✨Hình tượng con trâu trong văn hóa
nhỏ|phải|Con trâu lội trong đầm Trong nhiều văn hóa, hình tượng con trâu phổ biến trong văn hóa phương Đông và gắn bó với cuộc sống người dân ở vùng Đông Nam Á và Nam Á, đặc biệt là trong nền văn hóa Việt Nam. Trong văn hóa phương Đông, trâu là một trong 12 con giáp gọi là (Sửu) ở vị trí thứ hai, đồng thời là gia súc đứng đầu lục súc (gồm trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn), trâu có vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước. Trâu là con vật dùng vào việc lễ tế thần thánh. Trâu sinh sống phổ biến ở châu Phi, châu Á, nhưng hiếm gặp ở châu Âu, Trung Đông và châu Mỹ nên hình tượng trâu trong mỹ thuật và văn hóa chủ yếu xuất hiện ở Ai Cập, Ấn Độ, Đông Bắc Á, Đông Nam Á.
Dù có những hình thức thể hiện khác nhau, nhưng hình tượng trâu ở các nền văn hóa đều có những điểm chung. Trước hết, con trâu là biểu hiện cho sức khỏe vì là vật nuôi lấy sức cày kéo trong nông nghiệp. Nó tượng trưng cho sự chắc chắn, đức tính trung thành, hiền lành và cần cù, chất tích cực, chăm chỉ và thật thà. Ở nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, con trâu được người nông dân coi như bạn thân. Từ khi được thuần hóa, trâu là một trong những con vật rất gần gũi với con người. Hình ảnh con trâu siêng năng, cần cù gắn liền với lũy tre làng thể hiện một nét văn hóa Việt và là một biểu tượng không chính thức của Việt Nam, nó còn là vật gắn bó nghĩa tình, bầu bạn với người nông dân, là biểu tượng, thước đo sự giàu-nghèo, sang-hèn.
Trong suốt chiều dài lịch sử của nền văn minh lúa nước ở Việt Nam, con trâu hiền lành, chịu thương chịu khó đã trở thành người bạn của nhà nông, vẫn là con vật tham gia trong nhiều công đoạn làm ruộng, từ cày vỡ, cày ải, cày đánh luống đến bừa vỡ, bừa kĩ, bừa trang luống và con trâu đi trước cái cày theo sau đã thành một trong những hình ảnh biểu trưng về cảnh làm ăn của người nông dân Việt Nam, Ngoài ra, những câu ca dao như “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” vẽ nên bức tranh về đồng quê Việt Nam vào mùa vụ. Qua mùa cày cấy, trâu lại làm cái việc kéo xe, vận chuyển những nguyên vật liệu cần thiết cũng như chuyên chở thành quả lao động sau khi thu hoạch.
Sau những lúc làm nông, hình ảnh chú trâu đủng đỉnh gặm cỏ trên đồng, trên lưng trâu vắt vẻo mục đồng thổi sáo là hình ảnh của phong cảnh bình yên, nên thơ và lãng mạn của làng quê Việt. Hơn nữa, hình ảnh con trâu kéo cày trên ruộng lúa, gặm cỏ, hay đầm mình trong vũng nước là hình ảnh quen thuộc, gợi lên cảm giác thị vị thanh bình của miền quê Việt Nam. Con trâu là hình ảnh của bản chất hiền lành, cần cù của con người Việt, biểu tượng cho sức khỏe lực điền và tri thức về loài vật của người Việt về con trâu là có sớm nhất, hình ảnh con trâu được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần từ hàng ngàn năm, Đông y dùng răng trâu (“ngư xỉ”), nước dãi trâu (“ngưu khẩu tần”), sỏi mật, sạn mật của trâu “ngưu hoàng” sao chế làm những vị thuốc trị bệnh. Bác sĩ người Anh Edward Jener thí nghiệm đầu tiên năm 1796 cấy vaccin trên trâu thành công để chống bệnh đậu mùa.
Trong văn hóa châu Á
nhỏ|phải|Một con trâu kéo xe ở Nhật Bản Theo cách phân chia thời gian năm tháng ở châu Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa thời xưa, con Trâu cũng là một biểu tượng cho một năm Theo quan niệm từ xưa tới nay người nào sinh vào năm của hàng Địa-Chi hay hàng Thập Nhị Can Chi thì mang tuổi thuộc con vật đó. Trong 12 địa chi (thập nhị chi), trâu mang pháp danh là Sửu, đứng hàng thứ hai sau Tý, 12 con vật được đứng trong sách lịch pháp trên nay là đại diện cho các loài. Về tính âm dương, 12 con vật được chia xếp thành hai cực âm và dương đứng đan xen nhau, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm và có tính ôn hòa.
Tính theo âm dương, 12 con giáp được chia thành hai cực âm và dương, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm, Sửu trong địa chi (thập nhị chi) được kết hợp với: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý nên chỉ có những năm Sửu là: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu và Quý Sửu. Sửu dùng để chỉ thời gian từ một giờ tới ba giờ sáng (đêm năm canh ngày sáu khắc). Người phương Đông đã tìm thấy và đặt tên cho bốn chòm sao, gồm 28 ngôi sao chính gọi là nhị thập bát tú, trong đó có sao Ngưu thuộc chòm sao Huyền Vũ nằm ở phương Bắc, ứng với hành thủy, thuộc về mùa Đông. Theo quan niệm của người phương Đông thì sao Ngưu, sao Đẩu là những ngôi sao sáng và thường được ví với những người có trí tuệ trác việt.
