✨Biểu trưng loài vật

Biểu trưng loài vật

Động vật biểu tượng (Animal epithet) là một tính ngữ (tên gọi, cụm từ) văn học được sử dụng để chỉ cho một người hoặc một nhóm cộng đồng hoặc sự vật, hiện tượng, bằng cách gắn kết, liên tưởng với một số phẩm chất, đặc tính, yếu tố của một động vật (tính ký hiệu liên tưởng đến động vật). Trong lịch sử, con người thường liên hội tâm tư và tình cảm với các loại động vật khác nhau tương ứng theo đặc điểm của từng con vật đó, ví dụ, đặc điểm ngoại hình (hình thức, kích cỡ, màu sắc), thuộc tính bản năng, thức ăn, môi trường sống, tập quán sinh sống vì vậy, tên hay hình ảnh của con vật đó có những liên hội về văn hóa. Động vật ở vị thế này được phong cho ý nghĩa tôn giáo và với sức mạnh biểu tượng và ẩn dụ, nghĩa của thành tố động vật trong thành ngữ chính là nghĩa biểu trưng của thành ngữ, mọi thành ngữ có thành tố chỉ động vật đều mang nghĩa biểu trưng.

Các biểu tượng hay biểu trưng này có thể được xây dựng dưới dạng trào phúng, so sánh rõ ràng con người với động vật được biểu trưng, hoặc như phép ẩn dụ. Các biểu trưng động vật có thể mang tính miệt thị, dễ gây xúc phạm và đôi khi chúng được sử dụng trong các chiến dịch chính trị. Phúng dụ về loài vật và ẩn dụ đã được sử dụng từ thời cổ điển, ví dụ như Homer và Virgil để nâng cao hiệu ứng trong văn học, và tóm tắt các khái niệm phức tạp một cách chính xác. Danh xưng, tên họ, địa danh gắn với loài vật được ghi nhận ở các quốc gia khác nhau, có thể là hoán dụ, đặt tên cho nghề nghiệp của một người, nói chung là trong thời trung cổ; địa danh, đặt tên nơi một người sống; hoặc biệt danh, so sánh người đó thuận lợi hoặc bằng cách khác với loai vật được đặt tên, một biểu trưng loài vật trong tiếng Anh thì yếu tố thành tố con cừu thường được sử dụng nhiều, trong khi đó, ở ngôn ngữ tiếng Việt thì các tính ngữ chỉ về hoặc đề cập đến loài hổ thì lại xuất hiện rất nhiều.

Tính biểu tượng của động vật (Symbolique des animaux) liên quan đến động vật trong ý nghĩa hoặc gây ảnh hưởng như một biểu tượng. Con vật thường có biểu tượng của nó những con vật có thật hoặc hư cấu, đang tồn tại hoặc đã tuyệt chủng, động vật hoang dã hoặc vật nuôi thuần hóa, động vật sống trên cạn, dưới nước, trên không, động vật linh thiêng, cấm kỵ hoặc thô tục, động vật theo thuyết bí truyền. Biểu tượng của động vật một mặt liên quan đến khả năng của chúng để biểu thị, có thể là hành động, ảnh hưởng, mặt khác là hoàn cảnh khi đề cập đến. Tính biểu tượng của động vật liên quan đến hệ thống biểu thị của động vật, một mặt, chúng cùng nhau tạo thành một hệ thống, một tổng thể, một phức hợp, bởi vì các biểu tượng có nhiều ý nghĩa (đôi khi thậm chí trái ngược nhau), vì các biểu tượng thay đổi ý nghĩa theo các nền văn hóa, bởi vì ý nghĩa của một biểu tượng không bao giờ độc lập với các biểu tượng xung quanh nó (con chó như một biểu tượng thay đổi ý nghĩa tùy thuộc vào việc nó đối đầu với mèo hay sói).

Nguyên từ

Biểu trưng hay mở rộng là từ biểu tượng (còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu. Cụm từ ý nghĩa biểu tượng (epithet) được sử dụng rộng rãi như là một từ đồng nghĩa với tính kí hiệu. Trong các trường hợp này, khi hiện diện một tương quan giữa biểu đạt và nội dung, và đặc biệt nhấn mạnh trong ngữ cảnh này là tính quy ước thì là chức năng biểu tượng và các biểu tượng. Sự đối lập các biểu tượng với kí hiệu quy ước, sau khi nhấn mạnh trong biểu tượng có yếu tố hình hiệu (ikon). Theo một hệ thống phân loại khác thì biểu tượng được xác định như là một kí hiệu, mà ý nghĩa của nó là một kí hiệu loại khác hay thuộc ngôn ngữ khác.

