý nghĩa hình ảnh logo chim yến biểu trưng cho vùng biển Nha Trang-Khánh Hòa. Chim yến là loài chim rất phổ biến trên các đảo nhỏ ở Việt Nam.

Đây là loài chim có rất nhiều tập tính tốt đẹp như trung thành, có sự nhạy cảm và độ cảnh giác cao, chúng có thính giác và ngửi mùi tốt, bay rất nhanh và không đậu. Ở Việt Nam, chim yến sinh sống nhiều nhất ở Khánh Hòa. Logo tỉnh Quảng Nam sử dụng hình ảnh chim phụng Chim phụng (hay Phượng hoàng) là một loài chim truyền thuyết trong văn hóa dân gian Việt Nam. Loài chim này có ý nghĩa tích cực, biểu thị cho đức hạnh, sự duyên dáng và thanh nhã. Đồng thời, nó còn biểu thị cho hòa bình và thịnh vượng của mỗi đất nước. Ý nghĩa của hình ảnh này nhằm biểu trưng cho truyền thống hiếu học của mảnh đất "Ngũ Phụng Tề Phi" vì Quảng Nam đã có 5 người đỗ tiến sĩ, phó bảng trong cùng một khoa thi. Phần đuôi chim phụng được cách điệu thành dòng sông Thu Bồn chảy dài xuyên suốt đất xứ Quảng.

Trong quan niệm

Các loài chim đã được xem như một biểu tượng, và được sử dụng như vậy, mặc dù nhận thức của các loài chim khác nhau trên khắp các nền văn hoá, một số loài chim có một hình ảnh tích cực ở một số khu vực, một hình ảnh tiêu cực ở những tộc người khác. Những con cú được biểu đạt với sự may mắn, phép thuật, và cái chết ở các phần của châu Phi hoặc điềm xui xẻo ở Việt Nam nhưng được xem là biểu tượng của sự học giả, khôn ngoan (Wisdom) ở hầu hết người châu Âu, ở Mỹ và ngay nay là biểu tượng may mắn ở Nhật Bản. Nếu tự nhiên có một con chim Thanh Tước, loại chim cổ đỏ (Robin) bay vào nhà thì có nghĩa may mắn sẽ đến và xuất hiện con chim xanh (thanh tước) là báo may mắn tin vui.

Các nhà văn thiên nhiên như Mark Cocker và Richard Mabey, xem xét tình yêu của con người đối với chim, bọn họ cho rằng mọi người cảm thấy sự thân thiện của chim, được lấy cảm hứng từ họ để tạo ra nghệ thuật. Những cảm giác như vậy, lần lượt, đã kích thích ý định để bảo tồn chim và môi trường sống của chúng. Một nền văn học dân gian phong phú về chủ nghĩa biểu tượng đã xuất hiện quanh chim; Nó đã được ghi lại vào đầu thế kỷ XX như là một thứ đã biến mất khỏi ký ức. Các loài chim nói chung sẽ mang lại may mắn khi được đặt ở phía bên phải, đối mặt với hướng Nam căn phòng. Tuy nhiên, việc nuôi nhốt các loài chim trong lồng là không tốt cho phong thủy vì điều này biểu trưng cho sự kém tăng trưởng. nhỏ|trái|Một con chim khách bay vào nhà sẽ báo hiệu có khách đến thăm Người xưa thường quan niệm rằng, hiện tượng chim bay vào nhà hoặc rắn bò vào nhà không phải ngẫu nhiên mà đều mang một ý nghĩa nào đó, người xưa thường nói "Đất lành chim đậu" nên trong quan niệm dân gian, đa số các loài chim vào nhà bay lượn, làm tổ hay kêu hót cũng đều được tin là điềm báo tốt, sẽ mang lại thuận lợi, may mắn và phước lành cho gia chủ cùng các thành viên trong gia đình do đó, người xưa tin rằng chim bay vào nhà báo hiệu điềm tốt lành. Tuy nhiên vấn đề chim bay vào nhà sẽ thay đổi tùy từng loại chim. Khi nói đến điềm báo thì quen thuộc nhất là tiếng chim, mỗi loài chim sẽ có những điềm báo với ý nghĩa khác nhau.