Trong các tôn giáo phương Đông, trâu thường được sử dụng như một ẩn dụ cho quá trình tu tập, vượt qua khó khăn để đạt đạo. Nó là vật cưỡi của Lão Tử, sau khi truyền đạo xong, ông cưỡi trâu đi về hướng Tây và biến mất. Đạo Phật cũng có nhiều sự tích liên quan đến trâu. Người ta cho rằng, trong thời gian 49 ngày thiền định của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ông đã được thôn nữ Sujata dâng cúng cháo sữa trâu và nhờ đó sức khỏe được hồi phục nhanh chóng. Phật giáo Thiền tông có bộ tranh kệ nổi tiếng là Thập mục ngưu đồ (Mười bức tranh chăn trâu), tương ứng với 10 bước tu đạo: Tìm trâu, Thấy dấu, Thấy trâu, Bắt trâu, Chăn trâu, Cưỡi trâu về nhà, Quên trâu còn người, Người và trâu đều quên, Trở về nguồn cội, Thõng tay vào chợ. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung thì coi con trâu đất chính là Phật, bậc cao nhân ấy đã tìm thấy ở con trâu những đặc trưng phù hợp với đạo lý sâu xa của mình.
Tại Hàn Quốc, con trâu có vị trí vững vàng trong văn hóa, hình tượng con trâu được phác họa với những ý niệm tích cực của lòng vị tha, trắc ẩn và trung thành, bởi mối gắn kết lâu dài với con người, nhiều câu chuyện xa xưa kể về các gia đình phải bán trâu làm lộ phí cho con đi học và con trâu được coi là tài sản giá trị nhất của người nông dân. Hình ảnh con trâu cũng quan trọng với văn hóa Nhật Bản, con trâu được đưa vào thơ ca hay những tác phẩm điêu khắc, con trâu còn là một biểu tượng tôn giáo, được thờ cúng và xính mừng trong nhiều dịp lễ vì theo người Nhật thì con trâu có mối liên kết khá chặt chẽ với đạo Phật, hiện thân của con trâu trong Phật giáo Nhật Bản bắt nguồn từ Đạo giáo và bản tính của trâu hiền lành, siêng năng, nhẫn nại, tượng trưng cho tính thiện, bản chất của chúng sinh với niềm tin rằng ai cũng có thể được giác ngộ.
Với người Trung Quốc, con trâu cũng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của họ trên nhiều phương diện văn học, hội họa, ca dao, tục ngữ, phong tục. Người ta quan niệm trâu là thánh vật nên thường dùng làm vật tế lễ, là biểu tượng cho cầu nối giữa trời và đất, người và tiên để cho thần tiên ban phước lành cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân gian an bình. Trâu còn được coi là tượng trưng cho sự tốt lành, ai mơ trâu vàng đến nhà là điềm phú quý, cưỡi trâu vào thành là có hỉ sự, trâu sinh nghé là tâm thành ý nguyện.
Trâu còn biết đến trong tín ngưỡng như: Đầu trâu, mặt ngựa (Ngưu đầu, Mã diện-牛头-马面) là hai sinh vật thuộc hạ của Diêm Vương chuyên thực hiện việc hành hạ, tra tấn kẻ có tội ở địa ngục, trong hoàn cảnh văn hóa Hán thì tả cảnh hai con vật trâu, ngựa thuộc hạ của Diêm Vương, điều này cũng khá gần gũi trong quan niệm tín ngưỡng của người Việt Nam, khi những sứ giả “đầu trâu mặt ngựa”, giám hộ của Diêm Vương, thường dẫn lối người chết xuống âm phủ. Trong Tây Du Ký có nhân vật Ngưu ma vương là vua của các loài trâu (thực ra nó Ngưu Ma vương là con bò).
Ngoài ra còn có truyền thuyết Ngưu lang Chúc nữ với chiếc cầu Ô Thước (Ô là con quạ, Thước là con chim Khách) kể Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một tiên nữ dệt vải tên là Chức Nữ, nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần trên cầu Ô Thước vào đêm mùng 7 tháng Bảy. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc, nước mắt của họ rơi xuống trần gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu: Mồng bảy tháng bảy mưa Ngâu/Con trời lấy chú chăn trâu cũng buồn.