Đối lập với định nghĩa đó là truyền thống giải thích biểu tượng như là sự biểu đạt kí hiệu cho một bản chất phi kí hiệu cao nhất và trừu tượng. Trong trường hợp thứ nhất ý nghĩa biểu tượng có tính chất lí tính rõ rệt và được sử dụng như một phương tiện để phiên dịch tương đồng bình diện biểu hiện sang bình diên nội dung. Chúng cần được phân biệt với các hồi ức chuyện cũ hay trích dẫn (điển cố), bởi vì trong các hiện tượng đó bình diện“bên ngoài của nội dung mà là một loại kí hiệu chỉ dẫn (index, chỉ hiệu), chỉ ra một văn bản còn rộng hơn mà nó ở vào quan hệ hoán dụ.

Cách tiếp nhận biểu tượng như thế chẳng phải ngẫu nhiên là nhóm biểu tượng chủ yếu có bản chất cổ sơ rất sâu sắc, và ngược lên đến thời đại chưa có chữ viết, khi các kí hiệu nhất định (và, thông thường, là cơ bản). Ký ức của biểu tượng cũng cổ sơ hơn ngữ cảnh văn bản phi biểu tượng, ngôn từ có tính chất không phải là kí hiệu quy ước, mà là biểu tượng. Biểu tượng khác biệt với các kí hiệu quy ước bởi sự có mặt của yếu tố biểu hình, bởi sự tương tự nhất định giữa các bình diện biểu hiện và nội dung. Cấu trúc của các biểu tượng của một nền văn hóa nào đó tạo nên hệ thống đồng hình và đồng chức năng của ký ức phát sinh của cá nhân. Những nghĩa hàm chỉ, nghĩa xã hội, nghĩa biểu cảm, nghĩa phản ánh và nghĩa thành ngữ có thể gộp chung lại dưới chung một loại nghĩa là nghĩa liên tưởng.

Ý nghĩa

Thành ngữ chứa các thành tố chỉ động vật là mảng đề tài phong phú và lí thú, thu hút được sự quan tâm, động vật được định nghĩa là Sinh vật có cảm giác và tự vận động được, người, thú, chim, sâu bọ đều là động vật. Trong đó có từ vựng về thành ngữ về nhóm chỉ các động vật khác như thú, chim, sâu bọ gọi chung là nhóm chỉ động vật. Thành ngữ có chứa thành tố chỉ động vật (thành ngữ động vật) được hiểu là những thành ngữ mà trong cấu tạo của chúng có những từ ngữ chỉ con vật được gọi là thành tố chỉ động vật. Đây là nhóm thành ngữ phản ánh chiều sâu văn hoá, thể hiện nét độc đáo trong tư duy, trong cách nhìn, cách cảm và lối nghĩ của mỗi dân tộc đối với hiện thực khách quan. Cùng chỉ một khái niệm, một hiện tượng, một trạng thái tình cảm nhưng mỗi dân tộc lại có cách lựa chọn những thành tố động vật khác nhau để diễn đạt, góp phần tạo nên nét tương đồng và dị biệt giữa nền văn hoá này với nền văn hoá khác.

Tính liên tưởng

Thành ngữ nói chung, nhóm thành ngữ này nói riêng được coi là tấm gương phản chiếu giá trị ngữ nghĩa–văn hoá và quan niệm nhân sinh độc đáo trong tâm hồn của người dân lao động. Tên gọi động vật là đơn vị từ ngữ nói chung, có ý nghĩa văn hoá nhất định, vì khi tên gọi động vật là thành tố trong các thành ngữ, nội dung ngữ nghĩa–văn hoá của các thành tố đó chính là việc liên tưởng chúng tới cái gì, là cách cảm nhận, cách đánh giá các con vật đó tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực. Các con vật với tên gọi của nó đã đi vào đời sống ngôn ngữ một cách tự nhiên nhất, ngày càng trở nên phong phú về mặt nhận thức và biểu hiện, thế giới động vật gắn bó, gần gũi với con người từ thuở khai thiên lập địa và mỗi tên gọi động vật thường gợi lên trong ý thức của người bản ngữ một sự liên tưởng nào đó, gắn liền với những thuộc tính, đặc điểm của con vật.