Theo truyền thuyết, các loại chim mang lại điều tốt lành cho gia đình gồm chim gõ kiến, con công, thiên nga, vịt trời, chim cút, chim cu, chim én, chim khách, chim sẻ. Trong đó, nếu thấy chim sẻ hay chim khách bay vào nhà nhảy nhót hay kêu trên mái nhà là điềm báo gia đình sắp có tin vui hoặc sắp có khách tới thăm, người ở xa đến vì người ta tin rằng chim khách kêu là báo trước nhà sẽ có khách đến thăm. Trong hội họa Trung Hoa có kiểu tranh Thập toàn báo hỉ (十全報喜) vẽ mười con chim khách đậu trên phiến đá và trên cây tùng hót líu lo báo tin mừng vì chim khách được tin tưởng là báo điềm lành nên tục gọi nó là "hỉ tước" (喜鵲).

Dân gian có câu "chim sa, cá nhảy" để ám chỉ những điều xui xẻo nếu gặp phải hiện tượng này hiện nay chưa có một cơ sở nào để giải thích cho việc xui xẻo do "chim sa, cá nhảy" gây ra Trong văn hóa Jrai, loài chim giữ vai trò quan trọng trong nghi thức cúng tế, chim được nhìn như biểu tượng hình ảnh của thế giới bên kia sự sống con ngưòi và nhất là trong kho tàng truyện dân gian chim mang nhiều vai trò và ý nghĩa khác nhau.

Trong các loài vật, chim được người Jrai coi như một sinh vật thuộc về thế giới thần linh, có những liên hệ với xứ sở của thần linh (yang) được người Jrai hiểu là ở trên cao, trong bầu trời nơi chỉ có chim muôn có thể đến được hay ở hướng mặt trời mọc. Theo truyền thuyết Jrai ngọn núi linh thiêng H’Grông (Hdrung) vốn được coi là trung tâm của mặt đất (tơsăt tơnah) là nấm mồ (pơsat) của hai con chim được đắp thành bởi thần linh (yang hay dàng), con trống bay đến mỗi ngày từ hướng mặt trời mọc, hướng thuần dương của sự sống con người và thần linh và con mái từ hướng mặt trời lặn, hướng của cỏi thế người chết, để rồi cả hai cùng rớt xuống cùng một nơi tạo thành nấm mồ lớn. nhỏ|trái|Tượng chim Tring trong nhà mồ của người Tây Nguyên Với người Jrai chim thuộc về thần linh hay một sức mạnh vô hình siêu nhiên, hình ảnh chim luôn phản ảnh, biểu trưng một thế giới khác với thế giới con người, qua chim con người gởi gắm ý nguyện của mình đến những thế giới siêu nhiên trong các nghi thức cúng tế, với chim con người an tâm vì cảm thấy có thần linh hiện hửu đồng hành cùng mình và nhờ vào chim con người nhận được những sứ điệp của thần linh, chim là hình ảnh ví von tinh tế đầy tính Jrai để diển tả vẻ kiều diễm của các cô gái hay sự oai hùng can đảm của những chàng trai, những nét đẹp sáng ngời người ta chỉ có thể tìm thấy nơi thần linh.

Truyện kể dân gian Jrai là những câu truyện cổ tích tưởng tượng mang tính ẩn dụ mà còn như một niềm tin tín ngưỡng, con chim trong truyện dân gian là hình ảnh của thần linh đến sống cùng con người. Chim giúp con người vượt qua những khó khăn, những tai ương trong cuộc sống đời thường cũng như trong quan hệ với thế giới các hồn ma. Trong hình dáng chim các cô gái sống trên xứ sở thần linh đến với con người và sống chung với con người để sau đó giúp con người vượt qua những tai nạn, những áp bức của những ông phú hộ gian ác.

Con người muốn lên đến xứ sở của thần linh phải dùng đôi cánh để bay lên, hình ảnh chim trong truyện dân gian là cầu nối giữa thế giới con người và thế giới thần linh, hình ảnh chim được ví như trục thẳng đứng nối kết trời, nơi các thần linh cư ngụ với đất nơi con người sinh sống và được chim quạ tiếp tục nối kết thế giới con người với thế giới hồn ma, thông qua chim con người gần gủi và có thể vươn tới gần thế giới thần linh hơn, nhờ chim con người biết được ý muốn của thần linh hay của thế giới người chết. Chim xuất hiện trong các nghi thức cúng tế thần linh của người Jrai.