Theo truyền thuyết trâu đã giúp vua Vũ nhà Hạ trị thủy. Thời Chiến Quốc, có Tử Đồi là con vua Chu Trang Vương nuôi hàng trăm con trâu cho ăn gạo thóc, mặc gấm vóc, lại có kẻ hầu người hạ. Họ ca ngợi nghề chăn trâu của những Sào Phủ, Nịnh Thích. Trên đồ đất nung từ thời Thương Chu đã có hoa văn hình trâu. Đời Tiền Hán có nhiều tượng trâu bằng đồng, nhất là vùng Vân Nam Theo truyền thuyết thì trâu biểu hiệu sự sống lâu. Lão Tử soạn Đạo Đức Kinh khi về già nhận thấy chính sự của vương quốc đang tan rã đã cưỡi trâu xanh đi về hướng Tây qua đồi núi đến nước Tần và từ đó mất dạng. Có bức tranh vẽ nhà hiền triết Lão Tử cưỡi Trâu xuyên khắp cánh đồng đi về hướng Tây. nhỏ|phải|Tượng Lão Tử cưỡi trâu Trâu còn là vật cưỡi của viên tướng Hoàng Phi Hổ. Quân sư Tôn Tẩn thường ngồi xe, còn có giai thoại ông cưỡi trâu ra trận. Lịch sử Trung Quốc còn nhắc về "Hỏa ngưu kế" (Ngưu chiến), thời chiến quốc cũng có ghi lại chuyện Điền Đan dùng hỏa ngưu kế đánh bại quân địch, khi Điền Đan khi bị quân Yên vây thành, nhờ thu trong thành được hơn một nghìn con trâu, lấy vải quấn lên mình trâu, vẽ vằn rồng ngũ sắc, buộc mũi nhọn ở đầu sừng, cột cỏ khô, bông lau tẩm dầu mỡ vào đuôi như một cái chổi lớn. Sai dân chúng đào thành mấy chục chỗ làm hang, ban đêm dồn trâu chui qua hang ra ngoài thành rồi đốt những bó cỏ sau đuôi trâu, đuôi trâu cháy nóng, trâu nổi điên xông vào quân Yên, cùng năm ngàn binh sĩ phá trại quân đối phương khiến quân Yên thua trận.
Trong thời kỳ Tam Quốc, ở lần Lục xuất Kỳ Sơn, thừa tướng Gia Cát Lượng đã xem trong binh pháp dùng “mộc ngưu lưu mã” mà chế ra những con trâu gỗ, ngựa máy và chế tạo và sử dụng sử dụng Trâu gỗ, ngựa máy để vận chuyển lương thảo cho quân Thục, khi gắn cái lưỡi vào thì trâu gỗ cử động để vận chuyển lương thực trong thời gian đánh với Tư Mã Ý. Khi Tào Tháo vượt qua sông vị bỗng bị Mã Siêu đuổi theo khiến Tào Tháo bị nguy kịch dù tướng Hứa Chử hết lòng bảo vệ. Đứng trên núi viên tri huyện Vi Nam là Đinh Phỉ bèn sai lính mở cổng trại thả hết trâu ra. Quân Mã Siêu đua nhau cướp trâu, quên việc đuổi đánh, thành ra Tào Tháo được trâu thế mạng và thoát nạn.
Nhiều địa phương trên đất nước Trung Quốc vẫn duy trì tục trâu xuân, người ta đắp hình con trâu bằng đất hoặc làm bằng giấy cao 4 thước, dài 8 thước, tượng trưng cho 4 thời trong 8 tiết. Con trâu mô hình này được rước rất long trọng kèm theo các hoạt động vui chơi như ca hát, múa, rước đèn lồng gọi là xuân ngưu (trâu mùa xuân), sau đó lấy roi vừa quất vào nó vừa đọc lời chúc an lành. Các dân tộc thiểu số khác còn tổ chức nhiều lễ như lễ Ngưu vương, cúng Ngưu vương để cầu con, phòng bệnh, đuổi tà ma. Mỗi dân tộc ở Trung Quốc lại có cách thức, nghi lễ liên quan đến con trâu khác nhau như:, con trâu vừa là công cụ sản xuất, sức kéo, vừa là bạn của nhà nông đã đi vào ca dao tục ngữ trở thành hình ảnh đẹp đẽ gắn bó với con người.
Người nông dân sử dụng trâu vào mục đích cày kéo (cày ruộng, kéo xe, kéo mật, kéo gỗ) sinh sản, nuôi lấy thịt, nuôi làm vật cúng tế (lễ đâm trâu), làm vật thi đấu (chọi trâu). Thời nhà Lý-nhà Trần, với chính sách trọng nông, khuyến nông, Nhà nước phong kiến rất quan tâm tới việc bảo vệ nguồn sức kéo. Năm 1123, vua Lý Nhân Tông xuống chiếu nhắc nhở: Trâu là con vật quan trọng cho việc cày cấy, lợi cho người. Từ nay cấm không được giết trâu ăn thịt. Ai làm trái thì trị tội theo pháp luật. Luật Hình như (thời Lý), Hình luật (thời Trần) đều có những điều khoản cụ thể quy định hình phạt về tội ăn trộm và giết hại trâu bò, những nhà láng giềng biết mà không tố giác cũng bị trừng phạt Con Trâu Vàng được chọn làm linh vật của Sea Games 22 tổ chức tại Việt Nam năm 2003, biểu tượng vui của SEA Games 22 được đặt tên là Trâu Vàng, với bản chất hiền lành, hoà đồng và chăm chỉ, hình ảnh con trâu gần gũi, thân mật với người dân trong nền văn minh lúa nước của Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Trâu Vàng (còn gọi là Kim Ngưu) gắn với sự tích Hồ Tây ở Hà Nội, Trâu Vàng tượng trưng cho ước vọng về mùa màng tốt đẹp, ấm no, hạnh phúc, sức mạnh và tinh thần thượng võ của người Việt. Y nghĩa của truyện cười “Trí khôn của ta đây” lý giải đặc trưng của hai loài vật, hổ có da màu vàng, có vằn (vì bị đốt) còn trâu chỉ có một hàm răng (vì cười nhiều). Ngoài chủ đề ca ngợi “trí khôn” của người còn cho thấy trâu là bạn bè thân thiết, tin cẩn của nhà nông Trên đồng tiền Đông Dương thời thuộc điạ của Pháp, cũng như tiền của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam đều in hình con trâu, đến thời kỳ CHXHCNVN trên tờ tiền vẫn có hình con trâu.