Liên tưởng là một trong những mối quan hệ cơ bản thể hiện rõ trong từ vựng ngữ nghĩa. Sự liên tưởng phụ thuộc vào những đặc điểm của sự vật mà từ đó định danh, hay nói cách khác, phụ thuộc vào những đặc điểm mà người bản ngữ đã quan sát mà nhìn nhận qua lăng kính của họ. Quá trình liên tưởng thường dẫn đến nghĩa bóng, nghĩa chuyển, thông qua một số phương thức như ẩn dụ, hoán dụ. Đây cũng là quá trình hình thành nghĩa biểu trưng từ tên gọi của một số động vật. Nó phản ánh cách cảm, lối nghĩ, cách đánh giá các sự vật, hiện tượng là tích cực hay tiêu cực, là tốt hay xấu, liên quan đến việc gán cho chúng những thuộc tính, những đặc điểm của con vật nào đó.

Nghĩa biểu trưng

Nghĩa biểu trưng là một trong những nghĩa văn hoá của từ ngữ chỉ động vật. Nó vừa có tính chất đặc thù của mỗi cộng đồng ngôn ngữ riêng biệt, vừa có tính chất phổ quát ở nhiều ngôn ngữ. Tiếp cận vấn đề nghĩa của thành ngữ động vật theo quan điểm ngữ nghĩa–văn hoá, coi nghĩa của từ là một phiến đoạn văn hoá nên cách nhìn nhận về vấn đề biểu trưng trong thành ngữ, có một số lớn thành tố chỉ động vật trong các thành ngữ mang nghĩa biểu trưng, nhất là khi những thành ngữ đó có dạng so sánh, còn có nhiều thành ngữ động vật khác rất khó hình dung ra tính biểu trưng của nó.

Nghĩa biểu trưng văn hoá hiện diện trong những từ chỉ động vật thông qua những hình ảnh động vật và những biểu trưng văn hoá của chúng, những từ chỉ động vật của mỗi thứ tiếng có những nét biểu trưng văn hoá rất đặc trưng do chịu sự chi phối của các nhân tố như hoàn cảnh địa lý, bối cảnh lịch sử, tôn giáo và phong tục tập quán nhưng biểu trưng ngữ nghĩa của nhóm từ có yếu tố động vật trong những văn hóa khác nhau đôi khi cũng có những nét tương đồng nhất định trong nghĩa biểu trưng văn hoá của lớp từ vựng chỉ động vật.

Hàm nghĩa

Nghĩa hàm chỉ là giá trị truyền đạt mà một từ, cụm từ, hay thành ngữ có bên cạnh ý nghĩa khái niệm thuần túy. Nghĩa hàm chỉ phụ thuộc vào các biến tố văn hóa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc thái độ xã hội hơn là ý nghĩa khái niệm mang lại. Nghĩa hàm chỉ của các từ rất khác nhau giữa các nền văn hóa. Nghĩa biểu cảm được truyền tải khi cảm xúc hay thái độ được biểu đạt trong ngôn ngữ. Trong những trường hợp khác, ý nghĩa biểu cảm được truyền đạt thông qua nghĩa khái niệm, nghĩa hàm chỉ, hay là nghĩa phong cách.

Theo nghĩa văn hàm là khi các từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ gợi lên một điều gì đó tức là đã gửi gắm hàm ý của một cộng đồng tộc người. Dù các thành tố chỉ động vật trong thành ngữ mang nghĩa biểu trưng điển hình (kiểu như ngu như bò hay chậm như rùa) hoặc chỉ phản ánh cách cảm nhận theo kiểu của cộng đồng người Việt (kiểu ngay lưng như chó trèo chạn, như đỉa phải vôi) mà không khắc hoạ nên hình tượng điển hình thì cả hai trường hợp này đều là kết quả của sự liên tưởng, liên hội theo cách riêng của một cộng đồng tộc người.

Để giải quyết thoả đáng tất cả những trường hợp trên của các thành tố chỉ động vật trong thành ngữ là quy chúng về một loại chung, đó là nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, bao gồm tất cả nội dung của nghĩa văn hoá này, ngoài nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, nghĩa của thành ngữ động vật còn mang tính phổ quát, thể hiện văn hoá chung của cộng đồng loài người, văn hoá chung liên tộc người và văn hoá đặc thù cho mỗi cộng đồng tộc người. Các hàm ý mà một cộng đồng tộc người muốn gửi gắm qua các thành ngữ có các thành tố chỉ động vật. Mỗi thành tố chỉ động vật đều có tính đa nghĩa, biểu hiện phong phú nội dung ngữ nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, mỗi thành tố động vật được liên tưởng đến các đặc điểm, tính chất khác nhau, gắn liền với nhận thức và tư duy của mỗi dân tộc. Mặc dù cùng khai thác một đặc điểm, tính chất nào đó của con vật nhưng mỗi dân tộc lại có sự liên tưởng khác nhau.

Về mặt văn hoá, có thể chia hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ dân tộc thành hai loại là từ vựng mang hàm nghĩa văn hoá và từ vựng thông thường, không mang hàm nghĩa văn hoá. Sự khác biệt giữa từ vựng văn hoá và từ vựng thông thường có thể thấy ở chỗ từ vựng văn hoá mang thông điệp văn hoá dân tộc, từ vựng văn hoá có các mối quan hệ với văn hoá dân tộc, bao gồm văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, có khi là sự phản ánh trực tiếp văn hoá, có khi là biểu trưng của văn hoá, từ vựng văn hoá cũng có khi là các từ có mối quan hệ sâu xa với văn hoá, ví dụ các từ ngữ xuất hiện từ các điển tích văn hoá hay các từ xuất hiện trong tôn giáo.

Hàm nghĩa văn hoá hay phông văn hoá thường xuất hiện nhiều ở lớp từ vựng cơ bản, lớp từ vựng chỉ tên gọi động vật, thực vật, các từ thuộc trường từ vựng này rất hàm súc về ngữ nghĩa, đồng thời có sự biến đổi ngữ nghĩa rất phong phú trong lời nói, trong đó đáng chú ý là một số từ trong lớp từ vựng tên gọi động vật thân thuộc, gắn bó với cuộc sống của cộng đồng. Từ cách diễn đạt trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc, có thể thấy được quan niệm tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín ngưỡng tôn giáo của những dân tộc đó. Hàm nghĩa văn hoá tiềm ẩn sâu sắc trong từ vựng, đặc biệt các từ là tên gọi động vật.

Sự khác biệt

Tuy có nhiều cụm từ so sánh đều dùng chung hình ảnh của một loài vật, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, tiếng Việt và tiếng Anh luôn có những nét diễn tả và nhìn nhận khác biệt vì vậy, không phải lúc nào đối tượng ví von trong các thành ngữ cũng sẽ y nhau. Nguyên nhân của sự khác biệt này là tiếng Việt hay dùng những con vật quen thuộc và được ưa chuộng hơn như chó, mèo, chim, kiến nhưng văn hóa phương Tây lại chuộng những con vật liên quan đến săn bắn và du mục hơn như ngựa, cừu, đười ươi và cũng liên quan nhiều đến môi trường biển cả hơn, trong khi Việt Nam thường liên quan đến đồng ruộng, rừng rú.

Hiện tượng trống nghĩa cho thấy, nghĩa biểu trưng thể hiện trong các từ chỉ động vật của một ngôn ngữ này không phải lúc nào cũng hiện diện ở một ngôn ngữ khác, ví dụ như một số nét biểu trưng văn hoá của từ chỉ tồn tại trong tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt và ngược lại, nguyên nhân của sự khác biệt trong nghĩa biểu trưng văn hoá các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh cho thấy sự xuất hiện những khoảng trống trong ngôn ngữ này so với ngôn ngữ kia hiển nhiên là có liên quan đến đặc điểm hoạt động thực tiễn và kinh nghiệm của người bản ngữ, cấu trúc ý nghĩa của từ có liên hệ gần gũi với những yếu tố của nền văn hóa dân tộc như tôn giáo, huyền thoại, lịch sử, phong tục tập quán, cũng như môi trường địa lý nơi người bản ngữ sinh sống.

So sánh

Việt-Anh

So sánh nghĩa biểu trưng văn hoá của các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong đó có sự giống nhau mang tính liên hội. Người Việt Nam và người Anh gần như có sự hiểu biết giống nhau về bản năng tự nhiên và tập tính sinh sống của động vật, từ đó có những liên tưởng giống nhau, chẳng hạn như hai ngôn ngữ Việt và Anh đều có liên hội nghĩa văn hoá giống nhau về một số con vật như cáo, chim, vẹt, khỉ và sói.

Nghĩa biểu trưng văn hóa của các từ chỉ loài động vật khác nhau nhưng nghĩa phản ánh giống nhau khi so sánh nghĩa biểu trưng văn hoá của các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh, có thể lấy ví dụ điển hình thông qua sự so sánh biểu niệm giữa hai loài hổ và sư tử:

Một ví dụ khác về loài động vật khác nhau nhưng nghĩa phản ánh giống nhau, sự liên tưởng khác biệt này chính là do lịch sử mỗi nước chi phối. Trong lịch sử phát triển của nền văn hoá Anh và Việt Nam, trâu, bò, ngựa và các loại gia súc khác là những người bạn đồng hành của người nông dân trong quá trình tăng gia sản xuất. Những con vật này có vị trí nhất định trong tâm trí của người dân nên có thể tìm được rất nhiều những ví dụ trong ngôn ngữ có từ chỉ động vật kể trên với biểu trưng văn hoá rất phong phú ở cả hai thứ tiếng.

Ở các nước phương Tây, ngựa là súc vật thồ hàng, những con bò được nuôi để lấy thịt và sữa, những con ngựa có nhiều cơ hội để thể hiện sức mạnh của chúng hơn những con bò nên trong tiếng Anh câu “strong as an ox” (khỏe như bò), “strong as a horse” (khỏe như ngựa) vẫn được dùng nhiều hơn. Ở Việt Nam, con trâu hiền lành và chăm chỉ, là động vật thồ hàng chính ở các vùng nông thôn. Người Việt Nam cũng đã biết dùng trâu vào canh tác nên hình ảnh con trâu đã gắn bó gần gũi, mật thiết với người nông dân Việt Nam. Con trâu là biểu tượng cho sức mạnh và sự chịu đựng đáng nể phục của người Việt Nam, người Việt Nam có các đặc ngữ là khoẻ như trâu. Điều đó thể hiện trong câu: mọi hôm khoẻ như trâu ấy, mà nay về nhà cứ nằm dài thườn thượt, trâu he cũng bằng bò khoẻ, làm như trâu (điên), hùng hục như trâu lăn, thằng đó trâu bò thật (để chỉ những người dai sức), trâu hay không ngại cày trưa, trâu ho hơn bò rống.

Do bởi các tục lệ sống khác nhau, các dân tộc khác nhau hiển nhiên có sự khác nhau về văn hoá trong các giá trị nhận thức cũng như tiêu chuẩn thẩm mỹ. Con vật có biểu trưng văn hoá khác nhau giữa văn hoá Anh và Việt Nam có lẽ là con chó. Cùng phương tiện biểu đạt nhưng nghĩa hàm chỉ khác nhau. Nhiều từ trong tiếng Anh chỉ động vật có nghĩa hàm chỉ khác xa so với những từ tương đồng khi chúng được dịch ra tiếng Việt, ví dụ điển hình là hình tượng về con chó. Từ chó là một ví dụ đặc trưng giữa hai nền văn hóa Anh và Việt Nam. Chó/cẩu trong tiếng Việt và dog trong tiếng Anh truyền đạt ý nghĩa như nhau về mặt khái niệm, nhưng nghĩa hàm chỉ của từ chó ở mỗi thứ tiếng là khác nhau. Ngoài ra, còn có một số trường hợp rất khác biệt, cụ thể là khi xét về hình thức thì hoàn toàn giống nhau nhưng hàm ý chứa đựng lại hoàn toàn mang nghĩa trái ngược.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
** Động vật biểu tượng ** (_Animal epithet_) là một tính ngữ (tên gọi, cụm từ) văn học được sử dụng để chỉ cho một người hoặc một nhóm cộng đồng hoặc sự vật, hiện
**Biểu tượng động vật** hay **động vật biểu trưng** (Animal symbolicum) hay **hình tượng động vật** hiểu theo nghĩa đen là "_làm biểu tượng_" (symbol-making) hay "_động vật tượng trưng_" (symbolizing animal) là một định
nhỏ|phải|Voọc ngũ sắc hay chà vá chân đỏ - được ví là nữ hoàng linh trưởng, là loài biểu tượng của bán đảo Sơn Trà và [[Đà Nẵng]] Trong bảo tồn sinh học, **loài biểu
**Tên gọi loài vật** (_Animal name_) chỉ về cách mà người ta gọi một loài động vật cụ thể. Đối với nhiều loài động vật, đặc biệt là những con đã được thuần hóa (động
nhỏ|phải|Lợn được coi là loài ô uế, những người theo [[Hồi giáo và Do Thái giáo bị cấm không được ăn thịt lợn dưới bất kỳ hình thức nào, do lợn bị coi là giống
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
nhỏ|[[Bò nhà là một loài động vật được nhắc đến rất nhiều trong Kinh Thánh, chúng là loài chứng kiến cảnh Chúa Giê-su giáng sinh]] nhỏ|phải|Con cừu được nhắc đến trong Kinh thánh như là
**_Trại súc vật_** (tên tiếng Anh là **_Animal Farm_**) là một tiểu thuyết ngụ ngôn của George Orwell, xuất bản lần đầu tiên ở Anh vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Cuốn sách kể
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
nhỏ|phải|Biểu tượng chữ Vạn trong Phật giáo ở Nepal **Các biểu tượng may mắn** (_Lucky symbols_) là một số sự vật, hiện tượng, đồ vật, hình dáng hoặc các chỉ dấu, điềm báo mà khi
**Sinh vật huyền thoại Trung Hoa** là những sinh vật (động vật) trong các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, huyền thoại và trong các tác phẩm văn học của Trung Hoa và có sự
nhỏ|phải|Bánh xe Pháp luân **Biểu tượng Phật giáo** (_Buddhist symbolism_) là việc sử dụng các biểu tượng (_pratīka_) như một phương pháp thể hiện nghệ thuật nhằm trình bày các phương diện triết lý Phật
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
nhỏ|phải|[[Hoa hồng đỏ|Bông hồng đỏ thắm tượng trưng cho tình yêu nồng nàn, cháy bỏng, lời tỏ tình lãng mạn. Từ những năm 1880, hoa hồng đỏ đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
nhỏ|phải|Bò trắng là sinh vật thần thoại trong [[Ấn Độ#Văn hoá|văn hóa Ấn Độ cũng như trong Phật giáo, người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo rất tôn sùng con bò và không giết mổ
Một **biểu tượng quốc gia** là hình ảnh tượng trưng và đại diện cho một quốc gia. Ngoài ra nó còn được thể hiện với các hình thức phong phú và đa dạng. Những loại
Cùng với văn hóa thế giới, văn hóa Á Đông, trong **văn hóa Trung Quốc**, hổ là biểu tượng của uy quyền và thanh thế, những sản phẩm xa xỉ làm từ da hổ hay
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|phải|Một con [[bò được trang điểm hoa văn ở Sisdağı, Thổ Nhĩ Kỳ, con bò được nhắc đến rất nhiều trong Kinh sách của đạo Hồi]] **Động vật trong Hồi giáo** là quan điểm, giáo