Để biết ý muốn của thần linh người Jrai thường dùng cách cầu bói bằng tiếng chim kêu (kroi čim). Khi có ý định dời làng sang một nơi khác hoặc khi muốn đi xa, làm một việc quan trọng người Jrai thường dùng cách bói này để biết thần linh có đồng ý hay không, người ta ra khỏi làng đến bìa rừng và khấn xin, báo, nếu nghe tiếng chim bồ chao (čim blang) hay chim Ch'rao kêu phía trước mặt, đó là điềm tốt. Nếu chim kêu bên trái thì cần suy nghĩ lại, nếu chim kêu bên phải thì làm ("iau biă, nuă mut" hoặc "gah iau po ta gah nuă po arang"), nếu chim kêu phía sau lưng thì bỏ ý định, thực tế thì loài chim bồ chao (Garrulax perspicillatus) thường sống ven bìa rừng, lúc nào người ta cũng có thể nghe tiếng chúng kêu inh ỏi khi thấy có một sinh vật chuyển động trong tầm nhìn của chúng.

Với những người pơjâo déng (thầy cúng bắn đạn) dưới mắt của họ mỗi con người sống là một con chim bay trên trời, họ dơ tay nhắm bắn vào những con chim này, một con chim bị trúng đạn là một người bị ngã bệnh, gia đình phải tìm thầy cúng (pơjâo) để rút mầm bệnh ra hay đúng hơn rút đạn của pơjâo déng đã bắn trúng. Dưới mắt hồn ma (atâu) con người là chim như trong những câu chuyện dân gian truyền kể. Chim còn là phương tiện để con người đạt được những khả năng siêu việt. Người Jrai tin rằng khi thấy xác con chim pôt (là giống chim màu vàng, có tiếng kêu koc koc đều đều) chết thì người ta liền vạch mỏ chim găn một que nhỏ ngang qua và chôn nó sau đó cắm trên nấm mồ chim nhiều que cây được cắm kèm theo lời ước nguyện của người chôn. Sau vài ngày người chôn chim đến quan sát trên nấm mồ, nếu thấy nơi que cây nào có mọc lên một mầm cây, có nghĩa là ơn xin kèm theo cây đó được chấp thuận.

Trong thơ ca

Trong thi ca, định danh chim trước tiên có thể xuất hiện như một cách nói chung chung bởi không chỉ rõ một loài cụ thể nào. Thế nhưng ngay cả trong cách dùng chung chung này vẫn thấy những tư duy ẩn dụ và liên tưởng khác hẳn nhau, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh. Trường hợp những loài chim với tên gọi cụ thể xuất hiện trong thi ca, ở Việt Nam cũng có tới 848 loài chim thuộc 88 họ nhưng khi đi vào thơ ca, chỉ có một số loại chim được lựa chọn. Sự lựa chọn ấy gắn với tư duy thẩm mỹ, thi pháp của từng thời kỳ cũng như những đặc điểm về văn hóa truyền thống quy định và tạo nên, những loài chim được đưa vào thi ca của người Việt nhiều nhất là cò, họa mi, sơn ca, én (nhạn), sáo và bồ câu. nhỏ|phải|Một con chim sơn ca, chúng xuất hiện nhiều trong thi ca, âm nhạc Một số loài chim đặc biệt khác dù chỉ xuất hiện một lần trong thi ca nhưng đã nhanh chóng tạo được những ám ảnh nghệ thuật, khắc sâu vào trí nhớ người đọc: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản (Thôi Hiệu), Anh là chim bói cá/Em là ánh trăng tà/Cách nhau một mặt hồ/Mà muôn trùng chia xa; hay "như loài chim bói cá" (Khúc thụy du). Một loài chim của mùa xuân là chiền chiện cũng đi vào thi ca và những lời thơ tiếp tục được âm nhạc chắp cánh: "Ôi con chim chiền chiện/Hót chi mà vang trời/Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay hứng về", "Bay cao bay vút/Chim biến mất rồi/Chỉ còn tiếng hót/Làm xanh da trời" (Con chim chiền chiện–Huy Cận).

Những câu thơ về con chim nói chung như nói về chim trong lồng nhưng trong lời cô gái ở bài ca dao thì là một sự an bài, một nỗi ngậm ngùi buồn thương về một sự đã rồi, không thể thay đổi: "Bây giờ em đã có chồng/Như chim vào lồng như cá mắc câu/Cá mắc câu biết đâu mã gỡ/Chim vào lồng biết thuở nào ra", còn hình tượng chim trong lồng trong bài thơ của Nguyễn Hữu Cầu là một khí thế khác vì người anh hùng khi sa cơ: "Mặc bay đông ngữ tây đàm/Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung/Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán/Phá vòng vây làm bạn kim ô/Giang sơn khách diệc tri hồ".