Hình con trâu chạm khắc khá phổ biến ở những đình, miếu cổ xuất hiện từ lâu đời, trâu còn xuất hiện trong điêu khắc kiến trúc gỗ đình làng thế kỷ XVII-XVIII ở Bắc Giang. Đình Khả Lý Hạ, xã Quảng Minh (Việt Yên) được xây dựng từ thế kỷ XVII, trong đình còn lưu giữ bức chạm hình con trâu được chạm nổi trên cốn nách gian giữa. Tại nghè Mẫu Sơn (Lục Nam) cũng còn lưu giữ bức chạm trâu kéo cày. Đây là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian ở thế kỷ XVIII tổng thể bức chạm giống như một bức tranh “Canh nông chi đồ”. Trên mặt trống đồng Bắc Lý (Hiệp Hòa) có chạm khắc cảnh lễ hội đâm trâu của người Việt cổ. Ngoài các bức chạm hình trâu trên kiến trúc đình làng, trong dân gian còn xuất hiện nhiều tượng ông trâu bằng gốm thế kỷ XVII-XVIII, một sản phẩm của làng nghề truyền thống sản xuất gốm ở Thổ Hà, xã Vân Hà xưa.
Nhiều đình chùa đã chạm khắc và tạc tượng trâu, đó là tượng trâu bằng đá ở chùa Kim Ngưu (Bắc Ninh). Thời nhà Lý, chùa Phật Tích (Bắc Ninh) được xây dựng năm 1057 có cặp tượng trâu to bằng trâu thật, tạc trên đài sen ở sân chùa khá sống động, bài hát của thiếu nhi Cánh Đồng Tuổi Thơ của ông qua lời ca về đồng lúa và con trâu: Ngồi dưới áng mây trời bay ngang/Còn con trâu nghé thì lang thang; Bài hát Con Đường Việt Nam, tác phẩm chung của hai nhạc sĩ Anh Bằng và Trúc Hồ nói về khung cảnh miền quê Việt Nam có bóng dáng con trâu gặp cỏ đường chiều, một vài em bé vui chơi thả diều.
Trong tín ngưỡng
nhỏ|phải|Tác phẩm điêu khắc gỗ "Trâu kéo cộ" ở [[chùa Hang thuộc Trà Vinh, Việt Nam]] Giống như một số loài động vật quen thuộc gồm: chuột, hổ, mèo, rắn, ngựa, dê, lợn, chó hàng ngàn năm qua, con trâu đã được con người “thiêng hóa”, “linh hóa”. Con trâu được người Việt “thiêng hóa” đậm nét qua nghi thức cày tịch điền là một hình thức khuyến nông đặc biệt của các cư dân trồng lúa nước. Vua Lê Đại Hành nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tông và vua Lý Nhân Tông nhà Lý đều thực hiện nghi lễ cày tịch điền. Tâm thức “thiêng hóa” con trâu của người nông dân cũng ẩn tàng qua Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, Hải Phòng, với trò diễn chọi trâu hàng năm người ta vừa đề cao tinh thần thượng võ, vừa để cầu nước, cầu mưa, cầu mùa màng. Lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng) Hải Phòng vào tháng Tám âm lịch có tục chọi trâu rất nổi tiếng ngoài ra còn có Làng Hải Lưu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc cũng có lệ chọi trâu khá quy mô. Lễ hội là một phong tục tín ngưỡng để tạ ơn Thần Biển của người dân. Những con trâu khỏe mạnh nhất sẽ ra chọi với nhau để tìm ra con giành chiến thắng. Con trâu này sẽ đem giết để cúng thần linh, cầu cho mưa thuận gió hòa. Đó là một nét đẹp trong văn hóa cổ truyền của Hải Phòng.
