✨Săn hổ

Săn hổ

nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi Săn hổ là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm trù này còn được mở rộng ra với các hành vi như nuôi nhốt, tàng trữ, vật chuyển, giết mổ trái phép để lấy các sản phẩm từ hổ. Mặc dùng trong môi trường tự nhiên hổ là động vật ăn thịt đầu bảng và không có nhiều kẻ thù dám đe dọa đến sinh mạng, nhưng con người là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự tồn vong của con hổ bởi việc săn bắt bất hợp pháp. Hổ Bengal là phân loài phổ biến nhất của con hổ, chiếm khoảng 80% toàn bộ dân số hổ, và được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Myanmar, Nepal, Ấn Độ và đã bị săn bắt trong nhiều thế kỷ. So với sư tử thì hổ được coi là khó khăn hơn khi săn bắn vì thói quen sinh sống trong rừng rậm, các bụi cây rậm rạp và ít khi gầm rú ồn ào để khẳng định sự hiện diện của mình như sư tử.

Tổng quan

Tục săn hổ đã có từ lâu trong lịch sử và con hổ là một động vật phổ biến của những trò chơi chết chóc, chúng đã bị săn bắt để thể hiện uy danh, sức mạnh của con người cũng như những danh hiệu đạt được khi săn được hổ, tuy nhiên từ xưa đến nay, săn hổ luôn là một cuộc chơi đầy nguy hiểm đối với tính mạng của người đi săn vì loài hổ là dã thú đầy sức mạnh, hung dữ và nguy hiểm. Ngày nay, nạn săn bắt trộm vẫn tiếp tục lộng hành ngay cả sau khi việc săn bắn hổ đã trở thành hành vi bất hợp pháp và loài hổ đã được pháp luật bảo vệ. Điều này đã dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cho loài hổ trên khắp thế giới. Nạn săn bắn hổ trái phép xuất phát từ quan niệm cổ xưa của người phương Đông về hổ cho rằng mọi bộ phận của hổ đều có tác dụng thần kỳ như xương nấu cao, thịt, tim ăn vào đại bổ, pín hổ bổ thận tráng dương, nanh hổ trừ tà, da hổ làm áo choàng, râu hổ chữa đau răng... một ước tính ngành kinh doanh liên quan tới hổ có giá trị lên đến 5 triệu USD (khoảng 104 tỷ đồng) mỗi năm.

Những con hổ hoang dã là một trong những loài bị đe dọa nhất trên hành tinh, số lượng hổ đã sụt giảm mạnh do săn bắn trộm và tình trạng mất nơi cư trú. Các yếu tố chính đe dọa sự tồn tại của những con hổ chính là con người để phục vụ cho nhu cầu, do niềm tin tín ngưỡng, thực hành nghi lễ và sự gia tăng dân số của con người cộng với va chạm giữa con người và khu vực sinh sống của hổ, mặc dù quần thể hổ chủ yếu bị ảnh hưởng bởi suy thoái môi trường sống và giảm mật độ con mồi. Hổ thường bị săn bắt để lấy da, xương, hay các bộ phận khác. Nạn săn bắt, buôn bán hổ khiến số lượng loài động vật quý hiếm này giảm 95% so với đầu thế kỷ XX. Năm 2008 trên thế giới chỉ còn khoảng 5.000 - 7.000 cá thể hổ hoang dã, trong đó có khoảng 200 con ở Việt Nam và 1.500 con ở Ấn Độ, loài hổ đã được đưa vào danh sách các loài đang gặp nguy hiểm. Đến năm 2011, Tổ chức động vật hoang dã Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) ước tính chỉ còn 3.200 con hổ sống trong môi trường hoang dã trên toàn thế giới, riêng tại Việt Nam chỉ còn 30 con.

Lịch sử

nhỏ|phải|Cảnh săn hổ ở Mãn Châu Trong lịch sử, hổ đã bị săn bắt bằng các hình thức khác nhau như chuyến hành trình (đi bộ), trên lưng ngựa, và trên lưng voi. Việc săn hổ và đối diện với những nguy cơ, hiểm họa rình rập đến tính mạng của kẻ đi săn và con hổ luôn luôn được coi là một sự thử thách cho lòng dũng cảm, sự thiện chiến, tinh thần của nhũng người đàn ông và là sự thử thách cho các danh hiệu vinh dự như Dũng sĩ (Ba Đồ, Ba Đồ Lỗ), Chiến binh... nó chính là biểu tượng cho lòng dũng cảm và uy danh. Ở một số nơi như Trung Quốc, Việt Nam hổ cũng được coi là một mối đe dọa cho cuộc sống con người trong khu vực, do đó, những người giết hổ được ca ngợi là anh hùng trừ hại cho dân, bảo vệ sự bình yên của làng bản.

Bên cạnh những ý niệm ngưỡng mộ dành cho hổ thì trong dân gian nhiều nước vẫn tồn tại luồng ý niệm sợ hãi, nỗi khiếp sợ, sự khinh ghét và ý muốn chế phục loài hổ, xuất phát từ nỗi khiếp sợ về sự phá hoại của con hổ đối với con người như là loài vật ăn thịt có bản tính ác độc, hổ hay ăn thịt người, vồ người gây kinh hoàng và gieo rắc tại vạ cho người dân hoặc hoành hoành ăn thịt, giết hại gia súc, vật nuôi của con người, gieo rắc nhiều tai ương cho con người do đó người ta sẵn sàng triệt hạ loài hổ.

Trên thế giới

Sự phổ biến của con hổ săn bắn như một môn thể thao quý tộc của hoàng gia Anh và Châu Âu trong nhiều thế kỷ. Điều này đã khiến cho loài hổ giảm từ 4.000 con xuống 1.800 con ở Ấn Độ Trong những năm đầu của thế kỷ XX, Hoàng gia Nga đã bắt đầu một kế hoạch để xâm chiếm các vùng đất châu Á nơi sinh sống của hổ Caspian để lấy đất canh tác. Chính quyền địa phương của Nga đã nỗ lực để tiêu diệt con hổ trong lưu vực sông Syr - sông Daria và sông Amur - Daria và biển Aral. Quân đội Nga đã được chỉ thị tiêu diệt thẳng tay tất cả các con hổ tìm thấy xung quanh khu vực biển Caspi, dự án đã được thực hiện rất hiệu quả. Sau khi tiêu diệt con hổ Caspian đã gần như xong, những người nông dân theo sau, được thanh toán bù trừ rừng và trồng cây. trái|Loài hổ Mãn Châu bị tàn sát trong lịch sử, hiện nay đang có nguy cơ tuyệt chủng

Do săn bắn và phá rừng, hổ Caspian dần rút lui, đầu tiên chúng di cư từ vùng đồng bằng tươi tốt để đến các dãy rừng, sau đó chạy đến các đầm lầy xung quanh một số con sông lớn hơn, và cuối cùng cư trú sâu hơn vào những ngọn núi, cho đến khi nó gần như chắc chắn đã bị tuyệt chủng. Các thành trì cuối cùng của con hổ Caspian trong Liên Xô cũ là trong khu vực Tigrovaya Balka, trong Tajikistan. Trong những năm đầu của cuộc Nội chiến Nga, cả hai đạo quân Hồng Quân và Bạch Vệ đồn trú tại Vladivostok đã thi nhau thực hiện việc gần như xóa sổ những con hổ Siberia tại địa phương. Trong những năm 1920, con hổ đã bị những người Cộng sản tiêu diệt, Các quy định pháp lý hổ săn bắn trong Liên bang Xô viết sẽ tiếp tục cho đến năm 1947, khi việc săn bắn hổ chính thức bị cấm.

Trong năm 1959, trong khi của Trung Quốc thực hiện cuộc Đại nhảy vọt, Mao Trạch Đông tuyên bố rằng Hổ Hoa Nam kẻ thù của con người, và bắt đầu tổ chức và khuyến khích các chiến dịch diệt trừ hổ. Đầu những năm 1960, con hổ của Trung Quốc đã giảm xuống chỉ còn hơn 1.000 con. Một thập kỷ sau, phạm vi của chúng đã giảm xuống còn ba khu vực ở miền nam Trung Quốc, hai trong số nằm tại tỉnh Giang Tây. Có thể thấy số lượng của chúng đã nhanh chóng giảm từ khoảng 4.000 con xuống còn khoảng 200 con năm 1976. Năm 1977 chính phủ Trung Quốc sửa đổi lại luật, và cấm chỉ việc giết hổ hoang, nhưng điều này có lẽ đã quá muộn để có thể bảo vệ nòi này. Hiện tại còn 59 con còn đang bị nuôi nhốt, tất cả đều tại Trung Quốc, nhưng chúng chỉ sinh được có sáu con. Vì thế, tính đa dạng di truyền không được duy trì, làm cho khả năng tuyệt chủng vĩnh viễn trở nên rõ nét.

Vào năm 1986, người ta đã được phát hiện ra rằng những con hổ đã suy giảm nhanh chóng do bị đầu độc, bẫy hoặc bắn và sau đó chuyển lậu ra khỏi Ấn Độ để cung cấp cho các nhà sản xuất thuốc ở Trung Quốc. Vào năm 1992, ngành công nghiệp thương mại đã chi tổng cộng 12,4 triệu đô la cho 200 con hổ đã được săn bắn bởi những kẻ săn trộm. Kể từ thời điểm đó, Trung Quốc đã cấm săn bắn và mua bán hổ. Tuy nhiên, điều này chỉ làm tăng giá trị của con hổ và càng khuyến khích việc săn bắn hổ dữ dội. Ngoài việc săn bắn, để bù đắp cho việc cấm buôn bán các bộ phận hổ, ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào đã bắt đầu thu hoạch hổ bằng cách nuôi hổ. Điều này cho phép họ nuôi hổ nuôi nhốt với mục đích bán các bộ phận của hổ.

Ngày nay, hổ còn là đối tượng đem nuôi để phục vụ cho hoạt động săn bắn chiến phẩm. Việt Nam không có sự phân bố tự nhiên của sư tử, nhưng Việt Nam có hổ và từng có rất nhiều hổ. Ngược lại, châu Phi là xứ sở của sư tử, song nơi này lại không có hổ tự nhiên nhưng họ mang hổ từ nơi khác, thậm chí từ châu Á, vượt ngót nửa vòng Trái đất sang đây, để nuôi như nuôi lợn, nuôi để cho khách có nhu cầu đi săn bắn. Tại Nam Phi có trường hợp người gốc Việt nuôi hổ và biến hổ trở thành thứ mồi để săn bắn. Những con hổ vượt đại dương trở thành mồi săn bắn và họ nuôi hổ như nuôi lợn tăng trọng ở một trang trại của người Việt tại Nam Phi nên lũ hổ nhốt cù rù trong chuồng.

Tại trại hổ, mỗi ngày người ta đi thu gom gà chết, cánh gà, đầu gà phế phẩm về cho thú nuôi chúa sơn lâm ăn, cánh gà thối, toàn vết tiêm kháng sinh, bơm hóa chất, đó là gà chết thối hoặc gà thải bệnh tật từ các trại nuôi, thịt gà đó con người không dám ăn, cả đống lông gà bay xáo xác, trắng xám cả góc chuồng, chứng tỏ hổ ăn uống dễ tính, thú rừng quý hiếm được nuôi như nuôi lợn tăng trọng, hàng ngày cho ăn đồ thải loại, qua loa. Cho hổ ăn uống bừa phứa, thức ăn giá rẻ thì mới có lãi, hổ và sư tử nuôi trong trang trại, chăm bẵm như lợn tăng trọng, ăn gà chết thối cả lông Năm Nhâm Thìn (1832), ở phường Thiên Thọ nằm phía Tây Kinh thành Huế xuất hiện một con hổ cực kỳ hung dữ, đã giết nhiều người và súc vật của dân chúng. Vua Thiệu Trị đã ra chiếu sức 400 thanh niên trai tráng của Thủy Ba vào bắt hổ.

Ở Việt Nam có tập quán đi săn Hổ của người Sán Dìu, từ xa xưa, người Sán Dìu thường đi săn săn Hổ lấy thịt để cải thiện bữa ăn trong gia đình. Họ thường tổ chức đi săn vào dịp nông nhàn, dịp đầu xuân mới hoặc khi phát hiện được con thú lớn là Hổ đi kiếm ăn. Nếu bắn được con Hổ to thì đem về nhà người trực tiếp bắn trúng để làm thịt, và cúng báo mời tổ tiên về ăn mừng để cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì cho lần sau đi săn bắn được nhiều con Hổ và an toàn hơn. Sau khi cúng xong, họ lấy thịt Hổ ra để chia phần cho người trực tiếp bắn trúng được riêng một vai, đầu và bốn chân, số thịt còn lại chia đều cho những người đi săn, nếu ai có chó đi săn cùng thì được thêm nửa phần của người đi săn. Nếu bắn được Hổ nhỏ thì họ sẽ không chia phần, mà chỉ mang về nhà người trực tiếp bắn trúng, làm thịt, không phải cúng tổ tiên rồi liên hoan một bữa vui vẻ, chúc mừng nhau lần sau sẽ săn được một con Hổ to hơn. Nếu săn được con Hổ và dịp dầu xuân thì người ta tin rằng năm ấy sẽ có sức khoẻ như Hổ, và luôn gặt hái được nhiều thành công, may mắn. nhỏ|phải|Một con hổ đang bơi Tại vùng Tây Bắc Việt Nam vào khoảng những năm 1940, thời trước, lang đạo xứ này có những quyền lợi rất lớn trong mường của mình, chuyện săn bắn cũng quy định rất nghiêm ngặt, nếu săn bắn được hổ, phải nộp xương và râu, phần thịt còn lại phải chia phần nhiều cho người có công nhiều, chia ít cho người có công ít, ai làm sai, tạo mường sẽ tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà phạt vạ từ một đến 3 nén bạc, kèm theo rượu thịt, thậm chí nọc cổ ra đánh đòn.

Ở Miền Nam Việt Nam, hổ xuất hiện thường xuyên ở huyện Nhà Bè, quận Thủ Đức, huyện Bình Chánh, và những tin tức về hổ không làm người dân hoang mang nữa, mà ngược lại, nó gây hấp dẫn với một số người thích săn bắn. Vào thế kỷ XX, Hoàng tử Henri của Pháp, Thái Tử Đan Mạch Waldemar và Công tước De Montpensier là những khách săn bắn thường xuyên ở Sài Gòn để tìm bắn hổ. trong số các tỉnh cũ như Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa Vũng Tàu... thì Biên Hòa là có nhiều hổ nhất nên, giới thợ săn người Tây từ Sài Gòn quy tụ về đây rất đông. Tuy nhiên, Trung tâm săn hổ ở miền Nam nước Việt là thị xã Ban Mê Thuột chớ không phải là ở vùng Đồng Nai.

Những năm 30 của thế kỷ XX, người Pháp truyền bá vào Việt Nam những thú tiêu khiển mới mang cảm giác mạnh, tại các địa phương khác nhau đã xuất hiện những tay thợ săn chọn săn hổ làm nghề nuôi thân với mức lương rất cao. Nó thu hút nhiều người tham gia và những nhà kinh doanh Pháp, Mỹ, Anh đã thành lập một công ty chuyên phát triển dịch vụ trên mang tên Caffort dành cho nhà giàu, đây là nơi sẽ cung cấp súng săn, lều bạt, trang thiết bị thiết yếu cho bất cứ một người nào có đam mê giáp mặt hổ và tổ chức chỉ thu lợi từ phí của dịch vụ nhà tổ chức không hề để ý đến giá trị của những con hổ bị săn có khi còn vượt cả số tiền họ thu được từ phí dịch vụ. Riêng đối với giới thợ săn, một con hổ dù sống dù chết đều mang lại những món tiền kếch xù. Những săn cọp lúc bấy giờ phần lớn là người Tây lai, chứ ít có người Việt vì họ không được trang bị súng. Chính quyền pháp còn cho thành lập hẳn một trung tâm săn hổ để thu hút người tham gia.

Quan niệm thái quá của con người khiến hổ ở Việt Nam từ xưa đã bị săn bắt ráo riết chẳng kém gì ở những nơi khác trên thế giới, có những người chuyên nghề dọi dấu (tìm dấu vết hổ) của làng Tịnh Yên Đông Tây chuyên đi săn hổ, Săn hổ ở đây đã trở thành nghề cha truyền con nối. Thậm chí đến nay, ở vùng biên giới Quảng Trị - nơi mà người ta tàn sát hổ, coi hổ như kẻ thù và tổ chức săn bắt như ở Làng Thủy Ba. Do hổ thường xuyên thâm nhập vào các bản làng của con người bắt gia súc như trâu bò dê heo và ăn thịt người dân, đây được coi là trận chiến giữa người với mãnh thú mà còn là câu chuyện kể về sức mạnh của người dân Việt chống loài ác thú và chống ngoại xâm... chính quyền, triều đình phong kiến trước đó còn tặng thưởng cho những người săn hổ công với giá trị y học và kinh tế mà hổ đem lại như xương hổ để nấu cao hổ cốt, da hổ để trang trí, bộ móng vuốt, răng của hộ để đeo như những trang sức, pín hổ để tăng cường sinh dục, còn được dùng để trưng bày hoặc làm thành các sản phẩm lưu niệm, điều này dẫn đến những cuộc săn hổ, tàn sát loài hổ.

Phương thức

Đối với việc bắt hổ theo hình thức thủ công, có rất nhiều cách săn hổ như bẫy, hầm sập, nhưng phổ biến hơn cả là dùng lưới vây bắt, ngoài ra phải có sự phối hợp của rất nhiều người trong trường hợp dồn đuổi hổ. Đôi với những chuyến đi săn hổ theo thú vui tiêu kiển khiển giải trí theo kiểu cảm giác mạnh thì những người đi săn phải có sự chuẩn bị với những công đoạn, kỹ năng nhất định vì không như săn bắn các loại thú khác, hổ rất hung dữ và gây nguy hiểm đến tính mạng cho con người. Thường trước khi bắt hổ người ta hay tổ chức cúng tế. Ngoài ra phải được trang bị kỹ các loại vũ khí. Những người thợ săn có thể tìm những người bản xứ thông thuộc địa bàn muốn săn, những vật dụng cần thiết để hành nghề, chọn ra cây súng tốt nhất, thường là loại súng trận, và nhất thiết không không mang theo những cây súng bắn chim thô sơ vì loại súng này không những không hạ được hổ trong phát súng đầu tiên, ngược lại còn có thể gây ra tai nạn bất ngờ, họ cũng chuẩn bị một con dao bén, mỏng được rèn bằng thép tốt và một chiếc đèn soi cột trên trán.

Người Sán Dìu đi săn thì dụng cụ săn hổ thô sơ có thể là súng kíp và những con chó săn, đi săn Hổ chủ yếu là súng kíp, ngoài ra mỗi người đi săn có thêm 1-2 con chó săn đi cùng để hộ người quây đuổi thú. Đối với trường hợp đi săn cá nhân, người Sán Dìu hường chỉ là đàn ông đi săn. Nơi tổ chức săn ở vùng nương rẫy hoặc rừng già, khi phát hiện ra có con hổ xuất hiện, thì họ đi mò, phục kích để đón đầu, trong trường hợp đi săn cá nhân họ không thể dồn đuổi con Hổ được mà chỉ mò rồi bắn, vì nếu đuổi Hổ phát hiện, bỏ chạy thì sẽ không đuổi kịp. Bên cạnh đó, với sự tinh nhanh vốn có, nhiều lần hổ đánh hơi được nguy hiểm tẩu thoát nên không dễ gì để diệt được Hành trình lần theo dấu vết hổ dữ rất khó khăn. Người ta sẽ theo dõi con hổ qua một quá trình kể từ khi nó vào làng bản bắt heo, bê, chó của người dân, những người thợ săn sẽ lần theo dấu về tìm đến lãnh địa của con hổ ẩn náu rồi quay về thông tin cho đoàn người thợ săn.

Theo dấu

nhỏ|phải|Một cảnh truy lùng hổ, ở Việt Nam còn được gọi là nghề dọi dấu tức là tìm dấu vết hổ Người ta cũng sử dụng phương pháp phục kích hổ để hạ sát, thông thường là thợ săn được trang bị súng. Người ta sẽ theo dõi con hổ, nắm được quy luật hoạt động, thói quen, đường đi nước bước để tổ chức phục kích và bắn chết hổ. Đối với những cuộc săn hổ theo kiểu trò chơi sinh tử, những thợ săn chia thành từng tốp không quá năm người kéo vào rừng rậm. Một trong những điều cấm kị trong khi di chuyển trong rừng là các thành viên không được nói chuyện, không ồn ào, không cười nói, họ chỉ lẳng lặng đi bên nhau trong những quy ước, kế hoạch đã thỏa thuận từ trước như vậy trong nhiều giờ liền để đến một cái trảng để phục kích hổ đó là một vùng đất cây bụi thấp, đặc biệt nhiều cỏ tranh hình thành do người dân tộc thiểu số bản địa canh tác theo kiểu du canh du cư mà thành, đây là chỗ cỏ tranh mọc lên quá đầu người và là nơi hổ thường xuyên tụ tập vì tranh non là thức ăn khoái khẩu của nai, hoẵng, là những con mồi ưa thích và thường xuyên của hổ, khi đêm về, nai kéo nhau ra các bãi tranh ăn cũng là khi hổ xuất hiện rình mồi.

Săn hổ vô cùng nguy hiểm nhưng ly kỳ, người thợ săn phải đối mặt với một trong những loài động vật săn mồi nguy hiểm bậc nhất thế giới động vật do vậy luôn phải trang bị cho mình những bài học kinh nghiệm, trước hết là cách tìm dấu vết hổ (có những người chuyên nghề dọi dấu) để tìm hổ, muốn bắt được hổ phải hiểu tính nết, đặc điểm của nó. Căn cứ vào hướng gió, mùi hổ hay dấu hổ, người ta có thể đoán được hổ đực hay hổ cái, to đến mức nào và dò được khu rừng nào có hổ ở. Hổ rất thính hơi, nó có thể phân biệt được mùi của voi, gấu, nai và cả hơi người, Khi gió đưa mùi của người đến mũi hổ thì hoặc chúng sẽ không đi về nơi ẩn náu hoặc sẽ khát máu lao ngay đến vị trí của người tấn công ngay lập tức. Đôi khi người ta có thể xác định một khu vực có hổ và tiến vào, và có cách nhận biết những dấu hiệu khi có sự hiện diện của hổ, đó là sự xuất hiện của loài chim đỗ quyên, loài chim này chuyên đi theo hổ để ăn phần thức ăn thừa của chúng. Những người thợ săn có thể nghe tiếng chim chóc trong rừng, quan sát hoạt động của bầy khỉ trên cây từ đó thể đoán được dấu vết và hành tung của hổ. nhỏ|trái|Sự xuất hiện của loài chim Đỗ quyên là dấu hiệu cảnh báo rằng có hổ hiện diện ở quanh Trong một khu rừng già, cái mà người thợ săn kinh nghiệm có thể nhận biết có hổ hay không nhờ đặc điểm là rừng thưa và vắng. Nếu vào một khu rừng mà không nghe tiếng chim hót, không thấy bóng một con thú nào, thì có thể khu rừng đó có hổ vừa đi qua. Với mùi đặc trưng, rất thối và tiếng gầm lớn của hổ, làm cho chim chóc cũng không dám hót, các loài dế, nhím, chồn, cáo đang kêu tự nhiên im như thóc. Khi săn hổ thì một kinh nghiệm của những người thợ săn là phải núp ở nơi có những cành thấp chìa ra quanh thân, có tác dụng bảo vệ, cản đường con thú hung dữ lao lên khi bị thương, khi hổ xuất hiện thì sẽ có mùi hôi xộc lên một cách nồng nặc có nhiều loại bẫy trong đó có bẫy sập và bẫy treo, bẫy lưới. Có một kiểu bẫy khác đó là săn bằng dọi đèn vì nhiều loài động vật hoang dã trong đó có hổ bị hấp dẫn bởi ánh sáng trong đêm, đến khu vực có hổ và thấy chúng, thợ săn sẽ dùng đèn để thu hút sự chú ý của nó và tìm cách bắn hạ.

Người dân tộc ở miền núi ở Mường Lát, Thanh Hóa thì có cách đặt bẫy hổ và dùng bùa chú, các thợ săn bắt làm những chiếc bẫy thường hay sử dụng để bắt thú lớn là bẫy tên và bẫy hầm. Làm bẫy hầm cần đào một chiếc hố lớn, bên trên ngụy trang khéo léo bằng các lá cành khô, bên dưới cắm chi chít các bàn chông dựng ngược, họ sẽ đặt những ký hiệu có bẫy, báo cho bà con biết mà tránh lối. Khi thú sa xuống bẫy sẽ bị thương hoặc không thể leo khỏi hố được, nằm yên chờ bị bắt. Thường người ta hay bắt được hổ, bò tót và lợn lòi từ bẫy hầm. Ngoài ra có phương pháp bẫy tên, là một đoạn cây đóng thẳng ở ngã ba đường, phía trên kẹp một thân nứa đập dập hình mũi tên chỉ hướng có bẫy, hoặc ở bên lối đi vào rừng thì vít xuống một cành cây, treo lên đó một mũi tên và một cuộn dây thừng, họ tin rằng nếu hổ bị thương mà không trúng tim hay yếu huyệt nào đó thì hổ dù có sức mạnh cũng chỉ đeo tên chạy được vài quả đồi hay vài trăm mét sẽ chết. Một cách thức khác là bẫy bằng kẹp sắt, theo đó, thợ săn dùng cái bẫy để dụ con hổ vào tròng để bắt, đó là một khung gỗ gọi là chòi rộng 1m và dài khoảng 5m, bên trong có để một con chó làm mồi nhử, phía trên thì có lưới bao phủ. Khi hổ phát hiện nó sẽ nhảy vào bắt chó, khi tiến vào lập tức nó bị sập xuống bẫy và lưới sẽ phủ lên mình hổ khiến nó không thể chạy thoát.

Một trong những loại bẫy còn gọi là Chùa cọp. Người ta sẽ chặt cây làm Chùa cọp. Chùa cọp là một loại bẫy dùng để bắt sống những con hổ hung dữ, nó được làm bằng các cột chống là cây rừng có độ dẻo, rất bền chắc. Mỗi cây được đóng chéo vào cây kia, cứ thế đan nhau mà tạo thành một cái chuồng lớn, thường thì chiều dài của mỗi chùa là 4m, rộng 2m và cao khoảng 1,5 m. Trên mỗi Chùa Cọp có đặt những tảng đá lớn để Cọp khỏi hất tung Chùa. Trong quá trình làm bẫy chùa, những người còn lại trong phường săn sẽ chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để săn cọp. Trong đó, dụng cụ không thể thiếu là lưới săn. Lưới bắt hổ được làm từ loại cây leo rất bền và chắc. Người ta sẽ dựng lưới vây quanh khu vực hổ đang ẩn náu. Vòng vây lưới chỉ chừa lại một lối duy nhất chính là chỗ những thợ săn tiến vào đối mặt với hổ. Ở cuối hướng chạy của hổ là lưới đơm được đóng vững, buộc cố định. Còn lại, lưới vây đều có thể di động khi vòng vây khép dần lại. Bên ngoài vòng vây phải có đội ngũ thợ săn cầm đinh ba, mác nhọn sẵn sàng chiến đấu khi hổ lao ra xé lưới hoặc nhảy qua lưới.

Người ta cũng dùng những biện pháp bẫy hổ, săn hổ bằng bẫy lưới, hổ vào bẫy ăn mồi, bẫy lưới sập xuống túm chặt, cách này khá đơn giản. Một cách bẫy hổ nữa mà người Vân Kiều hay dùng là bẫy vòng, người ta lợi dụng ngọn cây cao, cứng được vít cong xuống mặt đất và nối với một chiếc dây phanh làm thòng lọng. Khi hổ vào ăn con mồi, chạm lẫy, thòng lọng thít lại, cây bật lên, kéo hổ thẳng lên trời. Khi hổ đau đớn gầm rú, người dân kéo ra đâm chết, có con sập bẫy, chưa kêu thì đã chết như bị treo cổ, có những con khi chết thối mới có người đi thăm bẫy phát hiện ra. Ngoài ra có loại bẫy bằng kẹp sắt nặng đến gần 50 kg, theo tập tính, khi hổ bắt trâu, chúng thường ăn trước bộ lòng, sau đó đem giấu phần thịt ở một nơi kín rồi khi đói tới ăn, người dân sẽ theo dấu con hổ và đem bẫy đến đặt, thường thì bên cạnh xác con trâu đó và phát một luồng sáng nhỏ để chắc chắn hổ đi vào lối này, rồi đặt bẫy để hổ giẫm vào.

Người ta cũng dùng bộc phá vào những con mồi, chẳng hạn như con heo đã thối rữa, hổ rất thích ăn thịt thối nên nó hay quay lại ăn những chỗ thịt thừa. Thông thường khi bắt được một con heo thì hổ sẽ ăn hết đôi mông, bộ lòng con heo rồi giấu phần còn lại trong khe đá, kéo cành lá đắp kín để hôm sau ăn tiếp, khi bắt được con trâu hay con bò thì hổ thường xác con trâu trong một bụi rậm, nó sẽ phanh bụng trâu ra, moi ruột, dạ dày vung vãi khắp nơi, da thịt bị xé ra, thịt ở mông vai sẽ được ăn hết. Những người thợ săn còn cho rằng con hổ khi trúng bẫy, dù bị vướng một chân vào dây thừng của bẫy nhưng nó hoàn toàn có thể giết người bởi móng vuốt và sức vóc to lớn của nó và những người không có nghề sẽ bị con hổ sát hại ngay.

Dồn đuổi

Dùng các tiếng động, lửa, đông người dọa dẫm để xua đuổi hổ về vị trí đã định sẵn (thông thường có đặt bẫy), người ta sẽ dùng tiếng chiêng trống khua lên om sòm gây kinh hoàng cho hổ. Thông thường với cách này, người ta sẽ tổ chức thành từng đoàn, sử dụng tất cả những gì có thể gây tiếng động, từ trống, mõ đến thanh la, thùng nhằm làm cho hổ hoảng sợ, tổ chức nhiều phường săn đi lùng đuổi hổ. Những tiếng chiêng, tiếng trống âm vọng dồn dập hòa cùng tiếng phèng la rền rĩ, tiếng mỏ inh ỏi, khiến cho hổ trong vòng vây cuống cuồng tìm đường thoát thân, người ta đặt sẵn nhũng hàng rào cao đến 4-5 thước và khá chắc chắn khiến nó không nhảy qua được hàng rào cây, lúc này hổ chỉ biết gầm thét điên cuồng và tiếp tục chạy vòng quanh, trong khi vòng vây hàng rào được hàng trăm người bên ngoài nhích khép dần lại. Cuối cùng, hổ tự tra đầu vào chiếc thòng lọng bện bằng tre cật. Trong xâu được chia thành từng nhóm nhỏ, nhóm đài, nhóm lưới, Mỗi nhóm bắt cọp được gọi là xâu, mỗi xâu có 12 người được trang bị giáo mác, đài, lưới, Mỗi nhóm từ 2 đến 4 người. Ngoài ra còn có 4 nữ thanh niên khỏe mạnh đi theo các xâu phục vụ hậu cần trong quá trình giăng ải. Những người còn lại cầm giáo mác, đánh chiêng, gõ mõ để xua cọp vào ải. Họ sẽ cử người có kinh nghiệm lần theo dấu vết, xác định vị trí hổ.

Lưới bắt hổ kết bằng một loại cây thân leo ở rừng già, to bằng bắp tay người lớn gọi là lưới sót, Lưới sót có chiều cao khoảng 3 m và chiều dài 25–30 m. Và mỗi lần vây bắt hổ phải cần đến 20-30 tay lưới sót. Cây leo được đập dập cho đến lúc nhũn, bóc bỏ lớp vỏ ngoài và nấu bằng lửa than. Việc kết lưới rất công phu, sau vài tháng trời mới xong một tay lưới, với chiều dài 15-20m, cao 4-5m, ô lưới rộng 10 cm một số nơi khác, có đài là cọc chống thường làm bằng gỗ hoặc tre già cao khoảng 12 mét để dựng lưới. Lưới được bện (dệt) từ vỏ cây sót. Bóc vỏ cây sót về, dùng chày gỗ đập nát rồi ngâm vào nước vôi chừng vài tuần, bột gỗ rửa hết chỉ còn trơ lại sợi. Sợi cây sót có độ bền và không bị mục nát. Mắt lưới rộng khoảng 20 phân, mỗi tay lưới rộng 8 mét, cao 3,5 mét.. Nếu hổ không vào rọ thì có phương án phần lưới cố định được trai đinh nhổ néo lên, áp chặt con hổ lại. Vòng vây cứ khép dần, dồn con hổ về phía trung tâm lưới cho đến khi nhìn thấy thân hình vằn vện hung dữ của con hổ lồng lộn giữa đám cây rừng. Khi con hổ nhào lên phần lưới, trai đinh với đinh ba, giáo mác trên tay chờ con hổ lao lên lưới là đâm thẳng vào yết hầu, vào thân thể hổ đến khi hổ kiệt sức. Khi con hổ thương tích đầy mình nằm im không còn sức kháng cự nữa thì lưới bắt đầu được hạ xuống và trai đinh làng Thủy Ba lao vào trói chặt con hổ lại.

Động vật

nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ bằng voi ở Đông Ấn Độ Săn hổ bằng voi là một cách săn hổ khá an toàn và rầm rộ nhưng vô cùng tốn kém. Để tổ chức được một cuộc săn bắt có quy mô khá lớn bằng voi như trên, những người tổ chức phải có mối liên hệ với các dân tộc bản địa. Cách này thường được tiến hành ở Ấn Độ, Tây Nguyên...sau khi thỏa thuận các tay thợ săn chịu trách nhiệm điều hành cuộc săn sẽ thuê người dân tộc và voi của họ với giá cao. Mỗi cuộc săn hổ bằng họ thường thuê sử dụng 10 con voi thuần chủng và hơn 20 người dân tộc bản địa. Sau đó, người ta sẽ cử người vào rừng thám thính những nơi hổ thường xuyên xuất hiện để chắc chắn rằng cuộc săn hổ vào ban ngày sẽ thành công.

Sau khâu chuẩn bị, các tay súng cùng khách hàng sẽ được quản tượng cho cưỡi voi, kéo vào rừng. Những người dân tộc bản địa chia thành từng tốp mang theo vũ khí, thanh la, chiêng trống. Đến khu vực đã được báo trước có hổ, đoàn người sẽ bao vây khu vực, nổi chiêng trống, thanh la, đánh động hổ thức giấc. Họ cố tạo nhiều tiếng động để con mồi tháo chạy tứ phía, vòng vây gồm người, voi, chiêng trống, thanh la, lao, xà gạc, cung, nỏ xiết chặt dần và sau đó những người ở trên lưng voi dùng súng hạ sát hổ. Những cách săn hổ như trên chỉ mang tính giải trí và dần lui vào lãng quên bởi chi phí cho mỗi lần tổ chức khá lớn.

Sử dụng chó săn để săn hổ theo phương pháp này thì người ta phải huấn luyện một bầy chó săn thuần thục, đặc biệt là khi săn hổ trong rừng taiga. Khi gặp phải con hổ, những con chó sẽ bắt đầu sủa dữ dội, đồng thời cầm chân con hổ bằng việc bu vào cắn vào phía chân sau hoặc mông của con hổ. Con hổ buộc phải quay lại đối đầu. Khi con hổ cuối cùng bị dồn ép và những con chó thường sẽ làm cho tiếng sủa chói tai làm cho con hổ trở nên cực kỳ căng thẳng. Một nửa trong số các con chó sẽ tiếp tục bao quanh con hổ, trong khi những con chó khác được nghỉ ngơi. Mặc dù con hổ có sức mạnh rất gê gớm những con hổ thường không trụ vững trước những con chó trừ khi nó bị dồn ép và nhiều khi phải tháo chạy, điều này liên tưởng đến việc vây đánh hổ của những con sói lửa. Tuy nhiên, các giống chó săn nội địa ở Việt Nam cũng giống như giống chó nhà rất sợ hổ, khi thấy có khí của hổ trong bán kính gần 1 km, giống chó săn cũng không có con nào dám đến gần những con chó săn khi đánh hơi thấy hổ là đã không dám đánh hơi tiếp nữa mà cứ quanh quẩn bên con người nhất là ở Miền Tây sông nước, khi đang đi rừng mà thấy đàn chó săn cụp đuôi, sợ sệt co cụm lại là dấu hiệu nhận biết con hổ đang ở gần và họ chọn giải pháp là lùa bọn chó xuống xuồng và rời khu vực đó.

Một phương pháp khác là sử dụng ngựa chiến để săn hổ. Ngựa chiến được sử dụng bởi các sĩ quan kỵ binh trong thế kỷ thứ 17 ở Ấn Độ dưới triều đại của những người cai trị từ Mông Cổ, những kỵ binh dũng mãnh thiện chiến sau khi đuổi theo những con hổ cho đến khi nó kiệt sức, các kỵ sĩ sẽ phi nước đại xung quanh những con hổ tạo thành một vòng tròn và đường kính ngày càng xiết lại, vòng vây ngày càng khép chặt, và sau đó họ sẽ thúc ngựa lao lên rạp người và giết chết con hổ với một nhát chém.

Chiến lợi phẩm

Nhiều người Trung Quốc vẫn luôn tin rằng nhiều bộ phận của con hổ có tác dụng trong y học, bao gồm các tác dụng giảm đau và kích dục. Không có bất cứ một bằng chứng khoa học nào chứng minh điều này. Việc sử dụng các bộ phận của hổ trong y học đã bị cấm ở Trung Quốc, và chính phủ đã liệt một số tội liên quan đến việc săn trộm hổ vào loại có thể bị xử tử hình. Hơn nữa, tất cả việc buôn bán các bộ phận của hổ đều là trái phép dưới công ước về việc buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã và việc bán trong nước cũng đã bị cấm ở Trung Quốc năm 1993.

Trong Đông y, xương hổ và gần như tất cả các bộ phận cơ thể hổ được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc cho một phạm vi sử dụng có mục đích, bao gồm thuốc giảm đau. Các bộ phận của hổ được sử dụng trong thuốc Đông Á truyền thống, đặc biệt là trong y học cổ truyền Trung Quốc nơi mà nhiều người tin rằng các bộ phận hổ có nhiều dược tính. Khi giá lông hổ được bán rất cao trên thị trường chợ đen và việc phá hủy môi trường sống, nạn săn trộm dùng cho y học đã làm rất nhiều quần thể hổ giảm trong tự nhiên. Một thế kỷ trước, người ta ước tính có hơn 100.000 con hổ trên thế giới, bây giờ, con số toàn cầu có thể được dưới 2.500 cá thể hổ được nuôi nhốt trưởng thành.

Pín hổ

Bên cạnh đó, theo quan niệm của nhiều người thì hổ, loài vật đã đi vào huyền thoại về sức mạnh tình dục với biểu tượng là chiếc pín hổ (tức dương vật của con hổ) mặc dù trên thực thế khả năng sinh dục của hổ cũng chỉ ở mức bình thường. Nhiều người Việt Nam hay người Trung Quốc vẫn rất tin vào công dụng của những sản phẩm làm từ động vật hoang dã, ăn gì bổ nấy, con gì càng khỏe, càng quý hiếm thì càng tốt và do hổ là con vật khỏe hàng đầu nên pín hổ được săn lùng ráo riết. Ngẩu pín vừa được ngâm rượu, vừa được chế biến làm món ăn.. Trên thị trường thì pín hổ có giá mỗi cái khoảng 1 đến 1,5 triệu đồng hoặc lên đến 1,7 triệu/cái và pín hổ cũng được bày bán nhiều trong các phiên hội chợ diễn ra ở các tỉnh lẻ. Ở Campuchia, sau khi săn được hổ, người Campuchia lấy xương thịt nấu cao, nanh đánh bóng bán làm vật trừ tà, còn pín được lóc ra, đem sấy hoặc phơi khô.

Thịt hổ

Một trong những lý do một số người dân săn hổ là muốn ăn thịt hổ. Người Pa Kô, Vân Kiều ở Quảng Trị chuyên săn hổ giết thịt, nấu cao cứ như bắt mèo. Người ta quan niệm rằng sức khoẻ tốt, chân khỏe, mắt sáng, đi rừng không mệt là vì ăn nhiều thịt hổ, thợ săn khi bẫy được hổ thì xẻ thịt chia đều cho cả bản. khi bắt được hổ rồi, thợ săn sẽ chặt cây xâu cả con hổ treo lên nướng, rồi cùng cả bản xẻo thịt ăn. Giống thịt hổ phải tẩm ướp nhiều loại gia vị mới ăn được, nêu không sẽ hôi, tanh và ngái, khó ăn. Mấy thập kỷ trước, ở Hướng Hóa hổ nhiều đến nỗi người Vân Kiều ở Pa Nang ăn chán, xương hổ đầy suối Sê Pôn. Người Sán Dìu thường đi săn thú rừng nói chung và săn Hổ nói riêng lấy thịt để cải thiện bữa ăn trong gia đình. Món thịt Hổ cũng được người Sán Dìu coi là món đặc sản, đặc biệt là kiểu chế biến món ăn thịt Hổ kiến đốt.

Thịt Hổ mới mổ còn nóng, cắt từng miếng khoảng một kg treo ngay vào các tổ kiến trên cành cây rừng để kiến bâu kín vào miếng thịt nóng, những miếng thịt đó lại rất thơm ngon và không bị ôi thiu, mỗi miếng thịt đem treo vào tổ mỗi loài kiến khác nhau sẽ có nhiều hương vị khác nhau, sau đó các miếng thịt đem về dội qua nước muối loãng cho sạch bụi bẩn, để ráo nước rồi đem thui trên bếp than hồng cho chín tái, thái miếng mỏng bày ra đĩa từng loại để nhắm rượu. Thịt Hổ kiến đốt không chỉ dễ tiêu hoá mà còn là vị thuốc chữa bệnh thần kinh hoặc bệnh thấp khớp bởi nọc kiến cũng là một vị thuốc quý trong Đông y.

Ngày nay, ở Việt Nam còn xuất hiện món thịt hổ khô có xuất xứ từ Trung Quốc, tại các hàng quán bán quà vặt trước cổng một số trường học, đây là một thứ quà lạ có nhãn mác bắt mắt giá chỉ khoảng 3.000 đồng/gói, Trên bao bì có in hình con hổ, nhãn mác đều ghi bằng chữ Trung Quốc tạm dịch là Khô hổ thịt, trong mỗi túi có chừng gần chục miếng thịt nhỏ chừng ngón tay cái màu nâu xậm được tẩm ướt gia vị, miếng thịt hơi dính, bốc mùi khá khó chịu. Khi ăn, miếng thịt khô có vị mặn, ngọt, chua, cay và rất dai. Khi đốt trên ngọn lửa, miếng thịt cháy nhanh, nhưng không có mỡ chảy ra, khói bốc lên cũng không giống mùi thịt mà lại rất giống với mùi gỗ cháy, người ăn tin rằng khi ăn thịt khô hổ sẽ chống được buồn ngủ, lại có sức khỏe Có ý kiến cho rằng nó được làm từ bột mỳ, thịt lợn, hàn the và hoá chất tạo hương liệu Cụ thể, sau khi mua thịt lợn nạc, người ta sẽ phân loại thịt để làm thịt bò khô dạng sợi, hay thịt hổ khô dạng miếng theo độ lớn nhỏ và dày mỏng của miếng thịt. Công đoạn tiếp theo là ướp hàn the để thịt có độ tươi và săn, cho nhiều hàn the thì thịt heo sẽ săn chắc gần như thịt bò. Rồi công nghệ làm màu, làm dai, tạo bột được trộn với hóa chất.

Sản phẩm khác

Trong quan niệm đời sống về con hổ, người ta đánh giá rất cao công dụng của xương hổ và loại thuốc trứ danh Cao hổ cốt, theo đó Cao hổ cốt có thể làm thay đổi chất lượng sức khỏe con người, cứu bệnh hiểm nghèo, giúp bệnh ung thư, cứu người hậu sản... do đó cao hổ, móng hổ, da hổ, nanh hổ và cả pín hổ vẫn được săn lùng ráo riết, người ta giết mổ hổ như bò, lợn, gà vịt, sản phẩm của hổ như da làm thảm, răng và vuốt để làm trang sức.

Người ta thường làm chiếc vuốt hổ, hoặc răng hổ bịt vàng bạc hoặc chiếc vuốt làm bằng sứ, kim loại cho trẻ con đeo để trừ tà ma, hoặc người lớn cũng đeo cho đẹp và tỏ ra oai vệ, người Campuchia khi giết hổ thường lấy nanh hổ đánh bóng bán làm vật trừ tà Xương hổ nếu được dùng để gối đầu thì ngủ yên không chiêm bao thấy những sự ghê sợ, hoặc treo lên giữa cửa nhà sẽ trừ được ma quỷ. Có giả thuyết cho rằng, râu cọp (hổ tu) cũng là một trong những thành phần chủ yếu của trò chơi ngải của các thầy phù thủy ma giáo đồng thời còn đó là quan niệm của một số người cho rằng râu hổ cắm vào búp măng tre có thể chế thành ma thuốc độc hại người để làm giàu những người thợ săn sau mỗi lần hạ được hổ thì việc đầu tiên họ cần làm là đốt đuốc thiêu rụi hoàn toàn bộ râu hổ đi. nhỏ|phải|Một bộ da hổ nhỏ|phải|Một chiếc nanh hổ, người ta tin rằng đeo nanh hổ thì có thể trừ được tà ma Một số câu chuyện về công dụng của những bộ phận trên người hổ:

  • Bộ da Hổ đem phơi khô, nhồi trấu vừa làm vật trang trí trong nhà, vừa làm bùa hộ mệnh là dáng hình và linh hồn con Hổ còn quanh quẩn, vừa để bảo vệ mọi người may mắn về sức khoẻ và an toàn cho các thành viên trong gia đình, ít khi gặp ốm đau và bệnh tật.
  • Xương của hổ nấu thành cao hổ hay còn gọi là cao hổ cốt, một cực phẩm quý hiếm.
  • Đuôi của hổ đôi khi được xay và trộn với xà phòng để tạo ra một thuốc mỡ để sử dụng trong điều trị ung thư da.
  • Những bộ xương được tìm thấy trong các chóp đuôi của con hổ được cho là có thể xua đuổi ma quỷ.
  • Nghiền xương hổ thêm vào rượu vang phục vụ như một loại thuốc bổ ở Đài Loan
  • Bàn chân của một con hổ đặc biệt là móng vuốt, khi nhúng trong dầu cọ và được treo ở phía trước của một cửa, được cho là có thể ngăn chặn linh hồn ma quỷ xâm nhập vào nhà và có thể xua đuổi tà ma.
  • Da hổ ngoài việc trang trí thì được cho là chữa sốt gây ra bởi bóng ma. Để sử dụng nó một cách hiệu quả, người sử dụng phải ngồi trên da của con hổ, nhưng nếu ngồi quá lâu trên da của con hổ thì cp1 truyền thuyết nói rằng người đó sẽ trở thành một con hổ.
  • Thêm mật ong để sỏi mật và áp dụng kết hợp với bàn tay và bàn chân được cho là điều trị áp xe một cách hiệu quả.
  • Râu của hổ khi đốt cháy cho là có thể chữa trị rết cắn.
  • Trộn não của một con hổ với dầu cọ xát hỗn hợp trên cơ thể là một cách chữa bị mụn trứng cá.
  • Cán nhãn cầu vào thuốc là một biện pháp khắc phục cho chứng co giật.
  • Râu hổ (hổ tu) được sử dụng để chữa bệnh đau răng.
  • Đeo móng của một con hổ như một mảnh đồ trang sức hoặc mang một trong túi sẽ giúp người ta vững tin và tránh việc thất thần.
  • Khi ăn trái tim của con hổ thì người ta nói sẽ nhân lê sức mạnh, khôn ngoan và can đảm.
  • Xương sườn của một con hổ được coi là một lá bùa may mắn.
  • Pín hổ được cho là một loại thuốc kích thích tình dục.
  • Xương nhỏ trong chân của một con hổ đeo vào vòng xuyến ở cổ tay của một đứa trẻ được cho là một cách chữa bệnh co giật.
  • Hổ con còn được dùng để ngâm rượu làm thuốc

Thực trạng

Những giá trị, lợi ích kinh tế từ hổ và các sản phẩm từ hổ như: cao hổ cốt, bộ da hổ, pín hổ, móng, vuốt hổ đã khiến nhiều người nhìn nhận hổ như là một đối tượng kinh doanh, săn bắt, nuôi nhốt. Tại Việt Nam, hổ bị buôn bán trái phép chủ yếu sử dụng trong các loại sản phẩm được cho là thuốc như cao hổ cốt, rượu hổ cốt. Ngoài ra, thịt, da của chúng được dùng để trưng bày hoặc làm thành các sản phẩm lưu niệm, Việt Nam vẫn là điểm nóng buôn bán hổ từ các quốc gia Đông Nam Á sang Trung Quốc, đồng thời để phục vụ nhu cầu trong nước. Tại thị trường chợ đen giá 2,5 - 3 triệu đồng/kg hổ, còn giá cao hổ cốt lên tới 7 - 8 triệu đồng/lạng.

Nuôi nhốt

nhỏ|phải|Một con hổ được nuôi nhốt, hổ nuôi tỏ ra hiền lành hơn nhiều so với đồng loại của chúng ở tự nhiên Số lượng hổ giảm nhanh chóng, cả nước Việt Nam ước chừng 200 con hổ hoang dã và 95 con trong các vườn thú, trại chăn nuôi. Bình Dương đang có nhiều nhất với một số chủ doanh nghiệp tỉnh này nuôi tổng cộng tới 63 con hổ trong đó có 3 chủ nuôi gồm một người nuôi 23 con, hai người còn lại mỗi người nuôi 09 con, chính quyền từng định tịch thu toàn bộ số hổ đang nuôi nhốt bất hợp pháp, giao cho tổ chức có chức năng nuôi nhằm bảo tồn nhưng gặp phải sự phản đối, nhiều người dân cho rằng nên để các chủ cơ sở được tiếp tục nuôi hổ vì mục đích bảo tồn. Tại Nam Phi, một thương gia đã mua hổ Bengal nặng 150 kg được đặt tên là Enzo về thay chó trông nhà. Enzo tỏ ra khá hòa hợp với ba con chó khác của ông bà chủ. Mỗi ngày nó ăn khoảng 4 kg thịt.

Ngoài ra ở Thanh Hóa hiện nay còn có trang trại nuôi dưỡng 11 cá thể hổ trưởng thành, con to nhất nặng trên 150 kg (Thức ăn của hổ chủ yếu là thịt lợn, thịt gà. Trung bình mỗi ngày hổ ăn hết khoảng 5 kg thịt lợn, thị gà). Ngoài ra, tại Khu du lịch Đại Nam còn có nuôi một số cá thể hổ Đông Dương. Bên cạnh đó, còn phát hiện được bốn con hổ trưởng thành tại điểm nuôi nhốt hổ trái phép tại xã Đô Thành (huyện Yên Thành, Nghệ An) trong căn phòng chưa đầy 15m² của một hộ dân, có tới bốn con hổ một phát hiện khác cho thấy còn có khoảng trên chục hộ cũng làm nghề này trong đó chính quyền đã bắt và xử lý 02 cá thể hổ để đưa về Khu Du lịch sinh thái trại bò ở xã Diễn Lâm (Diễn Châu). Nơi đó, hiện đang nuôi hàng chục cá thể hổ và nhiều động vật hoang dã khác.

Tại một số quốc gia châu Á thì hổ chính là nạn nhân lớn nhất của hoạt động buôn bán động vật hoang dã. Xương hổ để nấu cao, da làm thảm, răng và vuốt để làm trang sức. Trong các giao dịch tham nhũng, rõ ràng tặng hổ vẫn được coi là tốt hơn mang tiền mặt. Việc săn bắt hổ quá mức làm cho hổ trở nên khan hiếm trong khi nhu cầu ngày càng tăng, mặt khác những quy định pháp luật bảo vệ hổ ngày càng nghiêm ngặt, những nỗ lực bảo vệ và bảo tồn hổ hoang dã được chú trong cho nên nhiều đối tượng kinh doanh chuyển sang việc nuôi nhốt hổ để giết mổ, lấy các sản phẩm từ hổ để mua bán, kinh doanh. Cho đến nay, vẫn tồn tại những trại chăn nuôi hổ để thu lội nhuận. Ước tính rằng có khoảng từ 5.000 đến 10.000 con được thuần hoá một phần và đang được nuôi nhốt trong các trại hổ hiện nay. Tại Trung Quốc, nhu cầu đối với hổ lớn đến mức chúng được nuôi trong trang trại như nuôi gà, các trang trại nuôi hổ ở Trung Quốc rất lớn, với hàng ngàn con hổ bị nhốt, nuôi lấy giống và giết thịt như nuôi gà. trái|Trong điều kiện nuôi nhốt, mỗi ngày hổ ăn hết 4-5kg thị, chủ yếu là được cho ăn thịt heo, thịt gà và các loại xương heo, chân gà, cánh gà Tại Tà Khẹc, Lào có một trang trại nuôi hổ lớn nhất Đông Nam Á, và là nguồn cung cấp hổ cho thị trường Việt Nam, Trung Quốc đó là Trại Muang Thong. Trong số 700 con, khoảng 100 con đẻ tại trại. Còn lại từ Malaisia, Thái Lan, Myanma chuyển qua. Người nuôi dùng thuật ngữ chung (thuật ngữ của dân nuôi hổ, ngụ ý đang trong quá trình phối giống) tiền hổ giờ cũng vào khoảng 7 - 7,5 triệu USD, mỗi ngày cả trại phải mua khoảng 30 triệu tiền thịt gà cho hổ ăn. Mỗi con hổ trưởng thành ăn khoảng 4–5 kg thịt gà/ngày. Giá một kg hổ trên 1 tạ, bán ngay tại trại Muang Thong ở Lào hiện là 4.700 Bath (tiền Thái Lan, tương đương khoảng 140 USD). Loại dưới 1 tạ mua nấu cao thì không đến, chỉ khoảng 4.300 bath/kg. Giá hổ móc hàm (làm sạch lòng và nội tạng) là 3,3 triệu/kg, giao tận nơi (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình), nếu giao hàng ở Hà Nội, giá là 4 triệu. Con 1 tạ rưỡi thì khoảng 11 kg lòng và nội tạng, được 15-16 cân xương tươi, nếu hổ đẻ 3 lần rồi thì có khoảng khoảng 12 – 13 kg lòng. Móc hàm khoảng gần tạ rưỡi. Hổ già, xương mới tốt, hổ 3 - 4 năm thì xương không nặng.

Trong khi đó ở Việt Nam, người ta nuôi hổ như nuôi lợn. Những con hổ được nuôi nhốt tỏ ra khá hiền lành so với đồng loại của nó trong tự nhiên. Người lạ mặt có thể đùa, thậm chí nhổ râu.

Rủi ro trong nghề nuôi hổ rất lớn, có thể mất hàng trăm triệu bất cứ lúc nào, nếu hổ ốm đau mà không biết cách chăm sóc, Ngoài việc nuôi dạy chúng, những người nuôi hổ phải chăm hổ như bảo mẫu chăm con, và biết chữa khi ốm đau bệnh tật, nguy hiểm nhất là bệnh đi ngoài ra phân trắng, khi đó thì hổ coi như hết phương cứu chữa và chỉ còn cách chuẩn bị đá để ướp xác hổ rồi tìm cách bán.

Vận chuyển

Thái Lan được xem là một trong những trạm trung chuyển về nạn buôn lậu hổ. Các khu chợ đen dọc theo biên giới các quốc gia Myanmar - Thái Lan và Myanmar - Trung Quốc là cửa ngõ chết của loài hổ và các loài mèo lớn khác bởi nạn buôn bán bất hợp pháp các bộ phận của chúng đang lộng hành tại đây, các khu chợ đen tại thị trấn Mong La (biên giới Myanmar - Trung Quốc) và tại thị trấn Tachilek (biên giới Myanmar - Thái Lan) là đầu mối tiêu thụ các bộ phận của hổ như da, xương, móng vuốt, dương vật và răng. Tại Thái Lan, một tài xế xe tải đã bị bắt giữ cùng với 16 chú hổ con được giấu trong xe khi đi qua khu vực gần biên giới với Lào, cơ quan chức năng đã giải cứu 16 hổ con trong xe tải. Các chú hổ con được nhốt trong tám chiếc lồng bằng nhựa và chuẩn bị mang đến tỉnh Udon Thani. Ở Việt Nam, tại Hà Tĩnh, cơ quan chức năng đã Bắt giữ ôtô chở trái phép 4 hổ con còn sống có trọng lượng 22,5 kg Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện, bắt giữ ôtô 7 chỗ vận chuyển một con hổ ướp lạnh nặng gần 100 kg, hai đối tượng đi trên xe liền vứt xuống đường một bọc lớn bên ngoài bọc kín bằng chăn bông, rồi nhanh chóng bỏ trốn khỏi hiện trường.

Giết mổ, nấu cao

Sau khi nuôi hổ đến một giai đoạn nhất định, thường là hổ đã trưởng thành, thuần thục, người ta sẽ thực hiện việc giết hổ để lấy da, các sản phẩm khác và đặc biệt mổ lấy xương để nấu cao. Rất nhiều con hổ lần lượt vùi xương trong vạc lửa để chưng cất nên thứ cao nâu đen mà các đại gia tôn sùng là vị thuốc chúa, ăn vào thì khỏe, rượu cao hổ cốt được chưng cất công phu suốt bảy ngày bảy đêm nhỏ|phải|Tranh vẽ mô tả cảnh giết mổ hổ Bộ xương hổ khô khoảng 15 kg khoảng 450 triệu, nhưng bộ xương sư tử thì chỉ 120 triệu, thậm chí rẻ hơn. Một con hổ nặng 1,6 tạ, lọc được 11 kg xương thành phẩm, thêm 4 cân xương sơn dương và nấu được gần 3 kg cao. Con hổ tròn 500 triệu, công người nấu và gia vị hết gần 100 triệu, tính ra giá thành hiện tại, mỗi lạng cao hổ đã có giá 20 triệu đồng. 20 triệu đồng là cao hổ cốt tự nấu nhưng trên thị trường hiện nay, nhiều người rao bán cao hổ chỉ 7 triệu 1 lạng Làm hổ thì có thợ riêng, làng Phú Cường ở Vĩnh Phúc có nghề nấu cao hổ từ rất lâu, người dân người đi khắp các vùng trong cả nước kiếm sống bằng nghề nấu cao hổ thuê gọi là bánh dẻo tức là thợ nấu cao hổ, nhiều gia đình gia đình có nghề gia truyền nấu cao hổ, trung bình, giá công nấu một nồi cao từ 5–10 kg là 10 triệu đồng, 12–15 kg là 12 triệu đồng cho thợ nấu chính, còn thợ giúp việc 2 người là 3-4 triệu đồng /người và giá tuỳ thoả thuận.

Ngày trước, người ta nấu cao hổ bằng nồi gang 120 là nồi to nhất, nay người ta nấu bằng nồi inox, nấu cao bằng bếp âm, đào dưới lòng đất là chất lượng nhất. Cao hổ tốt, chuẩn nhất là nấu 60% xương hổ, còn 40% là đầu sơn dương, hoặc khỉ, gạc nai hoặc yếm rùa để làm chất kết dính. Ngoài ra phải có gia vị là đại hồi và củ thục địa để điều hoà mùi. Xương hổ là hoả, thực địa là thủy, hai thứ này điều hoà cho nhau, thì người sử dụng mới không bị nhức đầu, nóng trong người. Người ta sẽ cân hổ trước khi làm thịt,

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**San hô đen**, còn gọi là **san hô gai** hay **Antipatharia**, là một bộ san hô nước sâu mềm. Những loài san hô thuộc bộ này có thể được nhận biết bởi bộ xương kitin
nhỏ|San hô nước sâu _Paragorgia arborea_ và cá _Coryphaenoides_ ở độ sâu trên Davidson Seamount Sinh cảnh của **san hô nước sâu**, còn được gọi là **san hô nước lạnh**, mở rộng đến những phần
phải|nhỏ|Cành san hô tre với các lóng protein [[gorgonin.]] nhỏ|Các mảnh hóa thạch _Keratoisis melitensis_ (Goldfuss, 1826) từ vùng Hạ Pleistocen ở Cape Milazzo, Sicily, Ý. **San hô tre**, hay họ san hô **Isididae**, là
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Rạn san hô Nouvelle-Calédonie** nằm ở Nouvelle-Calédonie thuộc Nam Thái Bình Dương là rạn san hô chắn bờ liên tục dài nhất thế giới và là rạn san hô chắn bờ lớn thứ ba thế
[[Đa dạng sinh học tại rạn san hô Great Barrier, Úc.]] **Rạn san hô** hay **ám tiêu san hô** là cấu trúc aragonit được tạo bởi các cơ thể sống. Các rạn san hô thường
**San hô** là các động vật biển thuộc lớp San hô (_Anthozoa_) tồn tại dưới dạng các thể polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt
phải|Rạn san hô vòng Bokak ([[quần đảo Marshall) có đặc trưng là một vành san hô bao bọc lấy một vụng biển.]] **Rạn san hô vòng** (còn gọi là **rạn vòng**, **a-tôn** hoặc **ám tiêu
Đảo [[Vostok (đảo)|Vostok của Kiribati]] **Đảo san hô** hay **đảo rạn san hô** là một loại đảo nhiệt đới cấu tạo bởi vật liệu hữu cơ từ "khung xương" san hô và vô số sinh
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
**Rạn san hô Great Barrier** ("Đại Bảo Tiều" hoặc "Bờ Đá Lớn") là hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm hơn 2.900 rạn san hô riêng rẽ và 900 hòn đảo
**Rạn san hô Belize Barrier** là một loạt các rạn san hô trải dài theo bờ biển Belize, khoảng khoảng 300 mét (980 ft) ngoài khơi ở phía bắc và 40 km (25 dặm) ở phía nam
__NOTOC__ **Rạn san hô vòng Kure** (tiếng Anh: _Kure Atoll_, tiếng Hawaii: _Mokupāpapa_ hay _Kānemilohaʻi_) là một rạn san hô vòng ở cực bắc quần đảo Tây Bắc Hawaii và cũng là rạn san hô
**Rạn san hô Tubbataha** hay **Công viên tự nhiên Tubbataha** () là một khu bảo tồn tự nhiên nằm giữa biển Sulu, thuộc tỉnh Palawan, Philippines. Khu bảo tồn biển này bao gồm hai đảo
Rạn san hô viền bờ ở [[Eilat, Israel]] **Rạn san hô viền bờ** (**rạn viền bờ**), _rạn riềm_, _ám tiêu diềm_ (tiếng Anh: _fringing reef_) là loại rạn san hô phát triển rất sát đường
**Rạn san hô Apo** là một loạt các rạn san hô có diện tích 34 km vuông, trong vùng biển Sulu của tỉnh Tây Mindoro, Philippines. Nó chính là hệ thống rạn san hô đá ngầm
**Rạn san hô Scott và Seringapatam** là một nhóm gồm 4 đảo san hô nằm trên rìa của thềm lục địa Úc ở biển Timor, cách 190 dặm (khoảng 305 km) về phía tây bắc của
__NOTOC__ Rạn san hô chắn bờ ở [[Papeete, Polynésie thuộc Pháp]] **Rạn san hô chắn bờ** (**rạn chắn bờ**) hay **ám tiêu chắn** (tiếng Anh: _barrier reef_) là loại rạn san hô ngăn cách với
San hô trong Hệ thống Rạn san hô Trung Bộ châu Mỹ, [[Quintana Roo, Mexico | thumb ]] **Hệ thống Rạn san hô Trung Bộ châu Mỹ**, còn được biết đến với tên gọi phổ
thumb|right|Bản đồ của rạn san hô, nằm gần [[Brazil, Guiana thuộc Pháp và Suriname, với màu biểu thị cấu trúc chính của rạn san hô. _(ấn vào ảnh để phóng to)_]] **Rạn san hô Amazon**
nhỏ|400x400px|Vườn quốc gia trong Tam giác San Hô **Tam giác San Hô **là một thuật ngữ địa lý được đặt tên như vậy vì nó ám chỉ một khu vực đại khái trông giống hình
nhỏ|phải|[[Cá mú, loài thường thấy sinh sống ở các rạn san hô]] nhỏ|phải|[[Cá đuôi gai vàng, một con cá màu sặc sỡ ở rạn san hô]] **Cá rạn san hô** là các loài cá sống
**Tẩy trắng san hô** là hiện tượng polyp san hô đẩy các tảo sống trong mô của chúng ra khỏi cơ thể. Thông thường, polyp san hô và các tảo này có quan hệ nội
**Vương quốc đồng tính nam và đồng tính nữ Quần đảo Biển San hô** (tiếng Anh: Gay and Lesbian Kingdom of the Coral Sea Islands), còn được gọi là **Vương quốc Đồng tính Biển San
**Huy hiệu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** là biểu trưng do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ban hành để đại diện cho tổ chức thanh niên của
nhỏ|250 px|phải|Bản đồ Quần đảo biển San hô **Biển San Hô** là một biển ven lục địa ở ngoài bờ đông bắc Úc. Ranh giới về phía tây của biển này là bờ phía đông
Rạn san hô Kingman Điểm chiếu trực giao Rạn san hô Kingman trên địa đồ **Rạn san hô Kingman** là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước và không có người ở.
Rạn san hô vòng Palmyra nhìn từ vệ tinh Landsat, tỉ lệ 1:50.000 Rạn san hô vòng Palmyra, bản đồ Marplot, tỉ lệ 1:50.000 **Rạn san hô vòng Palmyra**, hay **đảo Palmyra**, là một rạn
**San hô đỏ** là tên thường dùng để chỉ _Corallium rubrum_ và một số loài san hô có quan hệ họ hàng gần. Đặc điểm nổi bật của san hô đỏ là độ bền và
nhỏ|phải|Quần đảo Biển San Hô **Lãnh thổ Quần đảo Biển San hô** là tập hợp của các nhóm đảo và bãi đá ngầm có diện tích nhỏ và hầu như không có dân cư sinh
**Bikini** ( hoặc ; Marshall: _Pikinni_, có nghĩa là "nơi của dừa"), đôi khi được gọi là **Đảo san hô vòng Eschscholtz** giữa những năm 1800 đến 1946 (xem phần Từ nguyên dưới đây để
thumb|[[Cá mập voi tại rạn san hô ngoài khơi bờ biển Ningaloo.]] thumb|Đường bờ biển Ningaloo năm 2012. **Bờ biển Ningaloo** là một Di sản thế giới nằm ở phía Tây Bắc Úc, tại một
**Họ San hô lỗ đỉnh** (**Acroporidae**) là một họ san hô thuộc bộ San hô cứng (Scleractinia). Tên khoa học xuất phát từ tiếng Hy Lạp _akron_ (nghĩa là "đỉnh"), ám chỉ sự hiện diện
**Phân ngành San hô** (**Anthozoa**) là một phân ngành động vật không xương sống thủy sinh bao gồm hải quỳ, san hô đá và san hô mềm, thuộc ngành Ngành Thích ty bào (Cnidaria). Các
**Bộ San hô cứng** hay **San hô đá** (danh pháp khoa học: _Scleractinia_) là các loài san hô có khung xương cứng. Chúng xuất hiện đầu tiên vào Kỷ Trias giữa và là hậu duệ
__NOTOC__ **Rạn san hô Maro** (tiếng Anh: _Maro Reef_, tiếng Hawaii: _Nalukākala_) là một phức hợp các hệ thống san hô hình mắt lưới thuộc quần đảo Tây Bắc Hawaii. Trong tiếng Hawaii, _Nalukākala_ nghĩa
**Đảo san hô Rocas** (tiếng Bồ Đào Nha: _Atol das Rocas_) là một đảo san hô ở Đại Tây Dương, thuộc bang Rio Grande do Norte, Brasil. Nó cách Natal 260 km (160 dặm) về phía
**Rạn san hô Middleton** là một rạn san hô vòng nằm ở phía bắc biển Tasman, cách đảo Lord Howe khoảng 150 km về phía bắc và cách bờ biển New South Wales khoảng 555 km ở
nhỏ| Cát san hô từ một bãi biển ở [[Aruba ]] **Cát san hô** là một tập hợp của cát của các hạt có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới biển
**Rạn san hô Elizabeth** là một rạn san hô vòng nằm ở phía bắc biển Tasman, cách đảo Lord Howe khoảng 150 km về phía bắc và cách bờ biển New South Wales khoảng 555 km ở
**Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** (viết tắt là **BCHTWĐ** hoặc **Trung ương Đoàn**) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
phải **Rạn san hô vòng Rose,** đôi khi được gọi là **Đảo Rose** hoặc **Motu O Manu** bởi cư dân sống ở quần đảo Manu'a lân cận, là một đảo san hô nằm trong lãnh
**Họ San hô khối** (**Poritidae**) là một họ san hô thuộc bộ San hô cứng (Scleractinia). Các loài thuộc họ này thuộc loại san hô tạo rạn. Kích thước và hình dáng của chúng rất
**San hô ống đàn ống** (_Tubipora musica_) là một loại san hô alcyonary có nguồn gốc từ vùng biển của Ấn Độ Dương và các khu vực trung tâm và phía tây của Thái Bình
**Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** còn được gọi **Ban Bí thư Trung ương Đoàn,** do Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
**Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** hay còn được gọi Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, là người đứng đầu Ban Chấp hành
**Rạn san hô Coreca** tạo thành một nhóm các khối đá Ý nằm trên Biển Tyrrhenian, ở Calabria nằm trong Frazione Coreca. Chúng là một nhóm mười khối đá: Capoto (lớn nhất trong số đó),
**Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** (còn được gọi **Ban Thường vụ Trung ương Đoàn)** là cơ quan thường trực của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn giữa
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Cá nạng hải rạn san hô** (_Manta alfredi_) là một loài cá đuối trong họ Mobulidae, những loài cá đuối lớn nhất trên thế giới. Trong số các loài nói chung được công nhận, nó