Có những cánh chim xuất hiện trong sự mệt mỏi cô đơn, rợn ngợp trong không gian rộng lớn và lòng người dường cũng nương theo nỗi buồn mênh mang hoặc những âu lo dự cảm, những cánh chim cô đơn, mỏi mệt và u buồn: "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi", hay "Chử thanh sa bạch điểu phi hồi (Bến trong cát trắng lượn chim cồn)", hay câu: "Chim hôm thoi thót về rừng", hay "Con chim bạt gió lạc loài kêu thương". Những cánh chim cô đơn và rợn ngợp được gặp lại nhiều trong thời kỳ Pháp thuộc với nỗi buồn u uẩn của nhiều nghệ sĩ lãng mạn: "Chim nghe trời rộng giang thêm cánh", hay "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa", hay "Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời/Cùng mây xám về ngang lưng trời".

Hình tượng chim cũng biểu hiện một tình yêu thiên nhiên cuộc sống của người thi sĩ, như: "Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá/Rừng tiếc chim về ngại phát cây", hay câu thơ "Núi láng giềng chim bầu bạn/Mây khách khứa nguyệt anh tam". Có nhiều những cánh chim đi vào thi ca với những giá trị biểu cảm tích cực, thể hiện tình yêu tự do, vẻ đẹp cuộc sống hoặc khát vọng cống hiến: "Tôi như con chim đang bay trên đồi cao", nói về ý nghĩa của sống: "Ta làm con chim hót/Ta làm một nhành hoa", hay câu: "Nếu là con chim chiếc lá/Thì con chim phải hót chiếc lá phải xanh" (Tố Hữu), "Có chú chim từ mờ sương hay hót véo von nghe véo von". Có những câu thơ tài hoa của một đời thơ gắn với chim, như Khương Hữu Dụng trong trường ca Từ đêm mười chín: Một tiếng chim kêu sáng cả rừng. Những cánh chim yêu thương trong ca khúc Cho con của Phạm Trọng Cầu, trong ca khúc này, cánh chim xuất hiện ngay từ câu đầu của bài hát trong tình cảm của người cha và cánh chim ấy cũng kết thúc ca khúc khi gắn với hình ảnh người con khôn lớn trưởng thành vẫn mãi hướng về quê hương và cha mẹ: "Ba sẽ là cánh chim cho con bay thật xa/Rồi mai đây khôn lớn bay đi khắp mọi miền, con đừng quên con nhé ba mẹ là quê hương", con gà đôi khi cũng đồng nhất với gái mại dâm (gà móng đỏ)

Ở Hàn Quốc, người ta tin rằng gà trống hiểu rõ về thời gian và là biểu tượng của sự bắt đầu một niềm hy vọng mới hay điềm báo một điều tốt lành. Khi con gà cất tiếng gáy, mọi điều xấu xa, đen đủi đều tan biến. Gà trống là họa tiết quen thuộc trên mái nhà của các cung điện cổ xưa. Trong lễ cưới ở Hàn Quốc, không thể thiếu một đôi gà được bọc bằng vải xanh và vải đỏ đặt ở bàn cưới. Hôn nhân cũng là một chặng đường mới của mỗi một người. Bởi vậy, gà trống với tiếng gáy vang xa báo hiệu một ngày mới, một khởi đầu mới tốt đẹp. Con gà mái hiền lành với niềm tin rằng gia đình sẽ đông con nhiều cháu. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với một xã hội nông nghiệp truyền thống. Gia đình mong rằng cô dâu mới sẽ có thể sinh nở thuận lợi, xây dựng một cuộc sống gia đình bền vững, hạnh phúc.

Ở Nhật Bản, gà được xem là con vật linh thiêng, hình ảnh của chúng gắn liền với những câu chuyện thần thoại. Đối với người Nhật, con gà trống là một loài vật linh thiêng. Người ta cho rằng tiếng gáy của gà trống khiến cho nữ thần Mặt Trời Amaterasu phải bước ra khỏi nơi ẩn náu, tỏa ánh sáng ấm áp muôn nơi. Khả năng chiến đấu của gà trống cũng là một biểu tượng cho sự dũng cảm trong khi đó việc báo hiệu bình minh lại biểu hiện sự đáng tin cậy (giống gà Shamo). Chính vì thế, Nhật Bản còn có riêng một lễ hội Gà trống với tên gọi "Tori no Ichi", thường diễn ra vào tháng 11. Vào thời kỳ Edo, lễ hội mang ý nghĩa cầu bình an, thịnh vượng, sung túc. Thế nhưng, trước đó, người Nhật Bản đã cúng gà vào dịp này với mục đích cảm tạ trời đất, thần linh đã giúp cho mùa màng bội thu.

Chim sẻ

nhỏ|phải|Một con chim sẻ nhỏ|phải|Một chú chim nhỏ Chim sẻ được nhắc đến nhiều trong nền văn hóa dân gian và tín ngưỡng. Hình ảnh chim sẻ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học. Thậm chí loài chim này còn được đề cập trong Kinh thánh. Ngày nay, chim sẻ vẫn được xuất hiện nhiều trong văn học. Chúng được mô tả như người bắt giữ linh hồn trong câu chuyện kinh dị, hoặc loài chim được yêu thích trong các áng văn thơ đậm chất trữ tình. Chim sẻ là đề tài cho các nhà thơ Hy Lạp–La Mã cổ đại và nhiều bản ghi chép tôn giáo.

Trong Kinh Thánh, chúng được đề cập đến như là thứ cúng dường mà những người dân nghèo dâng lên cho Thiên Chúa. Khi này chim sẻ được xem là biểu tượng của tấm lòng thành kính mà con người gửi đến Chúa. Ở một số ghi chép khác, chim sẻ chính là hóa thân của Thiên Chúa và tình yêu mà Ngài dành cho vạn vật. Matthew 10:29: "Không phải cả hai con chim sẻ được bán với giá một đồng tiền sao? Và không một chú chim nào rơi xuống đất từ Cha của bạn".

Chim sẻ là một trong những biểu tượng tình yêu trong thần thoại Hy Lạp. Đây là loài chim linh thiêng gắn liền với nữ thần tình yêu Aphrodite, nó tượng trưng cho một tình yêu đích thực và sự kết nối tâm linh mạnh mẽ nhưng chim sẻ lại không được gắn liền với những ham muốn thể xác. Tại thành Troy, 9 con chim sẻ bị rắn ăn thịt được xem là điềm báo trước cho 9 năm chiến tranh kéo dài ở nơi này. Trong văn hóa dân gian châu Âu, việc một con chim sẻ bay vào nhà được xem là một dấu hiệu dự báo cái chết sắp xảy ra. Khi này người ta nhất định phải bắt và giết chết nó, nếu không cha hoặc mẹ của họ sẽ chết, hoặc người bắt chim sẻ phải giết nó, nếu không người đó sẽ chết. Tuy nhiên, điều may mắn là chim sẻ rất hiếm khi bay vào nhà của người dân và không còn tin tưởng về điềm báo cái chết của chim sẻ.

Người Ai Cập cổ đại đưa hình ảnh của chim sẻ vào hệ thống chữ tượng hình của mình. Nó mang ý nghĩa là "nhỏ", "hẹp", hoặc "xấu xa" và chim sẻ là kẻ bắt giữ linh hồn của người đã khuất và đưa họ đến thế giới bên kia. Do đó, những người thủy thủ thường sẽ xăm hình chim sẻ trên người với hy vọng nếu như họ bỏ xác nơi biển khơi, linh hồn của họ sẽ được chim sẻ đưa sang thế giới bên kia. Tại Indonesia, việc một con chim sẻ bay vào nhà là điềm báo may mắn, và sẽ đặc biệt may mắn hơn khi nó làm tổ trong nhà, có thể một đám cưới sẽ sớm được diễn ra, hoặc người phụ nữ nhìn thấy chim sẻ trong ngày lễ tình yêu sẽ có được hạnh phúc sau khi kết hôn với một người đàn ông nghèo, tiếng kêu của chim sẻ được cho là sẽ mang đến những cơn mưa cho các cánh đồng khô cằn.