Gắn liền với đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trâu còn góp mặt trong đời sống văn hóa. Trong sự diễn dịch bói toán hay trong nếp dân sinh người ta thường cho là người sinh vào năm con trâu thì chịu khó làm việc cực nhọc, chăm chỉ. Trong quan niệm tôn giáo, đối với đạo Phật, con trâu cũng là một trong những con thú được nhắc đến (súc sanh) hay Kiếp trâu ngựa. Dưới hình thức “Tử vi đẩu số”, “Tử vi hàm số” dạy cách lấy lá số và xét đoán vận mệnh con người đã chọn con trâu vào vị trí thứ 2 (Sửu) sau con chuột (Tý) và đứng trước 10 con còn lại trong hệ thống 12 con giáp. Triết học phương Đông rất coi trọng con trâu, nhìn nó như một phạm trù giàu sức khái quát, quan niệm trên trời có Nhị giáp bát tú (28 vì sao) trong đó sao Ngưu tức con trâu được “thần tiên hóa” qua tư duy dịch số. Tục treo trâu chỉ là một phần nghi lễ trong việc tế thần. Việc nghi thức treo trâu đến chết ở nơi đây sẽ được thay thế bằng hình thức mổ trâu để trâu được chết nhẹ nhàng, không phản cảm, nghi thức hiến sinh trâu trắng thay vì làm lễ treo cổ trâu đến chết thì sẽ quây bạt kín để hiến sinh trâu trắng, trâu sẽ được mổ ở nơi kín đáo không để du khách chứng kiến, theo dõi, sau đó, thịt đưa vào để tế thần
Tuy vậy, vật tế hiến sinh là trâu trắng vẫn được mổ để làm thành những mâm cỗ để dâng lên Mẫu và các vị thần linh. Nghi lễ hiến sinh tế “ông trâu trắng” ở đền Đông Cuông diễn ra vào nửa đêm. Trước khi được mang ra làm lễ hiến tế, “ông trâu” đã được nhiều người đến bên vuốt ve, sau đó người ta đưa trâu vào khung cũi bằng thép được dựng từ chiều ngay cạnh gốc mít trước cửa đền. Người dân địa phương đã chuẩn bị một con trâu trắng buộc dưới gốc cây trước cửa đền, cùng một chiếc cũi gỗ và bạt phủ. Đến khoảng 1h sáng, nghi lễ giết trâu kết thúc và những đầu bếp địa phương được phân công từ trước tiến hành mổ trâu làm cỗ tế. Nhiều người dân đã tranh thủ dùng tiền quệt vào máu trâu với quan niệm sẽ mang lại may mắn, tốt lành.
Mê tín dị đoan
Con trâu là vật nuôi gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng ngàn năm trước, nó là đầu cơ nghiệp của nhà nông, là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vì thế, người ta tin, nó có linh hồn, con người nỡ giết nó, thì nặng nghiệp, làm nghề sát sinh cũng bạc. Một số lời đồn thổi hoang đường vô căn cứ cho rằng có một số người làm nghề giết mổ trâu, bò, khi chết có máu tươi chảy ra đằng miệng, dù chết trẻ hay chết già rồi những chủ lò mổ trâu, bò, ngựa, những con vật ăn cỏ, là đầu cơ nghiệp của nhà nông, hầu hết những gia đình đó đều có hậu vận không tốt, gặp họa đến nhiều đời sau. Những người tin vào tâm linh cho rằng, sát khí ở mảnh đất nhà những người mổ trâu tỏa ra rất nặng, nhiều người cho rằng không thể làm giàu bằng nghề mổ trâu, đã không giàu được vì nghề, lại phải gánh cái nghiệp sát sinh. nhỏ|phải|Một cảnh giết trâu nhỏ|phải|Cảnh trâu chết Có nhiều trường hợp bỏ nghề mổ trâu vì sợ hãi những chuyện tâm linh vì con cái của họ chết vì bệnh tật kỳ lạ và tai nạn thảm khốc, xảy ra những chuyện không vui, khiến lòng người hoang mang, có khá nhiều những cái chết bí ẩn ở ngôi làng mổ trâu Phúc Lâm, có những cái chết ở gia đình mổ trâu thì người dân liên hệ với chuyện bị “oan hồn” loài trâu “báo oán” và cũng có những cái chết liên quan trực tiếp đến con trâu, đặc biệt là bị trâu húc chết, thì khiến những người cầm dao mổ trâu e sợ. Nhiều gia đình liên quan đến việc tàn sát trâu, đều không có hậu, không chỉ thợ mổ trâu, mà lái trâu, buôn thịt trâu, xương trâu, cũng đều không khá giả hầu hết các gia đình liên quan đến việc tàn sát trâu đều có những chuyện không may. Nhiều người buôn bán thịt trâu cũng không có hậu vận tốt và những chuyện buồn bã liên quan đến cái nghề sát sinh, nhiều gia đình gặp nạn vì bị trâu húc, nguyên nhân chính lại là những ám ảnh vô hình.
Từng có câu chuyện mổ trâu khi con trâu cuối cùng sau khi mổ nhiều con trước đã xảy ra hiện tượng lạ khi một con trâu bất động, người thay nhau kéo, nhưng con trâu nhất quyết không chịu xuống khỏi thùng xe tải, cứ ghì lại, nhiều người xông vào, trói nghiến con trâu lại rồi vần xuống khỏi xe tải, khi vần trâu xuống xe, cởi trói, nhưng con trâu không chịu đứng lên, mà hai chân trước cứ quỳ xuống như phủ phục, nó không rống lên, không giãy dụa nữa, nhưng nước mắt ứa ra, một số người thấy con trâu có biểu hiện như vậy thì ngăn cản việc giết nó. Nhiều người vẫn tin rằng, những con trâu có biểu hiện như thế là có tính linh, tức nó mang linh hồn con người, có kiếp trước là con người, những con trâu như thế thường hiền lành, chịu khó cày bừa, thân thiện với con người và những thợ mổ tin vào thế giới tâm linh thường không giết hại nó.
Các dân tộc Việt Nam
Phía Bắc
nhỏ|phải|Một con trâu mộng ở Sapa Đối với đồng bào Tày, Nùng ở xứ Lạng, con trâu không chỉ là tài sản quý giá giúp người nông dân sản xuất ra lúa gạo mà còn là con vật linh thiêng. Từ đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất cho đến những nét văn hóa, con trâu thực sự đã gắn bó và trở thành biểu tượng tốt đẹp trong đời sống sinh hoạt, văn hóa của đồng bào Tày, Nùng Xứ Lạng vốn chủ yếu sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp, nên con trâu là một tư liệu sản xuất chính, quan trọng, sức kéo của trâu được dùng vào việc canh tác lúa. Ở thời điểm nào, con trâu vẫn luôn có vai trò quan trọng đối với người nông dân, con trâu là đầu cơ nghiệp, theo phong tục của đồng bào Tày, Nùng, con trâu còn là một tài sản lớn được nhiều người để lại cho con cái Đặc sắc nhất trong đó có tục dắt trâu xuống ruộng cày với quan niệm trâu là con vật thể hiện sự no đủ, thịnh vượng trong sản xuất nông nghiệp.
Trong lễ cúng vía trâu, người ta chặt cành cây núc nác, có mấu tựa như đầu gối của trâu đặt lên mâm lễ người thay cho trâu thật, nhà nào có bao nhiêu con trâu thì đặt lên mâm lễ bấy nhiêu cành núc nác. Họ còn thắp hương, dán giấy đỏ ở chuồng trâu và làm bánh, đồ xôi, làm bún, thịt gà, thịt vịt cúng tổ tiên. Sáng sớm chủ nhà đặt mâm lễ, thắp hương khấn cầu Thần Nông trả lại vía cho trâu và cầu phù hộ cho trâu luôn mạnh khoẻ Trong lễ hiến trâu, người Tày đều treo trâu lên để báo cáo với Mẫu và thần linh thổ địa rằng giặc đã bị đánh tan, quy hàng Trong tín ngưỡng tâm linh của đồng bào dân tộc, những con vật màu trắng (gà trắng, ngựa trắng, trâu trắng) là những con vật đẹp đẽ, quý hiếm, do đó, lễ vật tế thần được lựa chọn những đồ đẹp nhất, việc chọn trâu trắng làm vật hiến tế bắt nguồn từ lý do đó.
Trong phong tục hôn nhân của người dân tộc Thổ thì đồ dẫn cưới của nhà trai thường phải có một con trâu. Họ Nhê Xe ở dân tộc Phù Lá coi trâu là thủy tổ của mình, theo truyền thuyết, ông tổ của người Phù Lá mồ côi từ rất sớm, may nhờ có trâu cho bú nên đã sống và khôn lớn, từ đó về sau con cháu họ kiêng ăn thịt trâu để tỏ lòng biết ơn. Trong văn hóa dân tộc Dao, mỗi dòng họ khi cúng tổ tiên, đều chọn một loài vật, ví dụ người họ Phùng dùng dê, họ Bàn dùng bò, còn họ Triệu cúng bằng trâu.
Theo tập tục của người La Chí, mỗi bản có một nhà làm lễ cúng, cứ 3 năm có tế bằng trâu một lần, sọ trâu được giữ lại gác lên mái nhà. Vào sáng mồng một Tết Nguyên đán, người ta cho trâu ăn bánh chưng. Đến ngày Tết cơm mới (tháng 8 âm lịch), người La Chí gói cơm gạo mới vào lá và cuộn trong cỏ cho trâu ăn trước để nó được nếm thành quả lao động của mình. Theo truyền thuyết của dân tộc Pu Péo, tổ tiên của họ từ đảo vào đã vượt biển trên một bè mảng do trâu kéo và đi sâu vào đất liền tìm nơi cư trú, trong dịp Tết “Cần bươn” nghi thức đầu tiên trong ngày Tết là lễ cúng gọi hồn cho trâu, bò xuất phát từ quan niệm sau vụ mùa cày bừa nặng nhọc, hồn trâu bò có thể bị phân tán đi khắp nơi, chưa quay trở lại với bản thể như trước, do đó phải làm lễ cúng để hồn trở về thì trâu, bò mới trở nên béo tốt, khỏe mạnh.
