✨Sarawak

Sarawak

Sarawak (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại bán đảo Mã Lai. Sarawak nằm tại miền tây bắc đảo Borneo, giáp với bang Sabah về phía đông bắc, giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía nam (các tỉnh Tây Kalimantan, Đông Kalimantan và Bắc Kalimantan), và giáp với quốc gia độc lập Brunei tại đông bắc. Thành phố thủ phủ bang là Kuching, đây là trung tâm kinh tế của bang và là nơi đặt trụ sở chính phủ cấp bang. Các thành thị lớn khác tại Sarawak gồm Miri, Sibu, và Bintulu. Theo điều tra nhân khẩu năm 2015 tại Malaysia, tổng dân số Sarawak là 2.636.000. Tuy nhiên, lời giải thích thứ hai này có một số sai lầm do lãnh thổ đã được định danh là Sarawak trước cả khi Brooke đến, và từ awak chưa từng tồn tại trong từ vựng tiếng Mã Lai Sarawak trước khi thành lập Malaysia.

Sarawak cũng có biệt danh là "Xứ chim mỏ sừng" (Bumi Kenyalang) do chim mỏ sừng là một biểu trưng văn hóa quan trọng đối với người Dayak tại Sarawak. Người ta cho rằng nếu thấy chim mỏ sừng bay trên chỗ ở, thì sẽ mang đến may mắn cho cộng đồng địa phương. Chim mỏ sừng Rhinoceros là bang điểu của Sarawak.

Lịch sử

Tiền sử

thumb|left|Lối vào chính của Hang Niah Những người sắn bắt hái lượm đầu tiên đến cửa tây của Hang Niah (cách về phía tây nam của Miri) 40.000 năm trước, khi Borneo nối liền với đại lục Đông Nam Á. Cảnh quan quanh Hang Niah khô hơn và trần trụi hơn so với hiện nay. Thời tiền sử, bao quanh Hang Niah là hỗn hợp các khu rừng rậm và cây bụi, cao nguyên cây thưa, đầm lầy, và sông. Những người đến ban đầu có thể sinh tồn trong các khu rừng nhờ săn bắn, đánh cá, và thu lượm các loài nhuyễn thể và thực vật ăn được Điều này được chứng minh thông qua phát hiện một sọ người hiện đại, biệt danh là "Deep Skull", của nhà thông thái-khảo cổ người Anh Tom Harrisson vào năm 1958; đây cũng là sọ người hiện đại cổ nhất được biết đến tại Đông Nam Á. Chiếc sọ có lẽ là của một nữ thiếu niên 16-17 tuổi. Khu vực quanh Hang Niah được xác định là Vườn quốc gia Niah.

Các di chỉ khảo cổ học khác sau đó được phát hiện tại các khu vực miền trung và miền nam Sarawak. Cuộc khai quật khác của Tom Harrisson vào năm 1949 phát hiện một loạt đồ gốm Trung Hoa tại Santubong (gần Kuching) có niên đại từ thời Đường và Tống. Có khả năng Santubong là một hải cảng quan trọng tại Sarawak trong thời kỳ đó, song tầm quan trọng của nó suy giảm vào thời Nguyên, và cảng bị bỏ hoang trong thời Minh. Các di chỉ khảo cổ học khác tại Sarawak gồm có Kapit, Song, Serian, và Bau.

Thời Đế quốc Brunei

thumb|left|Quang cảnh một sông tại Sarawak, Borneo, . Bức họa từ Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Anh tại Luân Đôn. Trong thế kỷ XVI, khu vực Kuching được các nhà vẽ bản đồ người Bồ Đào Nha biết tới với cái tên Cerava, một trong số năm hải cảng lớn trên đảo Borneo. Khu vực này nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Brunei và từng được tự quản dưới quyền Sultan Tengah. Đến đầu thế kỷ XIX, Sarawak trở thành một lãnh thổ được quản lý lỏng dưới quyền cai quản của Brunei. Sau khi phát hiện thấy quặng antimon tại khu vực Kuching, Pangeran Indera Mahkota (một người đại diện của Quốc vương Brunei) bắt đầu phát triển lãnh thổ từ năm 1824 đến năm 1830. Khi sản lượng antimon gia tăng, Brunei yêu cầu Sarawak nộp thuế cao hơn; dẫn đến nội loạn và hỗn độn. Pangeran Muda Hashim ban tư cách thống đốc cho James Brooke. Quốc vương Brunei sau đó xác nhận sự bổ nhiệm này vào tháng 7 năm 1842. Đến tháng 10 năm 1843, James Brooke quyết định tiến hành một bước xa hơn và đưa Pangeran Muda Hashim vào triều đình Brunei. Triều đình Brunei bất mãn với việc bổ nhiệm Hashim và hạ lệnh ám sát khiến ông ta thiệt mạng vào năm 1845. Nhằm phản ứng, James Brooke cho bắn phá thủ đô của Brunei. Quốc vương Brunei quyết định gửi thư tạ lỗi đến Victoria của Anh và xác nhận quyền sở hữu của James Brooke đối với Sarawak và quyền khai mỏ của ông và không phải cống nạp cho triều đình Brunei. Năm 1846, Brooke trở thành rajah đích thực của Sarawak và lập ra Triều đại Rajah Trắng tại Sarawak.

Triều đại Brooke

thumb|left|[[James Brooke, rajah đầu tiên của Sarawak]] Brooke cai trị khu vực và bành trướng lãnh thổ về phía bắc cho đến khi ông từ trần vào năm 1868. Kế vị ông là người cháu con em gái tên là Charles Anthoni Johnson Brooke, người này sau khi từ trần được con trai Charles Vyner Brooke kế vị, với điều kiện là Charles cần tham khảo với chú ruột là Bertram Brooke trong việc cai trị. Cả James và Charles Brooke đều ký các hiệp ước với Brunei với chiến lược bành trướng biên giới lãnh thổ của Sarawak. Năm 1861, khu vực Bintulu được nhượng cho James Brooke. Năm 1883, Sarawak bành trướng đến sông Baram (gần Miri). Gia tộc Brooke giành được Limbang vào năm 1885 rồi hợp nhất vào Sarawak trong năm 1890. Quá trình bành trướng của Sarawak hoàn thành vào năm 1905 khi Lawas được nhượng lại cho chính phủ Brooke. Sarawak được chia thành năm đơn vị hành chính, tương ứng với biên giới lãnh thổ của các khu vực mà gia tộc Brooke giành được theo thời gian. Người đứng đầu mỗi đơn vị hành chính là một công sứ. Hoa Kỳ công nhận Sarawak là một quốc gia độc lập vào năm 1850, Anh Quốc có động thái tương tự vào năm 1864. Quốc gia ban hành tiền tệ đầu tiên của mình với tên dollar Sarawak vào năm 1858. Tuy vậy, trong phạm vi Malaysia, Brooke được nhận định mà một tên thực dân.

thumb|right|Một tem thuế Sarawak năm 1888 mang hình ảnh của [[Charles Brooke, Rajah của Sarawak|Charles Brooke]] Triều đại Brooke cai trị Sarawak trong một trăm năm với hiệu "Rajah Trắng". Triều đại thông qua chính sách gia trưởng nhằm bảo hộ lợi ích của cư dân bản địa và phúc lợi tổng thể của họ. Chính phủ Brooke lập ra một hội đồng tối cao gồm các tù trưởng Mã Lai, họ cố vấn cho các rajah trên tất cả các phương diện quản trị. Kỳ họp Đại hội đồng đầu tiên diễn ra tại Bintulu vào năm 1867. Hội đồng Tối cao là hội đồng lập pháp cấp bang cổ nhất tại Malaysia. Trong khi đó, người Iban và các dân tộc Dayak khác được thuê làm dân quân. Triều đại Brooke cũng khuyến khích các thương nhân người Hoa nhập cư nhằm phát triển kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực khai mỏ và nông nghiệp. Công ty Hữu hạn Borneo được thành lập vào năm 1856, tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Sarawak như mậu dịch, ngân hàng, nông nghiệp, khai khoáng, và phát triển.

James Brooke ban đầu ở trong một tòa nhà kiểu Mã Lai xây tại Kuching. Đến năm 1857, những người khai thác vàng thuộc nhóm Khách Gia đến từ Bau dưới quyền lãnh đạo của Lưu Thiện Bang 劉善邦 đã tàn phá dinh thự của Brooke. James Brooke đào thoát và tổ chức một quân đội lớn hơn cùng với Charles Brooke và các ủng hộ viên người Mã Lai-Iban của ông. Gia tộc Brooke sau đó xây dựng một tòa nhà chính phủ mới ven sông Sarawak tại Kuching mà nay gọi là Astana. Một phái chống Brooke trong triều đình Brunei bị đánh bại vào năm 1860 tại Mukah. Các vụ nổi loạn đáng chú ý khác bị gia tộc Brooke dẹp yên gồm có vụ do một thủ lĩnh người Iban tên là Rentap (18531863), và một thủ lĩnh người Mã Lai tên là Syarif Masahor (18601862).

Năm 1941, trong lễ kỷ niệm 100 năm gia tộc Brooke cai trị Sarawak, một hiến pháp mới được soạn thảo nhằm hạn chế quyền lực của Rajah và nhằm cho phép người Sarawak đóng vai trò lớn hơn trong hoạt động của chính phủ. Tuy nhiên, dự thảo hiến pháp có chứa những điều bất thường, bao gồm một thỏa thuận bí mật được soạn thảo giữa Charles Vyner Brooke và các quan chức chính phủ Anh Quốc, theo đó Vyner Brooke nhượng lại Sarawak để làm thuộc địa hoàng gia Anh nhằm đổi lấy bồi thường tài chính cho ông và gia đình.

Nhật Bản chiếm đóng và Đồng Minh giải phóng

thumb|Không ảnh trại tù binh chiến tranh Batu Lintang; ngày 29 tháng 8 năm 1945 hoặc sau đó. thumb|Lễ đầu hàng chính thức của quân Nhật trước quân Úc tại Kuching vào ngày 11 tháng 9 năm 1945. Chính phủ Brooke dưới quyền Charles Vyner Brooke lập ra một số đường băng tại Kuching, Oya, Mukah, Bintulu, và Miri để chuẩn bị trong trường hợp có chiến tranh. Đến năm 1941, người Anh triệt thoái lực lượng phòng thủ khỏi Sarawak và trở về Singapore. Do lúc này Sarawak không được phòng thủ, chế độ Brooke quyết định thông qua một chính sách tiêu thổ theo đó các cơ sở dầu mỏ tại Miri bị phá hủy và đường băng Kuching được duy trì lâu nhất có thể trước khi bị phá. Trong khi đó, quân Nhật quyết định chiếm Borneo thuộc Anh nhằm bảo vệ sườn phía đông của họ trong Chiến dịch Mã Lai và để thuận tiện cho việc xâm chiếm Sumatra và Tây Java. Một đạo quân xâm lược Nhật Bản do Kiyotake Kawaguchi lãnh đạo đổ bộ tại Miri vào ngày 16 tháng 12 năm 1941 và chiếm Kuching vào ngày 24 tháng 12 năm 1941. Quân Anh dưới quyền Trung tá C.M. Lane quyết định triệt thoái đến Singkawang thuộc Borneo Hà Lan tiếp giáp Sarawak. Sau mười tuần giao tranh tại Borneo thuộc Hà Lan, quân Đồng Minh đầu hàng vào ngày 1 tháng 4 năm 1942. Khi quân Nhật xâm chiếm Sarawak, Charles Vyner Brooke quyết định rời đến Sydney trong khi các quan chức của ông bị quân Nhật bắt giữ và giam tại trại Batu Lintang.

Sarawak duy trì là bộ phận của Đế quốc Nhật Bản trong ba năm tám tháng. Sarawak cùng với Bắc Borneo và Brunei tạo thành một đơn vị hành chính đơn nhất mang tên Kita Boruneo (Bắc Borneo) dưới quyền Quân đoàn 37 của Nhật có đại bản doanh tại Kuching. Sarawak được phân thành ba châu là: Kuching-shu, Sibu-shu, và Miri-shu, mỗi châu nằm dưới quyền một thống đốc người Nhật. Về cơ bản, người Nhật duy trì bộ máy hành chính tiền chiến và phân người Nhật đảm nhiệm các chức vụ chính phủ. Quyền quản lý nội lục của Sarawak được để lại cho cảnh sát bản địa và thủ lĩnh làng, dưới quyền giám sát của Nhật. Mặc dù người Mã Lai có đặc trưng là dễ dàng chấp nhận người Nhật, song các bộ lạc bản địa khác như Iban, Kayan, Kenyah, Kelabit và Lun Bawang giữ thái độ thù định với họ do các chính sách như lao động cưỡng bách, phân phối cưỡng bách thực phẩm, và tịch thu súng. Người Nhật không dùng đến các biện pháp mạnh nhằm kiềm chế người Hoa do người Hoa tại Sarawak nhìn chung là phi chính trị. Tuy nhiên, một lượng đáng kể người Hoa chuyển từ các khu vực đô thị đến khu vực nội lục khó tiếp cận hơn nhằm giảm bớt tiếp xúc với người Nhật.

Quân Đồng Minh thành lập Đơn vị Đặc biệt Z để phá hoại các hoạt động của Nhật Bản tại Đông Nam Á. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1945, các sĩ quan chỉ huy của Đồng Minh nhảy dù xuống rừng rậm Borneo và lập một số căn cứ tại Sarawak theo một chiến dịch có hiệu là "Semut". Hàng trăm người bản địa được huấn luyện để phát động tấn công chống quân Nhật. Thông tin tình báo thu thập được từ chiến dịch giúp quân Đồng Minh (đứng đầu là Úc) tái chiếm Borneo trong tháng 5 năm 1945 thông qua Chiến dịch Oboe Six. Quân Nhật đầu hàng Quân Úc vào ngày 10 tháng 9 năm 1945 tại Labuan, và lễ đầu hàng chính thức diễn ra ngoài khơi Kuching trên tàu hộ vệ HMAS Kapunda của Úc vào hôm sau. Sarawak lập tức đặt dưới quyền Chính phủ Quân sự Anh cho đến tháng 4 năm 1946.

Thuộc địa hoàng gia Anh

thumb|Tuần hành chống chuyển nhượng tại Sarawak Sau chiến tranh, chính phủ Brooke không đủ nguồn lực để tái thiết Sarawak. Charles Vyner Brooke cũng không sẵn lòng giao lại quyền lực của mình cho người kế nhiệm hiển nhiên là cháu trai Anthony Brooke (con trai duy nhất của Bertram Brooke) do khác biệt nghiêm trọng giữa họ.

Anthony Brooke phản đối chuyển nhượng lãnh thổ của Rajaj cho Hoàng gia Anh. Ông bị cho là liên kết với các tổ chức chống chuyển nhượng tại Sarawak, đặc biệt là sau sự kiện ám sát Duncan Stewart. Anthony Brooke tiếp tục yêu sách chủ quyền với tư cách là Rajah của Sarawak ngay cả sau khi Sarawak trở thành một Thuộc địa Hoàng gia Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1946.

Tự quản và Liên bang Malaysia

thumb|right|Stephen Kalong Ningkan tuyên bố việc thành lập Liên bang Malaysia vào ngày 16 tháng 9 năm 1963 Ngày 27 tháng 5 năm 1961, Thủ tướng Liên bang Malaya Tunku Abdul Rahman công bố kế hoạch thành lập một liên bang lớn hơn cùng với Singapore, Sarawak, Sabah và Brunei, mang tên Malaysia. Kế hoạch này khiến các lãnh đạo địa phương tại Sarawak thận trọng trước ý định của Tunku trong bối cảnh khác biệt lớn về phát triển kinh tế xã hội giữa Malaya và các quốc gia Borneo. Tồn tại một mối lo ngại chung là nếu không có một thể chế chính trị mạnh mẽ, các quốc gia Borneo sẽ bị Malaya thực dân hóa. Do đó, nhiều chính đảng tại Sarawak xuất hiện để bảo vệ lợi ích của các cộng đồng mà họ đại diện. Ngày 17 tháng 1 năm 1962, Ủy ban Cobbold được thành lập nhằm đánh giá sự ủng hộ của Sarawak và Sabah đối với vấn đề liên bang hóa. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1962, ủy ban gặp trên 4.000 người và nhận được 2.200 bản ghi nhớ từ các tổ chức khác nhau. Ủy ban báo cáo rằng có sự chia rẽ về ủng hộ trong cư dân Borneo. Tuy nhiên, Tunku diễn giải số liệu là 80% ủng hộ liên bang hóa. Sarawak phê chuẩn một hiệp nghị 18 điểm nhằm bảo đảm lợi ích trong liên bang. Ngày 26 tháng 9 năm 1962, Hội đồng Negri Sarawak thông qua một nghị quyết ủng hộ liên bang hóa với một điều kiện là các lợi ích của nhân dân Sarawak sẽ không bị tổn hại. Ngày 23 tháng 10 năm 1962, năm chính đảng tại Sarawak thành lập một mặt trận thống nhất ủng hộ thành lập Malaysia. Sarawak được chính thức trao quyền tự quản vào ngày 22 tháng 7 năm 1963, và sau đó hình thành Liên bang Malaysia cùng Malaya, Bắc Borneo, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963.

Sự kiện liên bang hóa Malaysia gặp phải phản đối từ Philippines, Indonesia, Đảng Nhân dân Brunei, và Tổ chức Cộng sản Bí mật (CCO). Philippines và Indonesia tuyên bố rằng người Anh sẽ tiến hành chế độ thực dân mới tại các lãnh thổ Borneo thông qua liên bang. Trong khi đó, thủ lĩnh của Đảng Nhân dân Brunei là A.M. Azahari xúc tiến khởi nghĩa tại Brunei trong tháng 12 năm 1962 để ngăn Brunei gia nhập Malaysia. Azahari chiếm lĩnh Limbang và Bekenu trước khi bị quân Anh đến từ Singapore đánh bại. Tổng thống Indonesia Sukarno tuyên bố rằng khởi nghĩa tại Brunei là bằng chứng vững chắc về phản đối Malaysia liên bang hóa, ông hạ lệnh tiến hành đối đầu quân sự với Malaysia, phái các tình nguyện viên vũ trang và sau đó là quân đội đến Sarawak. Sarawak trở thành một điểm nóng trong đối đầu Indonesia–Malaysia từ năm 1962 đến năm 1966. Những sự kiện đối đầu như vậy giành được ít sự ủng hộ từ người Sarawak ngoại trừ CCO. Hàng nghìn thành viên CCO đến Kalimantan và trải qua huấn luyện cùng Đảng Cộng sản Indonesia. Trong thời kỳ đối đầu, khoảng 10.000 đến 150.000 binh sĩ Anh đồn trú tại Sarawak, cùng với các binh sĩ Úc và New Zealand. Đến khi Suharto thay thế Sukarno làm tổng thống của Indonesia, các cuộc đàm phán giữa Malaysia và Indonesia được tái khởi động, dẫn đến kết thúc đối đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 1966. Năm 1967, hiệp nghị mới được ký kết theo đó yêu cầu bất kỳ ai muốn vượt biên giới SarawakKalimantan phải có một xác nhận vượt biên tại đồn kiểm soát biên giới.

Môi trường

Địa lý

thumb|right|Sarawak nằm tại miền tây bắc đảo Borneo trên ảnh vệ tinh [[NASA.]] Tổng diện tích của Sarawak là gần , và nằm giữa 0° 50′ và 5° vĩ Bắc, 109° 36′ và 115° 40′ kinh Đông. Sarawak chiếm 37,5% tổng diện tích của Malaysia. Bang này có vùng rừng mưa nhiệt đới lớn với các loài động thực vật phong phú. Phòng ngầm lớn nhất thế giới là Phòng Sarawak nằm trong Vườn quốc gia Gunung Mulu. Các điểm thu hút khác trong vườn gồm Hang Deer (hành lang hang lớn thứ nhì thế giới) và Hang Clearwater (hệ thống hang dài nhất tại Đông Nam Á). Vườn quốc gia Gunung Mulu là một di sản thế giới của UNESCO.

Sarawak thường được phân thành ba vùng sinh thái. Khu vực duyên hải khá thấp và bằng phẳng, có các vùng đầm lầy và môi trường ẩm ướt khác với diện tích lớn. Sarawak có các bãi biển như Pasir Panjang và Damai tại Kuching, Tanjung Batu tại Bintulu, và Tanjung Lobang cùng Hawaii tại Miri. Khu vực đồi là nơi có nhiều người ở nhất và hầu hết thành thị cũng nằm tại đây. Các cảng Kuching và Sibu được xây dựng trên sông không xa bờ biển. Bintulu và Miri gần với đường bờ biển nơi các ngọn đồi chạy thẳng ra Biển Đông. Khu vực thứ ba là vùng núi dọc theo biên giới với Indonesia, có các cao địa Kelabit (Bario), Murut (Ba'kelalan) và Kenyah (Usun Apau Plieran) tại phía bắc.

thumb|left|Một lối tản bộ qua Vườn quốc gia Lambir Hills. Rừng mưa Sarawak có mức độ tập trung loài trên đơn vị diện tích vào hàng đầu trên thế giới. Bang có khoảng 185 loài thú, 530 loài chim, 166 loài rắn, 104 loài thằn lằn, và 113 loài lưỡng cư. Trong số đó, 19% loài thú, 6% loài chim, 20% loài rắn, và 32% loài thằn lằn là loài đặc hữu. Các loài này phần lớn được tìm thấy tại các khu vực được bảo vệ hoàn toàn. Bang có 2.000 loài cây, 1.000 loài lan, 757 loài dương xỉ, và 260 loài cọ. Bang cũng là nơi sinh sống của các loài động vật gặp nguy hiểm, như voi lùn Borneo, khỉ vòi, đười ươi và tê giác. Trung tâm Động vật hoang dã Matang, Khu Dự trữ Tự nhiên Semenggoh, và Khu Bảo tồn Động vật hoàng dã Lanjak Entimau được chú ý vì các chương trình bảo vệ đười ươi của họ. Vườn quốc gia TalangSatang nổi tiếng vì sáng kiến bảo tồn rùa. Ngắm chim là một hoạt động phổ biến tại nhiều vườn quốc gia như Vườn quốc gia Gunung Mulu, Vườn quốc gia Lambir Hills, và Vườn quốc gia Similajau. Vườn quốc gia MiriSibuti được biết đến vì các rặng san hô còn Vườn quốc gia Gunung Gading được biết đến vì các loài hoa Rafflesia có kích thước lớn. Vườn quốc gia Bako có 275 loài khỉ vòi, và Vườn nắp ấm Padawan nổi tiếng với các loài cây nắp ấm ăn thịt. Năm 1854, Alfred Russel Wallace từng đến thăm Sarawak. Một năm sau, ông gây dựng "Quy luật Sarawak" tạo nền tảng cho thuyết chọn lọc tự nhiên.

Chính phủ bang Sarawak phê chuẩn một số luật nhằm bảo vệ các khu rừng và các loài hoang dã gặp nguy hiểm, trong đó có Sắc lệnh Rừng 1958, Sắc lệnh Bảo vệ Loài hoang dã 1998, và Sắc lệnh Vườn tự nhiên và Khu dự trữ tự nhiên Sarawak. Một số loài được bảo vệ là đười ươi, đồi mồi dứa, chồn bay Sunda, và chim mỏ sừng sáo. Theo Sắc lệnh Bảo tồn Loài hoang dã 1998, cư dân bản địa Sarawak được phép săn bắt ở quy mô hạn chế các loài động vật hoang dã trong rừng rậm song không được phép chiếm hữu quá thịt. Cơ quan Lâm nghiệp Sarawak được thành lập vào năm 1919 nhằm bảo tồn tài nguyên rừng trong bang. Sau những chỉ trích quốc tế về ngành công nghiệp lâm sản tại Sarawak, chính phủ bang quyết định giảm quy mô Cơ quan Lâm nghiệp và thành lập Công ty Lâm nghiệp Sarawak vào năm 1995. Trung tâm Đa dạng Sinh học Sarawak được thành lập vào năm 1997 nhằm bảo tồn, bảo vệ và phát triển bền vững đa dạng sinh học trong bang.

Chính trị

Chính phủ

Người đứng đầu bang Sarawak là Yang di-Pertua Negeri (hay thống đốc bang), chức vụ này phần lớn mang tính chất tượng trưng và do Yang di-Pertuan Agong (quốc vương) của Malaysia bổ nhiệm. Thống đốc bang bổ nhiệm thủ hiến làm người đứng đầu chính phủ. Về tổng thể, thủ lĩnh của đảng nắm thế đa số trong Hội đồng Lập pháp của bang được bổ nhiệm làm thủ hiến. Các đại biểu đắc cử nghị viện được gọi là nghị viên. Hội đồng lập pháp của bang thông qua pháp luật trong các vấn đề không thuộc phạm vi quyền hạn của Nghị viện Malaysia như quản lý đất đai, lao động, rừng, nhập cư, đóng tàu và ngư nghiệp. Thủ hiến chỉ định chính phủ bang và các bộ trưởng và trợ lý bộ trưởng nội các.

Nhằm bảo vệ các lợi ích của nhân dân Sarawak trong Liên bang Malaysia, Hiến pháp Malayisa có các điều khoản bảo vệ đặc biệt về vấn đề này. Sarawak có quyền kiểm soát nhập cảnh và cư trú của những người không phải cư dân Sarawak hay Sabah. Chỉ có các luật sư cư trú tại Sarawak mới có thể hành nghề luật tại đây. Tòa án Thượng thẩm tại Sarawak độc lập với Tòa án Thượng thẩm tại Malaysia Bán đảo. Thủ hiến Sarawak cần phải tham vấn trước khi bổ nhiệm chánh án của Tòa án Thượng thẩm Sarawak. Sarawak có các "tòa án bản địa". Sarawak nhận được trợ cấp đặc biệt từ chính phủ liên bang và tự quản lý thuế tiêu thụ. Người bản địa tại Sarawak được hưởng các đặc quyền như hạn ngạch và công việc trong dịch vụ công, học bổng, nhập học đại học, và giấy phép kinh doanh. Các chính quyền địa phương tại Sarawak độc lập với các luật quyền lực địa phương do Nghị viện Malaysia ban hành.

thumb|left|Tòa nhà Hội đồng Lập pháp Sarawak Các chính đảng lớn tại Sarawak có thể phân thành ba nhóm: bản địa phi Hồi giáo, bản địa Hồi giáo, và phi bản địa; tuy nhiên các chính đảng có thể bao gồm thành viên đến từ hơn một nhóm. Chính đảng đầu tiên của bang là Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak (SUPP) được thành lập vào năm 1959, tiếp đến là Đảng Quốc gia Sarawak (PANAS) (năm 1960) và Đảng Dân tộc Sarawak (SNAP) (in 1961). Các chính đảng lớn khác như Đảng Bổn phận Sarawak (PESAKA) xuất hiện vào năm 1962. Sarawak từng là thành trì chính trị của Đảng Liên minh cầm quyền, và sau là hậu thân của nó mang tên Barisan Nasional (BN) từ khi thành lập Malaysia vào năm 1963. Stephen Kalong Ningkan (thuộc SNAP) là thủ hiến đầu tiên của Sarawak với nhiệm kỳ từ năm 1963 đến năm 1966 sau khi ông đại thắng trong bầu cử hội đồng địa phương. Tuy nhiên, vào năm 1966 ông bị Tawi Sli (thuộc PESAKA) lật đổ với sự giúp đỡ của chính phủ liên bang, gây ra khủng hoảng hiến pháp tại Sarawak.

Năm 1970, cuộc bầu cử nghị viện bang lần đầu tiên được tổ chức, các thành viên của Hội đồng Negri (nay là Hội đồng Lập pháp Sarawak) được cử tri bầu trực tiếp. Cuộc bầu cử này đánh dấu bắt đầu sự chi phối của dân tộc Melanau trên chính trường Sarawak bởi các chính trị gia Abdul Rahman Ya'kub và Abdul Taib Mahmud. Trong cùng năm, Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan (NKCP) được thành lập, họ tiến hành chiến tranh du kích chống chính phủ bang Sarawak. Đảng này giải tán sau khi ký kết một hiệp ước hòa bình vào năm 1990. Đảng này sau đó trở thành trụ cột của liên minh Barisan Nasional Sarawak. Từ năm 1983, một đảng có căn cứ trong cộng đồng người Dayak là SNAP tan rã thành một số đảng do khủng hoảng về lãnh đạo. Sarawak ban đầu tổ chức bầu cử cấp bang đồng thời với bầu cử nghị viện quốc gia. Tuy nhiên, thủ hiến đương thời là Abdul Rahman Ya'kub trì hoãn giải tán hội đồng lập pháp của bang thêm một năm để chuẩn bị trước thách thức từ phía các đảng đối lập và giải quyết phân bổ ghế cho đảng SNAP mới được nhận vào Barisan Nasional Sarawak. Sự kiện này khiến Sarawak là bang duy nhất tại Malaysia tổ chức bầu cử cấp bang riêng biệt với bầu cử nghị viện quốc gia từ năm 1979.

Năm 1978, Đảnh Dân chủ Hành động (DAP) là đảng đầu tiên có căn cứ tại Tây Malaysia mở các chi hội tại Sarawak. Năm 2010, họ thành lập liên minh Pakatan Rakyat với Đảng Công chính Nhân dân (PKR) và Đảng Liên Hồi giáo Malaysia (PAS); hai đảng sau trở nên tích cực tại Sarawak từ năm 1996 đến năm 2001. Các đảng cấu thành thuộc liên minh Barisan Nasional có căn cứ tại Bán đảo Mã Lai, đặc biệt là UMNO, không hoạt động tích cực trên chính trường Sarawak.

Đơn vị hành chính

Không như các bang tại Tây Malaysia, Sarawak được phân thành các tỉnh (division) thay vì huyện (district). Đứng đầu mỗi tỉnh là một thống sứ. Hiện tại, bang được chia thành 12 tỉnh:

Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện, mỗi huyện được phân thành các phó huyện. Hiện nay, Sarawak có 39 huyện. Bang có một viên chức phát triển tại mỗi tỉnh và huyện để thi hành các dự án phát triển. Tại các huyện, chính phủ bộ nhiệm một trưởng làng (gọi là ketua kampung hay penghulu) cho mỗi làng. Danh sách các tỉnh, huyện và phó huyện được liệt kê như sau: Trung đoàn giúp chế độ Brooke bình định quốc gia, và tham gia chiến tranh du kích kháng Nhật, trong Tình trạng khẩn cấp Malaya và Nổi dậy cộng sản Sarawak chống các phần tử cộng sản. Sau khi Malaysia được thành lập, trung đoàn sáp nhật đến lực lượng vũ trạng Malaysia và nay mang tên Trung đoàn Biệt động Hoàng gia. Năm 1888, Sarawak cùng với Bắc Borneo, và Brunei, trở thành các lãnh thổ được Anh bảo hộ, do đó trách nhiệm về ngoại giao được giao cho người Anh để đổi lấy bảo hộ quân sự. An ninh của Sarawak sau đó cũng là trách nhiệm của Úc và New Zealand. Sau khi Malaysia được thành lập, chính phủ liên bang là thể chế duy nhất chịu trách nhiệm về chính sách ngoại giao và quân sự trong nước.

Tranh chấp lãnh thổ

Sarawak tồn tại một số tranh chấp lãnh thổ, với các quốc gia láng giếng là Brunei và Indonesia, cũng như với Trung Quốc về quyền sở hữu một số thực thể trên Biển Đông. Năm 2009, Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi tuyên bố rằng Brunei đã từ bỏ yêu sách của họ đối với Limbang. Tuy nhiên, thứ trưởng Ngoại giao Brunei Lim Jock Seng phát biểu rằng vấn đề chưa từng được thảo luận trong hội nghị. Sarawak yêu sách Bãi ngầm James (Beting Serupai) và Cụm bãi cạn Luconia (Beting Raja Jarum/Patinggi Ali) là bộ phận vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, song Trung Quốc cũng có các động thái khẳng định chủ quyền. Một số vấn đề biên giới SarawakKalimantan cũng chưa được giải quyết với Indonesia.

Hạ tầng

Xét về tổng thể thì Sarawak có mức độ phát triển hạ tầng tương đối thấp so với Malaysia Bán đảo. Bộ Phát triển Hạ tầng và Truyền thông Sarawak (MIDCom) chịu trách nhiệm về phát triển hạ tầng và viễn thông tại Sarawak. Sarawak có 21 khu công nghiệp, cùng bốn cơ quan chính chịu trách nhiệm tiến hành và phát triển chúng. Năm 2009, 94% các khu vực đô thị được cung cấp điện năng; tỷ lệ các khu vực nông thôn được cung cấp điện năng tăng từ 67% vào năm 2009 lên 91% vào năm 2014. Về viễn thông, năm 2013 phạm vi phủ sóng của đường dây điện thoại cố định tại Sarawak là 25,7%, và tỷ lệ người sử dụng điện thoại di động là 93,3%. Tỷ lệ sử dụng máy vi tính trong cùng năm là 45,9%; tỷ lệ người sử dụng internet là 58,8% tại các khu vực đô thị và 29,9% tại các khu vực nông thôn. Công ty quốc doanh SacofaSdnBhd (Sacofa Private Limited) chịu trách nhiệm xây dựng các tháp viễn thông tại Sarawak. Sarawak Information Systems SdnBhd (SAINS) chịu trách nhiệm tiến hành và phát triển công nghệ thông tin tại Sarawak. Năm 2012, Sarawak có 63 bưu điện, 40 điểm bưu điện, và năm bưu điện di động. Phạm vi bao phủ phân phát thư tại các khu vực nông thôn là 60% vào năm 2015.

Cục Nước Kuching (KWB) và Cục Nước Sibu (SWB) chịu trách nhiệm quản lý cung cấp nước tại các khu vực tương ứng. Công ty quốc doanh LAKU Management SdnBhd chịu trách nhiệm cung cấp nước cho Miri, Bintulu, và Limbang. Sở Cung cấp Nước Nông thôn chịu trách nhiệm cung cấp nước cho các khu vực còn lại. Tinhd đến năm 2014, 82% các khu vực nông thôn có một nguồn cung cấp nước sạch. kinh phí từ ngân sách liên bang được phân phối để nâng cấp các tuyến đường tại Sarawak. Theo hành lang kinh tế SCORE, có nhiều đường được xây dựng đến các đập thủy điện lớn, Bintulu, và Kapit. Bang cũng cho phép các tài xế "rẽ trái khi lối ra thông thoáng".

Sân bay quốc tế Kuching là cửa ngõ chính của Sarawak. Sân bay Miri phục vụ số lượng hạn chế các chuyến bay quốc tế. Các sân bay nhỏ như Sân bay Sibu, Sân bay Bintulu, Sân bay Mukah, Sân bay Marudi, Sân bay Mulu, và Sân bay Limbang cung cấp dịch vụ đến Kuala Lumpur và các địa điểm nội địa khác tại Sarawak. Ngoài ra, còn có một số đường băng hẻo lánh phục vụ các cộng đồng nông thôn trong bang. Hornbill Skyways là một công ty hành không do chính phủ bang Sarawak sở hữu, cung cấp các chuyến bay thuê bao cá nhân và dịch vụ bay cho các công chức chính phủ bang.

Sarawak có bốn cảng lớn tại Kuching, Sibu, Bintulu, và Miri. Sarawak có 55 hệ thống sông có thể thông hành với tổng chiều dài là . Trong nhiều thế kỷ, các sông tại Sarawak từng là phương thức vận chuyển chủ yếu cũng như là một tuyến đường để lâm sản và nông sản được chuyển đến hạ du để xuất khẩu tại các cảng lớn. Cảng Sibu là đầu mối lớn trên sông Rajang, nằm cách cửa sông , chủ yếu vận chuyển lâm sản. Tuy nhiên, từ khi khánh thành Cảng Công nghiệp Tanjung Manis (TIMP) ở xa hơn về hạ du, tổng lượng hàng hóa thông quan tại cảng Sibu bị suy giảm. Bang cũng có các bệnh viện huyện, các phòng khám công, các phòng khám theo chương trình 1Malaysia, và các phòng khám nông thôn. Ngoài các bệnh viện và phòng khám do chính phủ sở hữu, còn có các bệnh viện tư nhân tại Sarawak như Trung tâm Chuyên khoa Y học Normah, Trung tâm Chuyên khoa Y học Timberland, và Trung tâm Y tế Chuyên khoa Sibu. Sarawak cũng là một điểm đến du lịch y tế của du khách Brunei và Indonesia. Đại học Malaysia Sarawak (UNIMAS) là đại học công duy nhất cấp bằng tốt nghiệp y khoa tại bang.

Các cộng đồng nông thôn vẫn còn gặp thách thức trong việc tiếp cận y tế chất lượng tốt. Đối với các làng nằm ngoài khu vực hoạt động của các phòng khám y tế, sẽ có dịch vụ bác sĩ trực thăng (FDS) mỗi lần trong một tháng. Các xúc tiến viên y tế làng được đặt tại các làng hẻo lánh sau khi tham gia ba tuần huấn luyện y tế cấp cứu và căn bản. Nhiều hình thức y học truyền thống vẫn được các cộng đồng khác nhau tại Sarawak sử dụng.

Năm 2015, tỷ lệ bác sĩ-bệnh nhân trong bang là 1:1.104,thấp hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 1 bác sĩ trên 600 bệnh nhân. Trong cùng năm, Sarawak có 2.237 bác sĩ, trong đó 1.759 người phục vụ trong khu vực công và 478 người phục vụ trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên, bang còn có 248 chuyên viên, 942 nhân viên y tế, và 499 nhân viên nội trú. Hiện nay, tỷ lệ biết chữ tại bang là 90%. Bộ Giáo dục Malaysia chịu trách nhiệm về giáo dục tiểu học và trung học tại Sarawak. Năm 2012, Sarawak có 185 trường trung học công, bốn trường quốc tế, và 14 trường độc lập Hoa ngữ. Một số lượng đáng kể học sinh bản địa Sarawak theo học tại các trường Hoa ngữ. Chính phủ Sarawak cũng nhấn mạnh giáo dục mầm non trong bang. Đào tạo nghề cũng được ưu tiên nhằm cung ứng lực lượng lao động có kỹ năng cho hành lang kinh tế SCORE. Bang cũng có một số trường cao đẳng cộng đồng Cao đẳng Sư phạm Batu Lintang là trường cao đẳng sư phạm lâu năm thứ ba tại Malaysia. Năm 2015, tổng lực lượng lao động giảng dạy tại Sarawak là 40.593.

Thư viện Bang Sarawak (còn gọi là PUSTAKA) là thư viện lớn nhất trong bang. Các thư viện công cộng và làng hiện diện tại nhiều thành thị.

Nhân khẩu

Theo điều tra nhân khẩu năm 2015, dân số Sarawak là 2.636.000, là bang đông dân thứ tư tại Malaysia. , tỷ suất sinh thô tại Sarawak là 16,3‰, tỷ suất tử thô là 4,3‰, và tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh là 6,5‰.

Sarawak có trên 40 sắc tộc, mỗi nhóm có ngôn ngữ, văn hóa và phương thức sinh hoạt riêng biệt. Tại các thành thị trong bang, những dân tộc chủ yếu là người Mã Lai, người Melanau, người Hoa, và tỷ lệ thấp người Iban và Bidayuh di cư từ làng quê để tìm cơ hội việc làm. Phát thẻ căn cước cho người bản địa sinh tại các khu vực hẻo lánh vẫn là một vấn đề thách thức. Khó khăn này khiến hàng nghìn người Penan không có quốc tịch. Sarawak có 150.000 công nhân di cư có đăng ký đang làm các công việc nội trợ hoặc trong đồn điền, chế tạo, xây dựng dịch vụ và nông nghiệp. Tuy nhiên, tổng số người nhập cư bất hợp pháp có thể lên đến 320.000-350.000 người. Bumiputera là chỉ người Mã Lai và các dân tộc bản địa khác tại Malaysia bán đảo, Sarawak và Sabah. Nhóm cư dân này được hưởng các đặc quyền trong giáo dục, nghề nghiệp, tài chính và chính trị. Orang Asal chỉ toàn bộ các dân tộc bản địa tại Malaysia ngoại trừ người Mã Lai.

Dân tộc

thumb|Tranh vẽ người Iban năm 1922 Về tổng thể, Sarawak có sáu dân tộc lớn: Iban, Hoa, Mã Lai, Bidayuh, Melanau, và Orang Ulu. Thuật ngữ Dayak thường được dùng để chỉ người Iban và người Bidayuh trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc. Năm 2015, chính phủ liên bang Malaysia công nhận sử dụng thuật ngữ trong bối cảnh chính thức.

Sarawak là nơi có số lượng người Iban lớn nhất trên đảo Borneo, với 745.400 người. Họ còn được gọi là người Dayak Biển. Đại đa số người Iban tin theo Cơ Đốc giáo. Người Iban ban đầu cư trú quanh lưu vực sông Rajang, song từ sau các cuộc chinh phạt quân sự của chính quyền Brooke, họ dần chuyển đến các khu vực phía bắc của Sarawak. Các khu dân cư Iban thường có dạng một nhà dài. Nhà dài từng là một đơn vị phòng thủ trong quá khứ, khi tục săn đầu người còn thịnh hành. Ngày nay, nhà dài là một biểu trưng nghi lễ của các gia đình sống tại đó. Trong quá khứ, người Iban công nhận địa vị hệ thống cấp bậc như raja berani (phú ông và chiến sĩ), orang mayuh (thường dân), và ulun (nô lệ). Tuy nhiên, trong thời kỳ Brooke, xã hội Iban được tái tổ chức thành các chức vụ chính thức như tuai rumah (thủ lĩnh), penghulu (thủ lĩnh khu vực), và temenggong (thủ lĩnh tối cao). Họ vẫn tuân theo nhiều nghi lễ và đức tin của mình như Gawai Antu (lễ hội truy điệu) và Gawai Dayak (lễ hội thu hoạch).

Các thương nhân người Hoa đến Sarawak lần đầu trong thế kỷ VI. Cư dân người Hoa hiện nay gồm có các cộng đồng là hậu duệ của những di dân trong thời kỳ Brooke. Năm 1901, Hoàng Nãi Thường (Wong Nai Siong) đưa gia tộc đến định cư tại Sibu, gần sông Rajang. The Chinese later went to work at coal mines and oil fields in Miri·

Người Mã Lai có truyền thông làm ngư dân, xây dựng các khu dân cư dọc theo bờ sông. Ngày nay, họ di cư đến các khu vực đô thị và làm việc trong các khu vực công và tư nhận. Họ nổi tiếng với các đồ thủ công bằng bạc và đồng, chạm khắc gỗ, và hàng dệt. Tồn tại một số thuyết về nguồn gốc của người Mã Lai tại Sarawak. James Brooke công khai áp dụng thuật ngữ này lần đầu cho những người Hồi giáo bản địa sống bên bờ biển tại Sarawak. Tuy nhiên, không phải toàn bộ người Hồi giáo tại Sarawak là người Mã Lai, như hầu hết bộ lạc Melanau cũng tin theo Hồi giáo. Các thuyết khác cho rằng người Mã Lai đến từ Quần đảo Mã Lai (ví dụ từ Java hay Sumatra), người Ả Rập từ Trung Đông, hoặc thông qua cải biến văn hóa và tôn giáo cư dân bản địa của Sarawak.

Người Melanau là cư dân bản địa tại Sarawak. Hầu hết họ xuất thân từ khu vực thị trấn duyên hải Mukah. Họ có truyền thống sống trong các nhà cao, song sau khi tiếp nhận phương thức sinh hoạt Mã Lai thì họ sống thành làng. Họ làm các công việc đánh cá, đóng tàu và thủ công. Họ vốn tin theo dị giáo và cử hành lễ hội thanh tẩy Kaul song hiện nay hầu hết họ là tín đồ Hồi giáo.

Người Bidayuh chủ yếu sống tại phần phía nam của Sarawak như Lundu, Bau, Serian, và Padawan. Họ được gọi là người Dayak Lục địa do có truyền thống sống trên các núi đá vôi dốc. Họ gồm một số phân nhóm như Jagoi, Biatah, và Selakau, và nói các phương ngữ không hiểu lẫn nhau. Do đó, họ chấp nhận tiếng Anh và Mã Lai làm ngôn ngữ chung. Họ được biết đến với một số nhạc cụ như trống khổng lồ và gõ tre mang tên pratuakng. Giống ngư người Iban, các khu dân cư truyền thống của họ là nhà dài, song họ cũng xây nhà tròn baruk để họp cộng đồng. Đa số người Bidayuh tin theo Cơ Đốc giáo. Họ trang trí các nhà dài của mình bằng các bức tranh tường và khắc gỗ. Họ cũng nổi tiếng về đóng thuyền, xâu hạt và xăm mình. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ thủ hiến của Abdul Rahman Ya'kub, Hiến pháp Sarawak được sửa đổi để đưa Yang di-Pertuan Agong thành người đứng đầu Hồi giáo tại Sarawak và trao quyền cho hội đồng lập pháp bang thông qua pháp luật liên quan đến sự vụ Hồi giáo. Cùng các điều khoản như vậy, các chính sách Hồi giáo có thể được chế định tại Sarawak và việc lập các cơ quan Hồi giáo cấp bang cũng có khả năng. Dự luật Hồi giáo Majlis 1979 cho phép lập các Tòa án Sharia tại Sarawak có thẩm quyền đối với các vụ án hôn nhân, quyền nuôi con, hứa hôn, thừa kế, và tội phạm trong bang. Một tòa án phúc thẩm và các tòa án Kadi cũng được thành lập.

Sarawak là bang duy nhất tại Malaysia có số tín đồ Cơ Đốc giáo vượt số tín đồ Hồi giáo. Các nhà truyền giáo Cơ Đốc đầu tiên tại Sarawak thuộc Giáo hội Anh (Anh giáo) vào năm 1848, vài năm sau đó là những người Công giáo Lã Mã, những người Giám Lý đến vào năm 1903. Những người truyền giáo này đầu tiên hoạt động trong cộng đồng di dân người Hoa và sau đó mở rộng đến những người bản địa theo thuyết vật linh. Các giáo phái Cơ Đốc khác tại Sarawak là Hội Phúc âm Borneo (BEM hay Sidang Injil Borneo, SIB.), và Báp-tít. Các dân tộc bản địa như Iban, Bidayuh, và Orang Ulu chấp nhận Cơ Đốc giáo song duy trì một số nghi thức tôn giáo truyền thống của mình. Tín đồ Phật giáo, Đạo giáo và tôn giáo dân gian Trung Hoa chủ yếu là người Hoa. Các tôn giáo thiểu số khác tại Sarawak là ton giáo Baha'i, Ấn Độ giáo, Sikh giáo, và thuyết vật linh.

File:St Joseph Church, Kuching, Malaysia.jpg|Nhà thờ Thánh Joseph File:Sarawak State Mosque 02.jpg|Thánh đường Bang Sarawak Cũ File:Hong San Si Temple 03.jpg|Chùa Phượng Sơn

Ngôn ngữ

Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Sarawak từ năm 1963 đến năm 1974 do thủ hiến đầu tiên của Sarawak là Stephen Kalong Ningkan phản đối việc sử dụng tiếng Mã Lai tại Sarawak. Đến năm 1974, thủ hiến mới là Abdul Rahman Ya'kub chọn tiếng Mã Lai và tiếng Anh là hai ngôn ngữ chính thức của Sarawak. Ông cũng đổi ngôn ngữ giảng dạy trong trường học từ tiếng Anh sang tiếng Mã Lai. Ngày nay, tiếng Anh được sử dụng trong tòa án, hội đồng lập pháp bang, và một số cơ quan chính phủ nhất định tại Sarawak. Ngày 18 tháng 11 năm 2015, Thủ hiến Sarawak Adenan Satem tuyên bố việc chọn tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Sarawak, cùng với tiếng Mã Lai.

Tiếng Mã Lai, gọi là Bahasa Sarawak (hay tiếng Mã Lai Sarawak), là ngôn ngữ chính của người Mã Lai Sarawak và các bộ lạc bản địa khác. Bahasa Sarawak khác với phương ngữ được nói tại bán đảo Mã Lai. Tiếng Iban được nói rộng rãi với 34% cư dân Sarawak, còn tiếng Bidayuh có 6 phương ngữ lớn được 10% dân số nói. Nhóm Orang Ulu có khoảng 30 phương ngữ khác nhau. Người Hoa thường dùng tiếng Phổ thông Trung Quốc song họ cũng sử dụng nhiều phương ngữ khác như Mân Nam, Khách Gia, Phúc Châu và Triều Châu.

Kinh tế

thumb|left|Một cảng khí hóa lỏng tại Bintulu, Sarawak Sarawak có tài nguyên thiên nhiên phong phú, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu là khai mỏ, nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm 32,8% kinh tế của bang vào năm 2013. Tăng trưởng GDP hàng năm biến động mạnh từ năm 2006 đến năm 2013, dao động từ −2,0% (2009) đến 7,0% (2010) với độ lệch chuẩn là 3,3%. Sarawak đóng góp 10,1% vào GDP của Malaysia trong chín năm tính đến năm 2013, trở thành bang đóng góp lớn thứ ba toàn quốc sau Selangor (22,2%) và Kuala Lumpur (13,9%) tăng 110 lần. Đồng thời kỳ, GDP/người tăng từ 688 ringgit (223,6 USD) lên 46.000 ringgit (13.800 USD), tăng 60 lần. Sarawak có GDP/người cao thứ ba tại Malaysia (2015); sau Kuala Lumpur và Labuan. Chính phủ bang Sarawak có thể duy trì thặng dư ngân sách trong bảy năm cho đến năm 2013, nhờ ngành công nghiệp dầu khí vốn đóng góp 34,8% thuế của bang. Sarawak cũng thu hút 9,6 tỷ ringgit (2,88 tỷ USD) đầu tư nước ngoài, trong đó 90% là vào Hành lang Năng lượng Tái tạo Sarawak (SCORE). SCORE là hành lang kinh tế lớn thứ nhì tại Malaysia. Phần lớn các mỏ dầu khí nằm ngoài khơi gần Bintulu và Miri tại bồn Balingian, bồn Baram, và quanh cụm bãi cạn Luconia. Sarawak là một trong các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về sản phẩm gỗ cứng nhiệt đới, chiếm 65% tổng lượng xuất khẩu gỗ của Malaysia vào năm 2000. Thống kê của Liên Hợp Quốc vào năm 2001 ước tính xuất khẩu gỗ để xẻ của Sarawak trung bình là mỗi năm từ 1996 đến 2000. Ngân hàng OCBC là ngân hàng ngoại quốc đầu tiên mở các chi nhánh tại Sarawak vào năm 1955. Ngoài các ngân hàng nội địa, có 18 ngân hàng châu Âu, 10 ngân hàng Trung Đông, 11 ngân hàng châu Á, và 5 ngân hàng Bắc Mỹ có chi nhánh địa phương tại Sarawak. Có một số công ty đặt trụ sở tại Sarawak tham gia nhiều lĩnh vực kinh tế như Cahya Mata Sarawak Berhad (CMSB), Naim Holdings, Rimbunan Hijau, Ta Ann Holdings, Shin Yang, Samling, WTK (Wong Tuong Kwang) Holdings và KTS (启德行) Group.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Sarawak tương quan cao độ với CPI của Malaysia, với lạm phát trung bình là từ 2,5-3,0% từ năm 2009 đến năm 2013 với một mức cao vào năm 2008 (10,0%) và mức thấp vào năm 2009 (−4,0%). Sarawak giảm tỷ lệ nghèo từ 56,5% (1975) xuống dưới 1% (2015). Tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm từ 4,6% (2010) xuống 3,1% (2014). Có ba đập hoạt động tại Sarawak : Đập Batang Ai, Đập Bakun, và Đập Murum cùng một số dự án khác đang được nghiên cứu và lập kế hoạch khả thi. Tổng công suất phát điện của bang được dự tính đạt 7.000MW vào năm 2025. Ngoài cấp điện nội bộ, Sarawak Energy còn xuất khẩu điện năng sang tỉnh Tây Kalimantan của Indonesia. Các nguồn nguyên liệu thay thế như sinh khối, thủy triều, mặt trời, gió và đập Micro hydro cũng đang được khảo sát tiềm năng để phát điện.

Hành lang Năng lượng Tái tạo Sarawak (SCORE) được thành lập vào năm 2008 và được lên kế hoạch tiếp tục phát triển đến năm 2030 nhằm khai thác các tài nguyên năng lượng phong phú trong bang (Đập Murum, Đập Baram, Đập Baleh, và các nhà máy nhiệt điện than) và nhằm phán triển 10ngành công nghiệp ưu tiên cao độ như nhôm, kính, sắt, dầu thô, ngư nghiệp, chăn nuôi, gỗ, và du lịch. Toàn bộ khu vực miền trung Sarawak nằm trong SCORE và gồm có các khu vực chủ yếu như Samalaju (gần Bintulu), Tanjung Manis, và Mukah. Năm 2008, các kế hoạch để phát triển Samalaju thành một khu công nghiệp, với Tanjung Manis là một đầu mối thực phẩm halal, và Mukah là trung tâm hành chính của SCORE với tập trung vào nghiên cứu và phát triển dựa trên tài nguyên.

Du lịch giữ một vị thế lớn trong kinh tế của bang khi đóng góp 9,3% GDP vào năm 2015. Cục Du lịch Sarawak chịu trách nhiệm về xúc tiến du lịch trong bang theo nhãn quan của Bộ Du lịch Sarawak. Trong khi đó, lĩnh vực du lịch tư nhân liên kết dưới sự chỉ đạo của Liên đoàn Du lịch Sarawak. Cục Hội nghị Sarawak chịu trách nhiệm về thu hút các hội nghị và sự kiện đoàn thể tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Borneo Kuching. Hầu hết du khách ngoại quốc đến Sarawak là từ Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, và Trung Quốc. Giải thưởng Du lịch Chim mỏ sừng Sarawak được tổ chức mỗi hai năm để công nhận những điều tốt nhất trong lĩnh vực du lịch của bang. Lễ hội âm nhạc thế giới Rừng mưa (RWMF) là sự kiện "âm nhạc thế giới" đứng đầu khu vực, thu hút trên 20.000 người mỗi năm. Các sự kiện khác được tổ chức định kỳ tại Sarawak là Liên hoan Điện ảnh Quốc tế ASEAN, Lễ hội Âm nhạc Châu Á, Lễ hội Jazz Borneo, Lễ hội Văn hóa Borneo, và Lễ hội Diều Quốc tế Borneo. và Bintang Megamall, Boulevard, Imperial Mall, và Miri Plaza tại Miri. Thủ phủ Kuching từng được đề cập là một trong các địa điểm hưu trí tại Malaysia.

Văn hóa

thumb|right|Nhà dài của người Iban Sarawak sở hữu sự đa dạng đáng chú ý về dân tộc, văn hóa và ngôn ngữ. Văn hóa Sarawak chịu ảnh hưởng từ người Mã Lai Brunei tại các khu vực duyên hải, cũng có ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Hoa và Anh Quốc. Tục săn đầu người từng là một truyền thống quan trọng đối với người Iban; song phong tục này không còn được tiến hành. Cơ Đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt thường nhật của người Kelabit và Lun Bawang và biến đổi bản sắc dân tộc của họ. Người Penan là nhóm bản địa cuối cùng từ bỏ phương thức sinh hoạt di cư trong rừng rậm. Kết hôn liên dân tộc là điều phổ biến trong bang.

Làng Văn hóa Sarawak nằm tại chân Núi Santubong, Kuching, đây là một "bảo tàng sống" giới thiệu nhiều dân tộc thực hiện các hoạt động truyền thống trong nhà truyền thống tương ứng của họ. Tại đây cũng có biểu diễn văn hóa. Bảo tàng Bang Sarawak có một bộ sưu tập các đồ tạo tác như gốm, dệt, và công cụ khắc gỗ từ nhiều bộ lạc tại Sarawak, và cũng có tài liệu dân tộc học của văn hóa bản địa. Tòa nhà bảo tàng duy trì được kiến trúc Pháp vốn có. Các bảo tàng khác gồm có Bảo tàng Di sản Hồi giáo, Bảo tàng Dầu mỏ, Bảo tàng Lịch sử Trung Hoa, Bảo tàng Mèo Kuching, Bảo tàng Dệt Sarawak, Bảo tàng Nghệ thuật, Bảo tàng Kỷ niệm Bệnh viện Lau King Howe, và Bảo tàng Khu vực Baram. Ngoài ra, còn có nhiều công sự được bảo quản tốt tại Sarawak có niên đại từ chế độ Brooke như Công sự Margherita, Công sự Emma, Công sự Sylvia, và Công sự Alice.

Khu nghỉ dưỡng Batang Ai và nhà dài Iban Bawang Assan cho phép du khách nghỉ qua đêm và tham gia các hoạt động thường nhật truyền thống của người Iban. Các nhà dài khác gồm có: nhà dài Iban tại Kapit, nhà dài Bidayuh tại Kuching, nhà dài Kelabit tại Bario, nhà dài Lun Bawang tại Ba'kelalan, và nhà gỗ Melanau tại Sibu. Main Bazaar và Carpenter Street là hai phố nổi tiếng tại phố người Hoa Kuching. Phố người Ấn tại Kuching nổi tiếng với các sản phẩm dệt. Một thánh đường Hồi giáo của người Ấn Độ nằm tại lân cận.

Mỹ thuật và thủ công

thumb|right|Bộ người Kayan chơi Sapeh Hội đồng Thủ công nghiệp Sarawak phổ biến đồ thủ công dân tộc bản địa. Sarakraf Pavilion có một cửa hàng trưng bày đa dạng các kỹ năng thủ công. Các đồ thủ công nổi tiếng tại Sarawak gồm có đồ kết hạt của người Orang Ulu, vải Pua Kumbu của người Iban, thảm Kesah và giỏ Tambok của người Bidayuh, thổ cẩm Kain của người Mã Lai, và gốm Trung Hoa. Hội Họa sĩ Sarawak được thành lập vào năm 1985 nhằm xúc tiến văn hóa và nghệ thuật địa phương bằng hình thức hội họa. Hầu hết họa sĩ Sarawak thời hậu chiến ưu tiên phong cảnh và tự nhiên, vũ điệu truyền thống, và các hoạt động thường nhật truyền thống làm đề tài của mình.

Sapeh của người Orang Ulu là một loại đàn guitar độc mộc, đây là nhạc cụ truyền thống nổi tiếng nhất tại Sarawak. Nó được trình diễn trước Nữ hoàng Elizabeth II trong chuyến công du của bà đến Sarawak vào năm 1972. Nhạc cụ lần đầu được giới thiệu ra thế giới trong lễ hội Nghệ thuật Biểu diễn Truyền thống Châu Á tại Nhật Bản vào năm 1976. Các nhạc cụ truyền thống khác là các loại cồng chiêng và Kulintang (Tawak, Ketupung, và Engkeromong), các nhạc khí tự thanh, sáo trúc và đàn tam thập lục.

thumb|left|Ngajat, vũ điệu chiến sĩ Iban. Truyền thống truyền khẩu là bộ phận của văn hóa nhiều dân tộc bản địa tại Sarawak trong nhiều thế hệ. Nó được sử dụng để truyền lại các bài học, truyền thống, và giá trị sống cho thế hệ trẻ. Các câu chuyện được người già kể nhiều lần cho người trẻ, chẳng hạn như trong các buổi kể chuyện vào những dịp đặc biệt và thông qua biểu diễn truyền thống. Một số thực tiễn truyền thống này là các vũ điệu Ngajat của người Iban, Renong (kho thanh nhạc Iban), Ensera (truyện kể Iban), và kể chuyện sử thi của người Kayan và Kenyah. Cục Văn học Borneo tồn tại từ năm 1958 đến năm 1977; thể chế này khuyến khích tư liệu hóa văn hóa bản địa, tác giả bản địa, và xuất bản bằng tiếng Anh, Hoa, Mã Lai, Iban và các ngôn ngữ bản địa khác. Cục bị thay thế bằng Dewan Bahasa dan Pustaka (DBP) vào năm 1977, vốn chỉ chủ trương xuất bản bằng tiếng Mã Lai. Tư liệu hóa các truyền thống truyền khẩu cũng được Đại học Malaysia Sarawak (UNIMAS) và Hội đồng Phong tục Sarawak thực hiện. Sarawak Gazette (Công báo Sarawak) được chế độ Brooke phát hành lần đầu vào năm 1870 và vẫn được phát hành cho đến nay. Nó tường thuật nhiều tin tức tại Sarawak liên quan đến kinh tế, nông nghiệp, nhân loại học và khảo cổ học. Hikayat Panglima Nikosa (Truyện kể về Nikosa chiến binh), xuất bản năm 1876 tại Kuching, là một trong số các xuất bản phẩm văn bản đầu tiên tại Borneo. Tác giả của nó là Ahmad Syawal Abdul Hamid, và nó cũng là tiểu thuyết đầu tiên của Malaysia. Các truyền thống bản địa cũng trở thành nguồn sáng tác cho các tác giả người Hoa tại Sarawak.

Ẩm thực

thumb|right|Một bát [[laksa tại Sarawak]] Món ăn nổi tiếng tại bang gồm có laksa, kolo mee, và ayam pansuh. Bang cũng được biết tới với món tráng miệng bánh lát Sarawak. Mỗi dân tộc có các loại đồ ăn ngon riêng của họ với phong cách chuẩn bị, nấu và ăn khác nhau. Tuy nhiên, công nghệ hiện đại đã biến đổi cách thức nấu các món bản địa. Ví dụ các thực phẩm dân tộc là tuak của người Iban (rượu gạo), tebaloi(bánh quy giòn cọ sago) và umai (cá sống trộn nước chanh) của người Melanau, và urum giruq của người Orang Ulu (pudding). Thực phẩm truyền thống của Sarawak cũng được bán trên thị trường với vai trò là sản phẩm du lịch ẩm thực. Một số cửa hàng nhượng quyền phát triển tại địa phương là Sugar Bun, Singapore Chicken Rice, và Bing Coffee. Các thực phẩm quốc tế khác như của Phương Tây, Indonesia, Ấn Độ, và Trung Đông cũng hiện diện tại đây.

Truyền thông

Chính phủ Sarawak được nhìn nhận phổ biến là gây ảnh hưởng lên truyền thông. Một số báo chí có trụ sở tại Sarawak là Tinh Châu nhật báo 星洲日報, Thi Hoa nhật báo 诗华日报, Borneo Post, và Utusan Borneo. Trong thập niên 1990, các báo lớn miêu tả tiêu cực việc phong tỏa đốn gỗ tại Sarawak là gây thiệt hại cho tăng trưởng và phát triển của bang. Sarawak Tribune bị đình chỉ vô hạn vào năm 2006 do xuất bản một biếm họa về Nhà tiên tri Muhammad. Nhật báo trở lại với tiêu đề New Sarawak Tribune năm 2010. Năm 2010, em dâu của cựu Thủ tướng Anh Gordon Brown là Clare Rewcastle Brown (bà sinh ra tại Sarawak) lập ra một trang thông tin điện tử mang tên Sarawak Report và một đài phát thanh sóng ngắn đặt tại Luân Đôn mang tên Đài Sarawak Tự do để cung cấp tin tức và quan điểm tự do khỏi ảnh hưởng của chính phủ Sarawak.

Đài Phát thanh Sarawak tồn tại từ năm 1954 đến năm 1976, phát sóng bằng tiếng Mã Lai, Iban, Hoa và Anh. Một số đài phát thanh có trụ sở tại Sarawak là Sarawak FM, cats FM và TEA FM.

Ngày lễ và lễ hội

thumb|right|Người Sarawak tổ chức lễ hội có trình diễn pháo hoa. Người Sarawak cử hành một số ngày lễ và lễ hội trong năm. Bên cạnh ngày Độc lập Hari Merdeka và ngày Quốc khánh Malaysia ở quy mô quốc gia, bang cũng cử hành ngày Tự quản Sarawak vào ngày 22 tháng 7 và sinh nhật thống đốc bang. Các dân tộc cũng cử hành các lễ hội riêng của họ. Truyền thống mở cửa cho phép các dân tộc khác tham gia kỷ niệm. Sarawak là bang duy nhất tại Malaysia tuyên bố lễ kỷ niệm thu hoạch Gawai Dayak là ngày lễ công cộng. Đây cũng là bang duy nhất tại Malaysia không quy định lễ kỷ niệm Deepavali của người Ấn Độ là một ngày lẽ công cộng. Các tổ chức tôn giáo được tự do diễu hành tại các thành thị lớn trong lễ hội. Sarawak và Sabah là hai bang tại Malaysia tuyên bố Thứ sáu Tuần Thánh là một ngày lễ công cộng. Lễ hội Kuching kéo dài trong một tháng được tổ chức vào mỗi tháng Tám nhằm kỷ niệm sự kiện nó được thăng làm thành phố vào năm 1988. Ngày Thành phố Miri cũng được tổ chức kết hợp với Lễ hội Tháng Năm Miri hàng năm.

Thể thao

Sarawak cử đội tuyển riêng của mình tham gia Đại hội Thể thao Đế quốc và Thịnh vượng chung Anh năm 1958 và 1962, và Đại hội Thể thao châu Á 1962 trước khi các vận động viên địa phương bắt đầu đại diện cho Malaysia sau năm 1963. Hội đồng Thể thao Bang Sarawak được thành lập vào năm 1985 nhằm tăng cường trình độ thể thao tại Sarawak. Sarawak đăng cai Đại hội Thể thao Malaysia (SUKMA Games) vào năm 1990 và 2016. Bang giành thắng lợi chung cuộc vào các kỳ SUKMA năm 1990, 1992, và 1994. Sarawak cũng cử các đội đại diện cho Malaysia tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á. Sarawak cũng nổi lên là nhà vô địch chung cuộc trong 11 kỳ Đại hội Thể thao Người khuyết tật Malaysia liên tục từ năm 1994. Bang cũng cử các vận động viên đi tham dự Đại hội Thế giới Olympic Đặc biệt (Special Olympics World Games).

Sarawak có một số sân vận động: Sân vận động Sarawak, Sân vận động Bang Sarawak, Sân vận động Perpaduan (Sân vận động Đoàn kết), và Sân vận động Khúc côn cầu Bang Sarawak. Câu lạc bộ bóng đá Sarawak được thành lập vào năm 1974. Họ giành thắng lợi tại Cúp Liên đoàn Malaysia năm 1992 và Giải Ngoại hạng Malaysia năm 1997 và 2013.

👁️ 8 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
**Vương quốc Sarawak** (còn gọi là **Quốc gia Sarawak**; Hán-Việt: **Sa Lạp Việt** 砂拉越) là một lãnh thổ bảo hộ của Anh nằm tại phần tây bắc của đảo Borneo. Quốc gia này ban đầu
**Nổi dậy cộng sản Sarawak** diễn ra tại Malaysia từ năm 1962 đến năm 1990, liên quan đến Đảng Cộng sản của vùng lãnh thổ xứ Bắc Kalimantan và Chính phủ Malaysia. Đây là một
**Sibu** () là thị trấn thủ phủ của huyện Sibu thuộc tỉnh Sibu, bang Sarawak, Malaysia. Thị trấn nội lục này nằm trên đảo Borneo, có diện tích là 129,5 km². Sibu nằm tại nơi hợp
**Sân vận động Sarawak** là một sân vận động đa năng ở Kuching, Malaysia. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 40.000
thumb|Rajah Charles được mô tả trên đồng 1 cent **Charles Brooke** (_Charles Anthoni Johnson Brooke_; 3 tháng 6 năm 1829 – 17 tháng 5 năm 1917), tên khai sinh là _Charles Anthoni Johnson_, là nguyên
**Fair Land Sarawak** (tiếng Việt: Vùng đất tươi đẹp Sarawak) là quốc ca của Thuộc địa vương thất Sarawak, sau này là bang Sarawak của Malaysia. Từ năm 1946 đến năm 1973, nó được sử
**Sarawak Bahagia** là bang ca của Sarawak từ năm 1973 đến năm 1988. Nó thay thế bài bang ca trước "Fair Land Sarawak" nhưng bị thay thế bởi "Ibu Pertiwiku", bài bang ca hiện tại.
**Huyện Betong** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Betong có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 60298 người.
**Huyện Belaga** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Belaga có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 37102 người.
**Huyện Bau** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Bau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 53654 người.
**Trung tâm Hội nghị Triển lãm Sarawak** là công trình đang xây tại Kuching, Sarawak, Đông Malaysia. Chính phủ bang đang chọn công ty quản lý tạm thời trung tâm này. Phòng Hội nghị Sarawak
**Thuộc địa vương thất Sarawak** (tiếng Anh: Crown Colony of Sarawak) là một thuộc địa vương thất của Đế quốc Anh trên đảo Borneo. Nó được thành lập vào năm 1946, không lâu sau sự
**_Brignoliella sarawak_** là một loài nhện trong họ Tetrablemmidae. Loài này thuộc chi _Brignoliella_. _Brignoliella sarawak_ được Shear miêu tả năm 1978.
**_Monodontium sarawak_** là một loài nhện trong họ Barychelidae. Loài này phân bố ờ Borneo.
**Kuching** (chữ Jawi: ; ), gọi chính thức là **Thành phố Kuching**, là thủ phủ và thành phố đông dân nhất của bang Sarawak tại Malaysia. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Kuching. Thành
**James Brooke**, (29 tháng 4 năm 1803 – 11 tháng 6 năm 1868), là một người Anh sinh trưởng tại lãnh thổ do Công ty Đông Ấn Anh cai trị tại Ấn Độ, ông trở
**Vyner, Rajah của Sarawak** (_Charles Vyner de Windt Brooke_; 26 tháng 9 năm 1874 – 9 tháng 5 năm 1963) là Rajah Trắng thứ ba và cũng là cuối cùng của Vương quốc Sarawak. ##
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Huyện Daro** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Daro có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 31538 người.
Tập tin:Lagu Rasmi Sarawak - Ibu Pertiwiku.ogg **Ibu Pertiwiku** (tiếng Việt: Quê ta) là bang ca chính thức của Sarawak, Malaysia. Bài hát được chấp thuận vào năm 1988, cùng với việc chấp thuận lá
**Đười ươi Borneo**, (danh pháp hai phần: **_Pongo pygmaeus_**), là một loài đười ươi trong họ Hominidae, bộ Linh trưởng. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1760. ## Môi trường sống và phân bố
thumb|Miri **Miri** là thành phố ở bang Sarawak, Malaysia. Thành phố Miri có diện tích ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm 2010 là 280.518 người. Đây là thành phố đông dân thứ
**Người Malaysia gốc Hoa** (, ) là người mang quốc tịch Malaysia có nguồn gốc người Hoa. Hầu hết họ là hậu duệ của những người Hoa đến từ giai đoạn đầu và giữa thế
**Huyện Sarikei** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Sarikei có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 56798 người.
**Sông Rajang** là một con sống ở Sarawak, Malaysia. Sông nằm ở Tây Bắc của Borneo và bắt nguồn từ núi Iran. Sông Rajang có chiều dài khoảng 563 km và đổ vào Biển Đông, là
**_Paphiopedilum stonei_** là một loài lan, đặc hữu của Borneo (Sarawak).
**_Santiria impressinervis_** là một loài thực vật thuộc họ Burseraceae. Đây là loài đặc hữu của cao nguyên Kelabit ở vùng Sarawak của Malaysia trên đảo Borneo.
**Bintulu** là một thành phố ven biển và là thủ phủ của quận Bintulu thuộc Hạt Bintulu của bang Sarawak, Malaysia. Thành phố cách Kuching khoảng 650 km và cách Sibu, Miri khoảng 215 km. Một số
**Huyện Tatau** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Tatau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 30322 người.
**Huyện Song** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Song có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 20046 người.
**Huyện Sri Aman** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Sri Aman có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 64905 người.
**Huyện Simunjan** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Simunjan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 38426 người.
**Huyện Sibu** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Sibu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 240402 người.
**Huyện Serian** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Serian có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 90763 người.
**Huyện Selangau** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Selangau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 24412 người.
**Huyện Saratok** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Saratok có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 45337 người.
**Huyện Samarahan** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Samarahan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 86275 người.
**Huyện Pakan** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Pakan có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 15135 người.
**Huyện Mukah** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Mukah có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 43284 người.
**Huyện Meradong** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Meradong có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 28672 người.
**Huyện Matu** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Matu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 16921 người.
**Huyện Marudi** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Marudi có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 63304 người.
**Huyện Lubok Antu** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Lubok Antu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 28474 người.
**Huyện Lundu** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Lundu có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 34576 người.
**Huyện Limbang** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Limbang có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 46947 người.
**Huyện Lawas** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Lawas có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 37860 người.
**Huyện Kapit** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Kapit có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 57776 người.
**Huyện Kanowit** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Kanowit có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 28700 người.
**Huyện Julau** là một huyện thuộc bang Sarawak của Malaysia. Huyện Julau có dân số thời điểm năm 2010 ước tính khoảng 15685 người.