Chim Kơtia

nhỏ|phải|Tượng vẹt ở Đà Nẵng, vẹt chính là loài chim Kơ-tia ở Tây Nguyên Chim Kơtia/Ktiă theo tiếng người Kinh gọi chính là con vẹt hay con két, đây là loài chim thường kéo về vào mùa thu, mùa xuân, loài chim này gắn liền với cuộc sống sinh hoạt và đặc biệt là số lượng rất đông ở các buôn làng Tây Nguyên, đây cũng là là loài chim ám ảnh đối với mùa màng của bà con Tây Nguyên. Nhiều ngường thường đoán chim Kơtia là loài chim thân thiết với đồng bào Tây Nguyên nhưng Kơ-tia không phải loài chim đồng bào Tây Nguyên yêu mến mà ngược lại. Trước đây, Kơ-tia sống thành đàn rất nhiều, chúng có cách bay rất đặc biệt là kiểu vút lên cao rồi nghiêng cánh lao thẳng xuống đất, rất hùng dũng, đồng thời màu lông sặc sỡ khiến cánh lính trẻ thích thú và tạo nguồn cảm hứng thi ca. Mỗi lần nghiêng cánh là lúc chúng tìm thức ăn, mà Kơ-tia toàn ăn nông sản trên nương nên đồng bào không thích loài chim này, tìm đủ cách xua đuổi

Chim Kơ-tia đã gắn với hình ảnh "chim kơtia bay tới" Đắk Krông qua điệp khúc "Chim kơtia bay tới, nghiêng cánh chào Đắk Krông" (bài hát "Đắk-krông mùa xuân về"/nhạc sĩ Tố Hải), cái tên kơtia khá dễ nhớ và gắn liền với hai bài hát "Ơi chim Ktiă" của nhạc sĩ Y Sơn Niê và Đắk Krông mùa xuân về của nhạc sĩ Tố Hải. Việc ra đời cây đàn T’rưng cũng có liên quan đến loài chim kơtia, ngày xưa khi chưa có nhiều cách để đuổi chim khỏi nương rẫy, người dân tộc Ba Na và người dân tộc Jarai thường dùng cành khô gõ vào ống cây lồ ô, khi gõ mạnh thì phát ra âm thanh lớn khiến chim hoảng sợ bỏ đi. Rồi dần dần người ta phát hiện chất liệu âm thanh đặc biệt của dụng cụ đuổi chim này và chế tác nên cây đàn T’rưng.

Đối với người Ê Đê thì chim kơtia không phải là con vật linh thiêng mà ngược lại, người Ê Đê thường tìm cách bắt kơtia và coi đó là loài chim gây hại. Kơtia cũng không biết hót mà âm thanh loài chim này phát ra chỉ là tiếng kêu rất khó nghe, loài chim này gắn liền trong cuộc sống của người dân với hình ảnh con vật gây hại, thường bay từng đàn và kêu inh ỏi náo động ở những nơi chúng đi qua. Dù được coi là loài chim gây hại đối với dân trồng bắp lúa trên nương rẫy nhưng kơtia lại được người Kinh rất yêu thích vì có vẻ bề ngoài bắt mắt, mỏ cong vút, chân ngắn và lông màu xanh tươi, có màu sắc sặc sỡ, nếu sau một thời gian nuôi và chịu khó tập luyện, kơtia có thể nhái được một số tiếng người. Những chú chim sau khi đánh bẫy được buộc chân vào cành cây rồi chờ người đến mua, số chim người dân bày bán ở đường chính là chim kơtia.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
Trong văn hóa đại chúng, **hình tượng con thiên nga** mà đặc biệt là thiên nga đen và thiên nga trắng được nhắc đến nhiều trong dân gian, thần thoại và nghệ thuật. Hình ảnh
nhỏ|phải|Một con quạ đen Trong văn hóa, có nhiều mô tả và cách nhìn nhận về hình tượng **con quạ**, biểu tượng quạ trong văn hóa thế giới được sử dụng với những biến đổi
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Hình tượng con cò** trong văn hóa Việt Nam có ảnh hưởng sâu đậm trong tâm trí của người dân Việt Nam nhất là ở nông thôn. Cò là một trong những động vật gắn
nhỏ|phải|Một con chim cú trong đêm tối **Hình tượng chim cú hay chim lợn** gắn bó xuyên suốt chiều dài lịch sử loài người, từ Hi Lạp cổ đại đến văn hóa Châu Á và
nhỏ|phải|[[Sư tử được coi là vị vua của muôn loài, biểu tượng của Hoàng gia, Vương quyền, sự thống trị, sự can đảm và cao quý, biểu tượng trong nhiều tôn giáo lớn trên thế
nhỏ|phải|Một con rùa lớn, trong văn hóa, rùa biểu tượng cho vũ trụ, huyền cơ, sự trường thọ nhỏ|phải|Tượng rắn thần [[Naga, đây là hình mẫu mỹ thuật ở những nền văn hóa Ấn Độ
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
nhỏ|phải|Một con cá mập Những hình ảnh đại diện của các con cá mập rất phổ biến trong văn hóa đại chúng ở thế giới phương Tây với một loạt những sê-ri phim ảnh trên
nhỏ|phải|Đôi hạc vỗ cánh bay giữa không trung **Hình tượng loài chim hạc** ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa phương Đông và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng thanh cao. Hạc là con vật
**Chim bồ câu** (thông thường là loài bồ câu trắng) là loài chim biểu tượng của tình yêu, hòa bình và hạnh phúc hoặc như một vị sứ giả mang đến một thông điệp nào
**Hình tượng con cáo trong văn hóa** xuất hiện trong nhiều nền văn minh nhân loại. Sự đa dạng của các loài dạng cáo đã làm cho hình tượng của chúng hiện diện trong nhiều
**Con gà**, đặc biệt là **gà trống** hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó
Trong văn hóa đại chúng, hình tượng **con bò** được khắc họa trong nhiều nền văn minh lớn và gắn liền với tín ngưỡng thờ phượng xuất phát từ sự gần gũi và vai trò
nhỏ|phải|Những mô hình khủng long đầu tiên là [[Iguanodon và Mantellodon được đặt ở Crystal Palace, Luân Đôn vốn có từ thời Victoria, là những hình tượng sớm nhất về khủng long]] nhỏ|phải|Tượng khủng long
phải **Hình tượng con Cá** xuất hiện trong văn hóa từ Đông sang Tây với nhiều ý nghĩa biểu trưng. Đặc biệt con cá gắn liền với biểu tượng cho nguồn nước và sự no
nhỏ|phải|Con trâu lội trong đầm Trong nhiều văn hóa, hình tượng con **trâu** phổ biến trong văn hóa phương Đông và gắn bó với cuộc sống người dân ở vùng Đông Nam Á và Nam
nhỏ|phải|200x| Biểu tượng của [[NSA (Cơ quan tình báo Mỹ trực thuộc bộ Quốc phòng)]] **Hình tượng đại bàng** hoặc giống đại bàng được sử dụng trong các huy hiệu như hiệu lệnh, như là
nhỏ|phải|Trong nhiều nền văn hóa, nhện được [[Động vật hình mẫu|khuôn mẫu như những sinh vật đáng ghê sợ, là hiện thân của yêu tinh, quái vật]] Trong suốt lịch sử, hình tượng **con nhện**
**Cừu** vốn được biết đến nhiều ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là văn hóa phương Tây nơi những con cừu trở thành loại gia súc phổ biến nhất của ngành chăn nuôi.
phải|nhỏ|401x401px|"Hổ tọa" tác phẩm của Kishi Chikudo khoảng đầy thế kỷ XIX **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người.
nhỏ|phải|Một chú chim cánh cụt **Hình tượng chim cánh cụt** được phổ biến trên khắp thế giới bằng cơ thể ngộ nghĩnh, dễ thương, đáng yêu với dáng đi lạch bạch cùng khả năng bơi
Văn hoá truyền thống của Mông Cổ là văn hoá thảo nguyên tiếp biến qua nhiều năm lịch sử, do đó, hình tượng con ngựa luôn gắn bó với người dân du mục thảo nguyên.
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
thumb|phải|[[Gà lôi hông tía là quốc điểu của Thái Lan.]] **Các loài chim ở Thái Lan** bao gồm 1095 loài tính đến năm 2021. Trong số đó, 7 loài đã được con người du nhập
Tranh tường [[Ai Cập cổ đại về việc cày cấy và bắt chim, khoảng 2700 năm trước Công nguyên, hiện lưu giữ ở bảo tàng Ai Cập, Cairo, Ai Cập.]] **Văn hóa** (chữ Hán: 文化,
nhỏ|_[[Dancheong_, họa tiết trang trí ở Gyeongbokgung.]] nhỏ|Lễ hội đèn lồng hoa sen. Sự phân tách Triều Tiên thành hai chính thể: Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) và
**Sinh vật huyền thoại Trung Hoa** là những sinh vật (động vật) trong các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, huyền thoại và trong các tác phẩm văn học của Trung Hoa và có sự
nhỏ|phải|Bức họa của Raffael về Thiên Chúa và Bốn hình hài (Bốn con vật) **Bốn hình hài** (_Tetramorph_) hay còn gọi là **bốn sinh vật** là một sự sắp xếp tượng trưng của bốn (4)
**Văn hóa Đông Sơn** là một nền văn hóa cổ đã xuất hiện vào khoảng năm 800 Trước Công Nguyên, từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ
phải **Huy hiệu hoa bách hợp,** còn gọi là **hoa ly** (tiếng Pháp: _fleur-de-lis_ hoặc _fleur-de-lys_; nghĩa là "hoa loa kèn", "hoa huệ Tây") là một mẫu cách điệu (dựa vào hoa thật để tạo
nhỏ|phải|[[Hoa hồng đỏ|Bông hồng đỏ thắm tượng trưng cho tình yêu nồng nàn, cháy bỏng, lời tỏ tình lãng mạn. Từ những năm 1880, hoa hồng đỏ đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa
nhỏ|phải|Một [[con la, chúng là minh chứng cho việc hình thành loài mới thông qua quá trình lai giống khác loài giữa loài lừa và loài ngựa]] **Hình thành loài** (_Speciation_) hay **quá trình hình
nhỏ|phải|Bò trắng là sinh vật thần thoại trong [[Ấn Độ#Văn hoá|văn hóa Ấn Độ cũng như trong Phật giáo, người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo rất tôn sùng con bò và không giết mổ
**Sinh vật huyền bí trong bộ truyện Harry Potter** gồm rất nhiều sinh vật hư cấu được nhà văn J. K. Rowling sáng tạo ra với chủng loại, kích thước khác nhau trong đó có
nhỏ|phải|Đồ vật chạm khắc hình lợn rừng **Hình hiệu thú** (_Zoomorphism_) là các hình ảnh, họa tiết, hoa văn, đường nét, chạm khắc có thể mô tả cách điệu nghệ thuật tưởng tượng của con
nhỏ|phải|Biểu tượng chữ Vạn trong Phật giáo ở Nepal **Các biểu tượng may mắn** (_Lucky symbols_) là một số sự vật, hiện tượng, đồ vật, hình dáng hoặc các chỉ dấu, điềm báo mà khi
** Động vật biểu tượng ** (_Animal epithet_) là một tính ngữ (tên gọi, cụm từ) văn học được sử dụng để chỉ cho một người hoặc một nhóm cộng đồng hoặc sự vật, hiện
thumb|upright=1.65|Hamsa được cho là chỉ loài [[ngỗng đầu sọc có ở Ấn Độ (trái) hoặc một loài thiên nga..]] **Hamsa** (tiếng Phạn: हंस, _haṃsa_ hay _hansa_) là một loài chim nước di trú, thường được
**Việt Nam** là một trong những quốc gia có sự đa dạng lớn về hệ **chim**. Chim Việt Nam là nhóm động vật được biết đến nhiều nhất, chúng dễ quan sát và nhận biết
nhỏ|phải|Một con chim sấm trên cột vật tổ **Chim sấm** (_Thunderbird_) hay **Lôi điểu** là một sinh vật huyền thoại trong văn hóa và dã sử của người da đỏ bản địa ở Bắc Mỹ,
right|thumb|[[Valkyrie (thần thoại)|Valkyrie đang biến hóa thành những con thiên nga]] **Thú hóa** (_Therianthropy_ hay _Zoanthropy_) hay **hóa thú** là khả năng mang tính thần thoại siêu nhiên của con người có thể biến hóa
thế=Taylor Swift in a gold dress|nhỏ| Vô số các ấn phẩm và nguồn sách học giả đã xem [[Taylor Swift là nghệ sĩ âm nhạc có tầm văn hóa quan trọng nhất ở thế kỷ
MÔ TẢ SẢN PHẨMTINH DẦU NƯỚC HOA DUBAI CON CÔNG - PHƯỢNG HOÀNG TƯỢNG TRƯNG CHO #SỨC_MẠNH #SẮC_ĐẸP #MAY_MẮN #THỊNH_VƯỢNG Tinh dầu nước hoa dubai là một trong những thương hiệu nước hoa nổi tiếng
**Hồng** hay **hường** là tên gọi chung cho các loài thực vật có hoa dạng cây bụi hoặc cây leo lâu năm thuộc chi **_Rosa_**, họ _Rosaceae_, với hơn 100 loài với màu hoa đa
**Quốc hoa** là loài hoa biểu trưng cho một nước. Mỗi nước có những quy định về quốc hoa khác nhau. ## Danh sách quốc hoa ### Châu Á #### Trung Quốc Cộng hoà Nhân