Người Mường vẫn truyền đời những câu chuyện yểm bùa ác bằng trâu trắng. Từng có câu chuyện một giòng họ phá thế lực thịnh của dòng họ khác bằng cách yểm bùa trâu trắng, bí mật mời thầy cúng về làm lễ, thịt con trâu trắng, thả toàn bộ vào giếng ở núi Đống Thả với mưu đồ làm cho linh khí của nguồn nước tinh khiết biến mất, giếng mất thiêng và người ta gọi đó là giếng độc. Tuy vậy, đây là những câu chuyện dân gian, đồn thổi thái quá làm người dân hoang mang. Yểm bùa ác bằng trâu trắng chỉ là những lời đồn mê tín dị đoan, gây hoang mang cho người dân. Ngày trước, cuộc sống khó khăn, nhận thức không cao nên người dân dựa vào sức mạnh của thế lực siêu nhiên nên mới tin chuyện bùa mê, tà chú. Theo lý giải của các chuyên gia chăn nuôi, trâu có da màu trắng tuyền là do đột biến gen, người xưa không biết nên cho rằng nó quái dị, xui xẻo
Phong tục đâm trâu thịnh hành theo phong tục cổ truyền của những dân tộc miền cao nguyên, đặc biệt là ở vùng Kon Tum hay Gia Lai, dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum hầu như lễ hội lớn nào cũng đều cúng trâu để tạ ơn thần linh, Yàng để gia đình, làng quanh năm mạnh khỏe, ngày càng giàu có, không xảy ra thiên tai, bệnh tật
Khác với nhiều dân tộc khác, lễ đâm trâu của người Xê Đăng mặc dù là một lễ hội của cộng đồng nhưng lại chỉ do một hộ dân đứng ra lo liệu, những gia đình đứng ra tổ chức lễ đâm trâu ngoài những nhà có tiền của còn có cả những nhà có người thân đang ốm đau, chủ nhà phải lặn lội đi khắp các nóc lân cận hoặc, sang tận Kon Tum để tìm mua trâu. Trong lễ hội đâm trâu còn có nhiều rượu cần càng trở thành gánh nặng cho các hộ nghèo Xê Đăng, nhiều gia đình phải chạy tiền hoặc đem cồng, chiêng, ché đổi trâu về. Tại các xã Trà Cang, Trà Linh, người Xê Đăng cũng tổ chức lễ đâm trâu vào dịp đầu xuân với trên dưới 10 con trâu, trung bình lễ hội tiêu tốn khoảng 50 triệu đồng thì người dân các xã đã tốn hàng tỉ đồng cho việc đâm trâu nên sau nhiều năm tổ chức lễ đâm trâu, nhiều hộ gia đình dân tộc Xê Đăng (Nam Trà My, Quảng Nam) vẫn chưa trả hết số nợ đã vay để mua lễ vật.
Trâu là vật nuôi gắn bó thân thiết với cuộc sống các dân tộc, người M'Nông (Tây Nguyên) thường dùng trâu để giải quyết các việc lớn trong gia đình, dòng họ và cho cả buôn làng. Mua chiêng bằng trâu, mua ché bằng trâu, dựng nhà, cưới gả, các lễ hội mừng được mùa hàng năm bằng trâu. Trong luật tục, những tội trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định của cộng đồng như xúc phạm thần linh, làm những điều người ta kiêng cữ, loạn luân đều dùng trâu để phạt vạ hoặc cúng xóa tẩy tội lỗi. Huyết trâu hòa với rượu cần, gan trâu, thịt trâu là các cỗ vật linh thiêng để con người thông qua với thần linh, là thức ăn đồ uống mà mọi người trong buôn làng dùng để tẩy rửa xui xẻo, cầu mong bình an và hạnh phúc cho cộng đồng và cho mọi người. Nhà mồ pinh blâng của người Cơ Tu ở Quảng Nam được phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học. Với người M’nông thì trâu là con vật quý, đứng thứ hai sau voi, nên gia đình nào có trâu trong nhà được xem là giàu có. Họ tin rằng thần trâu, hồn trâu luôn ở bên cạnh, mang lại may mắn cho gia đình và cộng đồng. Con trâu là linh hồn của các nghi lễ quan trọng của đồng bào M’nông. Trâu còn là niềm tự hào mỗi khi có lễ hội, người ta sử dụng trâu làm vật hiến sinh để thể hiện lòng tôn kính, biết ơn giữa con người với thế giới tâm linh. Trong các gia đình người M’nông, những chiếc sừng trâu vẫn luôn được đặt trang trọng ở một góc nhà. Ở lễ hỏi của dân tộc M’nông, người làm mối bên nhà trai phải đem theo 2 ống lồ ô đựng măng chua và da trâu thái nhỏ, đến lễ cưới, trong lễ vật nhà trai mang đến không thể thiếu từ 20-30 ống măng chua với da trâu muối. Trong luật tục của dân tộc Srê (Kơ ho), trường hợp không giữ lời hứa hôn, bên vi phạm bị phạt một con trâu, còn theo luật tục của người K’Ho Lạch có nêu “Tội ngoại tình thì đền bảy con trâu, tám cái ché. Tội bỏ vợ, bỏ chồng phải đến chín con trâu, mười cái ché”.
Lễ hội đâm trâu là phong tục truyền thống lâu đời và nét văn hóa của đồng bào Cơ Tu, với họ thì con trâu là con vật may mắn mới được chọn để làm vật tế thần.. Người Cơtu khắc hình ảnh trâu lên nơi trang trọng của ngôi nhà chung, là vật dâng cúng thần linh khi người về cõi chết. Khi trâu chết, người Cơtu còn lưu giữ đầu, sừng bằng cách treo ở cây cột cái/cột mệ (Zờ dâng Moong) của Gươi ở vị trí cao nhất.
Ngôi nhà cộng đồng của người Cơtu là Gươi là biểu tượng cho hình ảnh con trâu với toàn bộ cấu trúc ngôi nhà là sự mô phỏng hình dáng con trâu với bốn chân cao có đế vững, mình tròn, sóng lưng oằn xuống với những đốt gai sống nhấp nhô. Bộ xương là hình ảnh của bộ sườn nhà với sống lưng là đòn nóc, các xương sườn là hệ thống vì kèo. Trên đỉnh của ngôi nhà có hai vòng cùng hướng vào nhau như hai cái sừng. Chi tiết hình ảnh con trâu ta sẽ thấy ngay trên hai đầu bậc cấp bằng gỗ khi bước lên Gươi. Hai đầu trâu nhìn chính diện với cặp sừng cong, gờ nổi cao ở hai bên, cái đầu hơi cúi xuống, đôi mắt buồn bên cạnh hai tai được cách điệu cặp xuống. Một kiến trúc rất quan trọng của người Cơtu là khu nghĩa địa nằm phía Tây của làng. Nơi đây, hình ảnh rõ nhất là quan tài (pink) trên nóc hồi nhà mồ với hai đầu trâu. Con trâu được mô phỏng rõ nét và thật hơn bằng khối tròn của thân cây sừng, đầu, tai và đôi mắt gắn bằng miếng thủy tinh, chỉ khác thân nó là chiếc quan tài nhưng trâu tamaraw vẫn được xem là một biểu tượng quốc gia của Philippine. Một hình ảnh của con vật được tìm thấy trên phiên bản từ 1980 đến đầu 1990 của đồng 1-peso Philippines. Một kỳ nghỉ đặc biệt ở tỉnh Occidental Mindoro trùng với tháng bảo tồn trâu Tamaraw nhằm mục đích nhắc nhở người dân Mindoro về tầm quan trọng của việc bảo tồn trâu tamaraw. Hãng Toyota Motors xây dựng Tamaraw AUV (Asian Utility Vehicle), mô tô Toyota Philippine phát hành một loại xe tiện ích châu Á gọi là Tamaraw FX tại Philippine là sự cải tiến của Tamaraw AUV được bảo trợ rộng rãi từ các hãng taxi. Trâu Tamaraw cũng là linh vật của đội thể thao thuộc đại học viễn đông (FEU Tamaraws) tại Hiệp hội thể thao đại học của Philippines, và Toyota Tamaraws thuộc Hiệp hội Bóng rổ Philippine, sự sụp đổ Tamaraw tại Barangay Villaflor, Puerto Galera được đặt tên dựa trên loài trâu này.
Ở Châu Phi có truyền thuyết về Quái vật mình trâu, đầu bò Catoblepas trong thần thoại Etiopia cổ, Catoblepas có hình dáng là sự kết hợp của mình trâu, đầu bò. Chiếc đầu của Catoblepas luôn hướng xuống đất do cặp sừng quá nặng, bên cạnh đó, chiếc lưng lớn cùng nhiều gai nhọn sẽ bảo vệ chúng khỏi kẻ thù, nó có khả năng giết con mồi bằng hơi thở và ánh nhìn của chúng. Quái vật này thường ăn một loại cỏ có độc tính mọc bên sông, Catoblepas còn có khả năng hóa đá con mồi bằng cách nhìn thẳng vào mắt đối phương. Trên thực tế, trâu rừng châu Phi một trong năm loài thú săn lớn ở châu Phi, trâu châu Phi thường được gọi là "The Black Death" (Tử thần đen) hoặc "Widowmaker" (con vật nguy hiểm), và được coi là một loài động vật rất nguy hiểm, vì chúng hay điên tiết húc chết hơn 200 người mỗi năm và được báo cáo rằng giết nhiều người ở châu Phi hơn bất kỳ loài động vật khác, mặc dù hà mã và cá sấu cũng được cho là như vậy
Đối với Văn hóa Phương Tây, mặc dù không để lại nhiều dấu ấn ở nền văn hóa phương Tây, nhưng trong quan niệm về 12 con giáp của người Hy Lạp, con trâu đực được xếp đứng đầu, tiếp đó là sơn dương, sư tử, lừa, cua, rắn, cá sấu, hồng hạc, vượn, chim ưng, chuột. Trong 12 cung hoàng đạo của phương Tây, có cung Kim Ngưu. Những quốc gia Âu Châu không ăn thịt hay uống sữa trâu, nhưng các quốc gia khác dùng trâu trong nghề nông, kéo xe kéo gỗ, uống sữa, và nuôi trâu để ăn thịt. Tại Tây Âu, người ta coi chiếc tù và làm bằng sừng trâu là biểu tượng của ngành bưu chính vì vào thời trung cổ, các lái buôn do đi nhiều nơi đã kiêm luôn cả việc chuyển thư, bưu kiện, mỗi khi đến một nơi họ lại thổi tù và sừng trâu để mọi người đến nhận hoặc gửi thư. Tác phẩm “Ruồi trâu” (The Gadfly) của nhà văn nữ người Anh E.L. Voynich sau cuộc Cách mạng Tháng Mười đề cao nhân vật Arthur “Ruồi Trâu” là người thanh niên hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cách mạng.
Trong Kinh Thánh không nói đến tên con trâu vì vùng Trung Đông không có loài thú vật hình dạng giống Trâu Con trâu, trong ngôn ngữ dân gian cũng đã được điển hình hóa nên thành ngữ, thành chuyện. Con trâu cũng là hình ảnh gắn với nông nghiệp và nông dân và được mượn để ví von, so sánh, để răn dạy nhau trong cách ứng xử, sinh hoạt. Qua kho tàng thành ngữ này nêu lên vai trò quan trọng của trâu trong nông nghiệp, ở đồng quê cũng như cách đối nhân xử thế, ứng xử sinh hoạt hàng ngày. Cụ thể là: