✨Động vật ăn lá

Động vật ăn lá

Động vật ăn lá hay động vật ăn thảo mộc (tiếng Latin: Folivore) là các loài động vật ăn cỏ (thực vật) nhưng đã có sự chuyên biệt hoá trong chế độ ăn chủ yếu chỉ là các loài lá cây. Những chiếc lá phát triển hoàn toàn sẽ chứa một tỷ lệ cao của các hợp chất khó tiêu hóa như cellulose và ít năng lượng hơn so với các loại thực phẩm khác, và thường độc hại. Vì lý do này, động vật ăn lá (folivorous) có xu hướng tiêu hóa lâu hơn và chuyển hóa chậm, nhiều loài có cấu trúc miệng đặc biệt để thích nghi với việc bứt lá và nhai lá.

Nhiều cá thể tranh thủ sự hỗ trợ của các vi khuẩn cộng sinh để giải phóng các chất dinh dưỡng trong chế độ ăn uống của chúng. Ngoài ra, như đã được quan sát thấy ở các loài linh trưởng từ các loại thú ăn lá (folivorous), chúng biểu hiện việc cực kỳ thích ăn lá non, vì có xu hướng dễ dàng hơn để nhai nhỏ do lá non thường mềm hơn, thường có nhiều năng lượng và protein, và ít chất xơ và các chất độc hơn lá trưởng thành. Nhiều người thích ăn thịt rừng, nhất là hươu nai vì quan niệm rằng chúng ăn nhiều loài thảo mộc và do đó thịt chúng sẽ có giá trị chữa bệnh.

Ví dụ về các loài động vật ăn lá bao gồm:

  • Động vật có vú: Hươu đùi vằn (okapi), lười, thú có túi, gấu túi và các loài khỉ. Đặc biệt loài hươu cao cổ đã tiến hóa để có cái cổ dài và có thể bứt lá trên cao.
  • Các loài chim: Chim Opisthocomus hoazin của vùng Amazon và những con vẹt Kakapo của New Zealand
  • Bò sát: Cự đà, kỳ nhông được ghi nhận là một loài bò sát ăn lá
  • Côn trùng: Các loại sâu bướm, ong cắn lá, bọ cánh cứng, sâu vẽ lá và Orthoptera
  • Những loài khác: nhiều loài sống ở trên cạn, trên nền đất như ốc sên và sên

Tổng quan

nhỏ|phải|Một con hươu đang ăn lá Các loài ăn thực vật đã tiến hóa nhiều lần giữa các nhóm khác nhau của giới động vật. Các vật có xương sống đầu tiên là piscivores, sau đó là động vật ăn côn trùng, động vật ăn thịt và cuối cùng là động vật ăn cỏ. Kể từ khi một tập hợp phức tạp của sự thích nghi cần thiết cho việc ăn các loại thực vật nhiều xơ (như thay đổi cấu trúc của răng, hàm, và đường tiêu hóa) và chỉ có một tỷ lệ nhỏ của động vật bốn chân còn tồn tại là động vật ăn cỏ bắt buộc, nó có thể là động vật bốn chân đầu chuyển sang là động vật ăn thực vật bằng cách trở thành nhữ Omnivory.

Việc này đã được quan sát và thấy rằng động vật ăn lá folivory là cực kỳ hiếm trong số các động vật có xương biết bay. Việc này xét vào thực tế thì thấy rằng những chiếc lá rất nặng nề, chậm tiêu hóa và chứa ít năng lượng so với các loại thực phẩm khác. Loài chim Opisthocomus hoazin là một ví dụ về một con chim ăn lá folivorous. Một số loài dơi là một phần của động vật ăn lá folivorous, phương pháp của chúng là nắm bắt nguồn dinh dưỡng từ lá, nhai lên những chiếc lá, nuốt nhựa cây và phun ra phần còn lại.

Loài trên cây

Một con động vật có vú sống trên cây là loài ăn lá như con lười, gấu túi, và một số loài khỉ và vượn cáo, có xu hướng lớn hơn và leo trèo lên một cách thận trọng. Những điểm tương đồng trong hình dạng cơ thể và cấu trúc răng giữa những loài linh trưởng nguyên thủy và các họ khác nhau của các động vật ăn lá folivores sống trên cây có được nâng quan điểm như là bằng chứng rằng những dạng người tổ tiên sớm cũng là một động vật ăn lá (folivorous).