nhỏ|phải|Bò rừng Bizon từng được ghi nhận là có quan hệ đồng tính nhỏ|phải|[[Cừu nhà là loài động vật duy nhất (trừ loài người) có những cá thể đực chỉ giao phối đồng tính trong
nhỏ|[[Kim quy]] **Sinh vật huyền thoại Việt Nam** gồm các loài vật trong các câu chuyện thần thoại Việt Nam, trong truyền thuyết, câu chuyện cổ tích cho đến những câu chuyện dân gian, những
nhỏ|phải|Tượng hổ trong một ngôi chùa Phật giáo Trung Hoa Tại Trung Quốc, tập tục **sùng bái và thờ cúng hổ** cũng bắt nguồn từ khu vực hổ thường xuyên hoạt động, sau đó lan
**Động vật ăn lá** hay **động vật ăn thảo mộc** (tiếng Latin: Folivore) là các loài động vật ăn cỏ (thực vật) nhưng đã có sự chuyên biệt hoá trong chế độ ăn chủ yếu
nhỏ|phải|[[Hổ là loài bảo trợ của hệ sinh thái nơi chúng hiện diện, ở châu Á chúng cũng được coi là loài chủ chốt và là loài biểu trưng]] **Loài bảo trợ** (hay cũng còn
nhỏ|phải|Một con dê đang gặm cỏ **Tập tính ăn** là quá trình mà các sinh vật, thường là động vật tiêu thụ thực phẩm để nuôi dưỡng bản thân thông qua các hành vi, thói
nhỏ|phải|Hình chụp thí nghiệm con ngựa Hans đang trổ tài đếm số, sau này thí nghiệm đó bị cho là ngụy biện **Động vật biết đếm** hay còn gọi là **cảm giác số ở động
nhỏ|phải|Một con [[hổ đang cắn cổ con linh dương mặt trắng, vết cắn từ những chiếc nanh dài của nó có thể xuyên vào tận xương và tổn thương đến hệ thần kinh dẫn đến
**Hệ động vật ở Mông Cổ** là tập hợp các quần thể động vật đang sinh sống tại Mông Cổ hợp thành hệ động vật ở quốc gia này. Đặc trưng của hệ sinh thái
nhỏ|phải|Dế là loài vật đi vào các tác phẩm văn học nổi tiếng **Côn trùng đóng vai trò quan trọng trong đời sống và văn hóa của con người** chúng gắn kết với đời sống
**_Người đẹp và quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Beauty and the Beast_**; còn có tựa Việt khác là **_Người đẹp và quái thú_**) là phim điện ảnh hoạt hình mang yếu tố nhạc kịch
nhỏ|phải|Cảm xúc buồn bã của một con [[tinh tinh bị giam cầm trong sở thú]] nhỏ|phải|Tâm trạng của những con thỏ trước khi bị làm thịt **Đau buồn ở động vật** là những trải nghiệm
nhỏ|phải|Một con [[lợn hoang ở Mỹ, chúng xuất hiện từ thế kỷ 16, đến nay ba phần tư số bang với hơn hơn 5 triệu con lợn hoang đang sống, chúng gây nên thiệt hại
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Biểu tình Belarus 2020–21**, còn gọi là **Cách mạng dép** hoặc **Cách mạng chống gián**, là một loạt các cuộc biểu tình chính trị chống lại chính phủ Belarus và tổng thống Alexander Lukashenko. Các
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh
nhỏ|phải|[[Oryx beisa callotis|Linh dương tai rìa (Oryx beisa callotis) có khả năng trữ nước bằng cách tăng nhiệt độ cơ thể và lấy nước từ thức ăn, bằng cách này chúng không cần phải uống
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
nhỏ|phải|Sơn dương Tây Kavkaz là một trong những biểu tượng của hệ động vật Azerbaijan nhỏ|phải|Loài [[sẻ ngô râu (Panurus biarmicus)]] **Hệ động vật Azerbaijan** (_Fauna of Azerbaijan_) hay **Vương quốc động vật ở Azerbaijan**
nhỏ|phải|[[Heo vòi được ghi nhận là biết tìm ăn đất sét để trị các chứng về đường ruột]] **Động vật tự chữa bệnh** (tên gọi khoa học: _Zoopharmacognosy_) là một hiện tượng ghi nhận được
nhỏ|phải|Những con [[hươu sao Nhật Bản ở Công viên Nara ở Nhật Bản, chúng là loài hoang dã nhưng đã được dạy thuần và thường tiếp xúc với con người]] **Động vật dạy thuần** hay
**Côn trùng** hay còn gọi là **sâu bọ**, là một lớp sinh vật thuộc về ngành động vật không xương sống, chúng có bộ xương ngoài làm bằng kitin. Cơ thể chúng có ba phần
nhỏ|phải|[[Hươu đỏ là loài được xếp vào danh sách 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất, chúng hủy diệt hệ thực vật ở những nơi chúng sinh sống, nơi không có thiên địch kiểm soát