Đối với các loài Linh trưởng, lý thuyết sinh thái tiêu chuẩn dự đoán kích thước nhóm tương đối lớn đối với các loài linh trưởng ăn lá (folivorous), như các nhóm lớn cung cấp cho sự phòng thủ tập thể tốt hơn để chống lại kẻ thù và chúng phải đối mặt với việc ít cạnh tranh cho việc dành nguồn thức ăn trong mỗi khía cạnh khác. Nó đã được quan sát thấy rằng những con vật này vẫn thường xuyên sống trong các nhóm nhỏ. Giải thích được sự hỗ trợ cho nghịch lý hiển nhiên này bao gồm các yếu tố xã hội như tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh trong các nhóm lớn. Linh trưởng ăn lá (Folivorous) là tương đối hiếm trong các loài khỉ Tân thế giới, một ngoại trừ chính là những con khỉ rú. Một lời giải thích đã được đưa ra là các loài đậu quả rất phong phú trong vùng Tân Thế giới.

Các loài

Hươu nai

nhỏ|phải|Một con hươu đang ăn lá cà chua Thức ăn của hươu, nai gồm tất cả các loại lá cây và cỏ, trung bình mỗi con ăn khoảng 10 kg/ngày, trong đó, trung bình mỗi ngày, một con hươu trưởng thành ăn khoảng 5 kg cỏ, lá/ngày. Chúng thích ăn các loại lá sạch, Thức ăn phải được rửa sạch sẽ, và không nên cho hươu ăn lá cây bị ướt, vì dễ gây đau bụng. Hươu sao thì chủ yếu là các loại lá mít, lá vả, lá sung, lá cây muối, lá dướng, lá hu đay (lá giấy), lá ngái, lá ngõa, lá vông, lá giới, lá khế, lá xoan.

Ốc

Ốc núi Bà Đen Thức ăn của loài ốc núi Bà chủ yếu là thảo dược mọc hoang trên núi như cây mã tiền, lá vong núi, lá Nàng Hai, nên ốc mang đầy vị thuốc, rất ngon và bổ dưỡng, có thể trị các bệnh như phong thấp, đau khớp, dạ dày. Với chế độ ăn lá những loại thảo dược mọc hoang trên núi như cây mã tiền, lá vong núi, đặc biệt là loại thuốc quý tên gọi dân gian là lá Nàng Hai

Côn trùng

nhỏ|phải|Một con bọ rầy ăn lá Ruồi đục lòn (Liriomyza trifolii) trùng cái dùng bộ phận đẻ trứng rạch nhiều lỗ, các lỗ đục thường xuất hiện ở chóp lá hay dọc theo bìa lá. Dòi gây hại cho cây bằng cách đục thành những đường ngoằn ngoèo ở mặt trên lá, lúc đầu đường đục nhỏ, càng lúc càng to dần cùng với sự phát triển của ấu trùng. Khi trưởng thành dòi đục thủng biểu bì chui ra ngoài và làm nhộng trên mặt lá hay trên các bộ phận khác của cây hoặc buông mình xuống đất làm nhộng.

Muỗi hành phá hại lúa từ giai đoạn mạ đến giai đoạn cuối đẻ nhánh, khi bị tấn công đỉnh sinh trưởng biến dạng thành “cọng hành” (hay còn gọi ống hành). Khi ống hành đã vươn ra ngoài cũng là lúc sâu non đã hoá nhộng. Với muỗi hành là những ống tròn màu xanh lá cây nhạt, đó là bẹ lá bị biến dạng, phiến lá chỉ là một mảnh nhỏ ở đầu ống, nắm kéo lên không đứt, những ống này không chết đi nhưng làm chồi bị nhiễm không trổ bông được, những bụi lúa bị nhiễm lùn, đâm nhiều chồi, lá xanh thẫm, ngắn, dựng đứng, có nhiều cọng lúa giống như cọng hành lẫn trong bụi lúa.

Bọ xít xanh Chúng thường gây hại khi lúa còn non ở giai đoạn mạ, lúa lúa hồi xanh và đang đẻ nhánh. Lúa xuân muộn (tháng 3,4) thường bị hại nặng hơn cả. Lúa gieo thẳng bị hại nặng hơn lúa cấy. Những năm khô hạn thích hợp cho bọ trĩ phát sinh rộ. Ruộng lúa càng khô hạn thì thiệt hại do bọ trĩ gây ra càng lớn. Bọ xít thường gây hại nặng ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa.

Bọ trĩ Bọ trĩ trưởng thành và non đều hút nhựa lá làm cho lá có màu vàng đỏ. Khi mật độ thấp xuất hiện những chấm nhỏ xếp theo hàng dọc trên lá, lá non hầu như bị quăn lại, không hồi phục được. Bọ trĩ gây hại ngay từ khi cây lúa xuất hiện, mật độ tăng dần từ khi lúa hồi xanh đến đẻ nhánh sau đó giảm dần tới lúc lúa trỗ. Trời mưa lớn là bất lợi cho bọ trĩ. Bọ trĩ thường hại nặng những ruộng thiếu nước. Ruộng khô xuất hiện nhiều bọ trĩ gây hại làm cho đầu lá lúa quăn lại và biến màu vàng. Khi trời mưa bọ trĩ giảm số lượng rõ rệt, nhất là giai đoạn bọ trĩ lớn.

Bọ gai trưởng thành gặm lớp mô của mặt trên lá để lại lớp biểu bì tạo thành những đường sọc trắng song song với gân lá. Ấu trùng ăn lớp mô giữa lá để lại lớp biểu bì ở mặt trên và dưới lá tạo thành một túi trắng hình dạng bất thường trên lá, ấu trùng và nhộng nằm trong đó. Một lá lúa có thể bị nhiều bọ gai đục làm lá bị khô bạc trắng, ruộng xơ xác, lúa sinh trưởng kém.

Rệp ngôhút nhựa ở trên nhiều bộ phận của cây như lá non, bông cờ, lá bi, nõn ngô, bẹ lá làm cho cây ngô mất hết dinh dưỡng, cây trở nên còi cọc, yếu ớt, bắp bé đi, hoặc không hình thành bắp nếu bị hại từ giai đoạn cây còn nhỏ, chất lượng hạt xấu kém. Rệp phá hại làm giảm năng suất và phẩm chất ngô rõ rệt. Ngoài cây ngô chúng còn có nhiều loại cây ký chủ khác như: kê, cao lương, mía, cỏ trồng làm thức ăn cho gia súc.. Mặt khác chúng còn là môi giới truyền virus gây một số bệnh cho cây bắp như bệnh vàng lùn, bệnh khảm lá, bệnh đỏ lá

Rệp sáp bột hồng sẽ tấn công điểm sinh trưởng của cây sắn, gây hiện tượng chùn ngọn. Nếu bị nhiễm với mật độ cao, có thể gây rụng toàn bộ lá của cây sắn. Rệp sáp bột hồng tấn công điểm sinh trưởng của cây sắn, gây hiện tượng chùn ngọn. Ngọn chính bị gây hại dẫn đến cây sắn trở nên lùn, thân cây cong queo gây rối loạn, rệp bám mặt sau lá, nhiều nhất trên các nách lá vùng ngọn bị xoắn. Rệp sáp bột hồng có thể chuyển sang sống trên các lộc non của cây cao su để gây hại trong những điều kiện nhất định.

Rệp phấn trắng con trưởng thành và con ấu trùng đều bu bám và chích hút nhựa của những chồi non, lá non, nụ hoa, hoa, trái non… của cây cam sành. Trước khi cây ra hoa và ra trái rệp thường tập trung ở đọt non và chủ yếu là mặt dưới của lá, khi cây có hoa rệp non bò đến các cuống hoa để hút nhựa và sinh sản. Nếu mật số cao có thể làm cho chồi non, lá non bị xoắn vặn không phát triển được, nụ hoa, hoa và trái non có thể bị rụng. Ngoài cây sapô (hồng xiêm) chúng còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như: ổi, mãng cầu, táo, nhãn.

Rầy mềm Ấu trùng và thành trùng tập trung mặt dưới lá, nhất là đọt non, bông, chồi, hút nhựa làm cho các phần này bị héo hoặc để lại những vết thâm đen trên lá, và truyền bệnh virus cho cây. Trên dưa, rầy gây hại trầm trọng nếu tấn công các dây chèo hay đỉnh sinh trưởng, nếu tập trung số lượng lớn ở đọt sẽ làm cho lá bị quăn queo. Phân thải ra thu hút nhiều nấm đen bao quanh làm ảnh hưởng sự phát triển trái và ảnh hưởng đến quang hợp của cây.

Nhện gié Nhện chích hút nhựa ở bẹ lá, cuống bông, cuống gié và vỏ bông lúa trước khi trỗ. Trên bẹ lá tạo thành những sọc thối đen kéo dài, làm bẹ lá có màu thâm nâu như bã trầu. Khi lúa có đòng nhện hút nhựa đòng làm bông lúa trỗ ra có nhiều hạt lép hoặc lép cả bông. Hạt lúa bị nhện hại co xoắn lại và biến màu vàng nhạt. Khi mật độ cao nhện bò lên bông lúa hút nhựa và tiếp tục gây lép một số hạt. Nhện thường mang theo bào tử nấm gây bệnh thối bẹ lúa.

Sâu phao gây hại lúa ở giai đoạn ấu trùng, cắn lá cây lúa non thành từng đoạn, rồi cuộn lại sống trong ống lá rơi xuống mặt nước được gọi là sâu “phao”. Sâu non tuổi 1 – 2 gặm bề mặt lá, rồi ăn khuyết từng miếng nhỏ, từ tuổi 3 trở đi có thể cắn đứt hẳn lá, dảnh mạ, lúa. Sâu thường ăn vào ban đêm, đối với những ngày trời râm mát, mưa phùn sâu có thể phá cả ngày. Sâu thường phá thời kỳ mạ, lúa đẻ nhánh, sâu thường phá rất nhanh có thể cắn trụi ruộng này sang ruộng khác, những năm mưa nhiều ngập úng sâu thường phá mạnh.

Sâu vòi voi con cái thường đẻ trứng rải rác ở giữa các bẹ lá, vào chỗ bẹ hay cuống lá bị thối nhũn, hoặc đục lỗ nhỏ ở mặt ngoài bẹ của những cây chuối đang có hoặc sắp có buồng rồi đẻ trứng vào đó. Thân cây có thể bị rỗng như xơ mướp, làm cho thân giả bị thối, lá vàng, nõn bị héo, củ thối và cuối cùng là cả cây bị chết. Nếu cây đã có buồng thì thường sẽ bị gẫy ngang thân hoặc gẫy cuống buồng. Những cây bắt đầu trổng bông trở đi thường là những cây bị sâu gây hại nhiều nhất

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Động vật ăn lá** hay **động vật ăn thảo mộc** (tiếng Latin: Folivore) là các loài động vật ăn cỏ (thực vật) nhưng đã có sự chuyên biệt hoá trong chế độ ăn chủ yếu
[[Sư tử là động vật ăn thịt bắt buộc; chúng cần 7 kilogram (15 lbs) thịt một ngày. Thành phần chính trong chế độ ăn của chúng thường là thịt của những loài động vật
thumb|Các ví dụ về động vật ăn tạp. Từ trái sang phải: [[Loài người, chó, lợn, cá trê trắng, quạ Mỹ, kiến ăn thịt.]] **Động vật ăn tạp** là loài lấy năng lượng để nuôi
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
nhỏ|phải|Nai Ấn Độ **Hệ động vật Ấn Độ** phản ánh về các quần thể động vật tại Ấn Độ cấu thành hệ động vật của quốc gia này. Hệ động vật Ấn Độ rất đa
thế=Cá kình, Orca|nhỏ|250x250px|**Cá voi sát thủ**, vật dữ đầu bảng trong môi trường biển **Động vật ăn thịt đầu bảng** hay **động vật ăn thịt đầu chuỗi**, còn được gọi là **động vật đầu bảng**,
nhỏ|phải|Một con sói đồng cỏ đang ăn xác thối của một con hươu **Động vật ăn xác thối** hay **động vật ăn xác chết** là những loại động vật ăn thịt và hành vi ăn
[[Nai và nai con đang ăn lá]] **Động vật ăn cỏ** là động vật sống dựa vào việc ăn các nguồn thức ăn từ thực vật. _Hebivory_ là một hình thức tiêu thụ, trong đó
nhỏ|phải|Một con [[sóc bay Úc đang liếm mật hoa, chế độ ăn này đã cho chúng cái tên gọi Sugar Ginder]] **Động vật ăn mật hoa** (Nectarivore) là một thuật ngữ chuyên ngành trong động
nhỏ|phải|Khỉ đuôi sóc là loài chuyên ăn nấm **Động vật ăn nấm** (_Fungivore_ hoặc _mycophagy_) là một hành vi ăn uống của một nhóm động vật với đặc trưng là quá trình các sinh vật
nhỏ|phải|Khỉ đuôi sóc, loài linh trưởng chuyên ăn côn trùng **Động vật ăn côn trùng** hay **động vật ăn sâu bọ** (insectivore) là các loài động vật ăn thịt mà thực đơn chính trong bữa
nhỏ|phải|Một con [[mòng biển đang ăn cá]] Một **động vật ăn cá** tên khoa học _piscivore_ là một động vật ăn thịt mà ăn chủ yếu là ăn cá. Ăn cá là chế độ ăn
nhỏ|_Carinotetraodon travancoricus_, một loài cá ăn nhuyễn thể **Động vật ăn nhuyễn thể** (tiếng Anh: molluscivore) là các loài động vật có tập tính ăn các loài động vật thân mềm, nhuyễn thể như là
nhỏ|phải|Một con chuột bạch đang ăn hạt ngô **Động vật ăn hạt** thường được gọi là **granivory** là một tập tính ăn của các động vật trong đó chúng có chế độ ăn chỉ toàn
nhỏ|phải|Một con [[khỉ đuôi sóc, loài điển hình cho động vật ăn nhựa cây]] **Động vật ăn nhựa cây** hay còn gọi là **Gummivores** là một lớp phức hợp của động vật ăn tạp mà
nhỏ|phải|Cầy Meerkat được biết đến là săn bắt và ăn những con rắn nhỏ **Động vật ăn rắn** hay còn gọi là **Ophiophagy** (tiếng Hy Lạp: ὄφις + φαγία có nghĩa là "_ăn con rắn_")
nhỏ|phải|Một con nhện nhảy đang bắt một con kiến **Động vật ăn kiến** (Myrmecophagy) là những loài động vật được đặc trưng bằng hành vi tiêu thụ các loại mối hay kiến, đặc biệt là
nhỏ|phải|Cá chuột ([[Corydoras) là một loài cá ăn đáy]] **Động vật ăn đáy** (tên thường gọi trong tiếng Anh là: Bottom feeder) là một loài động vật thủy sinh có tập tính ăn ở vùng
nhỏ|phải|Một con [[vẹt Macaw]] **Động vật ăn đất** (Geophagia) hay còn gọi là **động vật ăn sỏi** là hành vi ăn uống của động vật trong đó chúng có biểu hiện việc tiêu thụ các
nhỏ|phải|Một con cá ăn gỗ Trong sinh thái học, **động vật ăn gỗ** (tiếng Anh: xylophage) là một số loài động vật ăn cỏ có chế độ ăn bao gồm chủ yếu hoặc duy nhất
**Động vật ăn trứng** hay **động vật trộm trứng** hay còn gọi là **Oophagy** đôi khi là **Ophagy**, nghĩa là "ăn trứng" là một hành vi của các loài động vật ăn phôi của trứng
nhỏ|phải|Một con [[ong mật đang ăn phấn hoa]] **Động vật ăn phấn hoa** (Palynivore) là một loài động vật tiêu thụ thực vật (động vật ăn cỏ) mà có hình thành việc chọn lọc chế
nhỏ|phải|Một con dê đang gặm cỏ **Tập tính ăn** là quá trình mà các sinh vật, thường là động vật tiêu thụ thực phẩm để nuôi dưỡng bản thân thông qua các hành vi, thói
phải|[[Macropus rufus đang gặm cỏ]] **Động vật gặm cỏ** là một dạng động vật ăn cỏ cùng các loại thực vật khác mọc sát mặt đất. Những động vật gặm cỏ không lấy nguồn dinh
nhỏ|phải|Một con ruồi [[Chrysomya megacephala đang ăn phân]] **Động vật ăn phân** (tên Latin là _Coprophagia_ hoặc _coprophagy_) là việc các loài động vật tiêu thụ phân để hấp thụ chất hữu cơ từ đó.
thumb|right|Một loài cá ăn vảy ([[Exodon paradoxus)]] **Động vật ăn vảy** (tên Latin: Lepidophagy) là nhưng hành vi ăn uống của các loài cá chuyên bám theo và rỉa vảy cá của các loài cá
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
nhỏ|[[Bò nhà là một loài động vật được nhắc đến rất nhiều trong Kinh Thánh, chúng là loài chứng kiến cảnh Chúa Giê-su giáng sinh]] nhỏ|phải|Con cừu được nhắc đến trong Kinh thánh như là
nhỏ|phải|Thịt, có lẽ là một trong những sản phẩm động vật quan trọng bậc nhất đối với con người nhỏ|phải|Kho trữ thịt ở Luân Đôn **Sản phẩm động vật** hay còn gọi là **dẫn xuất
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|phải|Một con [[bò được trang điểm hoa văn ở Sisdağı, Thổ Nhĩ Kỳ, con bò được nhắc đến rất nhiều trong Kinh sách của đạo Hồi]] **Động vật trong Hồi giáo** là quan điểm, giáo
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
**Động vật Một cung bên** (danh pháp khoa học: **_Synapsida_**, nghĩa đen là cung hợp nhất, trước đây được xem là **Lớp Một cung bên**) còn được biết đến như là **Động vật Mặt thú**
thumb|Bò và bê **Động vật nhai lại** là bất kỳ động vật móng guốc nào mà quá trình tiêu hóa thức ăn của chúng diễn ra trong hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất chúng
nhỏ|phải|Một con [[cá mập Galapagos được móc vào một tàu đánh cá]] **Đau đớn ở động vật** là một trải nghiệm cảm giác sợ hãi gây ra bởi chấn thương thực thể hoặc tiềm năng
nhỏ|phải|Những con sói được ghi nhận là có hiện tượng cuồng sát Ở động vật ăn thịt, **cuồng sát** (tiếng Anh: surplus killing), **lạm sát quá mức** (tiếng Anh: excessive killing hoặc overkill) hay **hội
phải|[[Voi châu Phi là động vật lớn nhất trên cạn]] **Động vật lớn** hay **động vật khổng lồ** (tiếng Anh: megafauna) là những loài động vật có kích thước to lớn hay thậm chí là
nhỏ|phải|Một con sói đói đang gặm xương nhỏ|phải|Hai con linh cẩu đang gặm xương sườn của một con thú chết **Động vật gặm xương** hay động vật khới xương, nhai xương, nghiền xương hay còn
nhỏ|phải|Một con dê đực cùng lãnh thổ và đàn dê cái của nó Trong tập tính học, **lãnh thổ** là một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể động vật hoặc một
**Hệ động vật Anh** phản ánh các quần thể động vật được ghi nhận ở nước Anh hợp thành hệ động vật của quốc gia này. Nhìn chung, hệ động vật ở Anh có nhiều
nhỏ|phải|Một con ngựa bị bỏ đói đến mức gầy còm trơ xương **Sự tàn ác đối với động vật** (_Cruelty to animal_) hay còn được gọi là **ngược đãi động vật** là việc cố ý,
**Sự lừa dối ở động vật** (_Deception_) là sự phơi bày, phô diễn những thông tin sai lệch của một con vật sang loài khác (có thể là cùng loài hoặc các loài khác nhau)
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh