✨Nổi dậy cộng sản Sarawak

Nổi dậy cộng sản Sarawak

Nổi dậy cộng sản Sarawak diễn ra tại Malaysia từ năm 1962 đến năm 1990, liên quan đến Đảng Cộng sản của vùng lãnh thổ xứ Bắc Kalimantan và Chính phủ Malaysia. Đây là một trong hai cuộc nổi dậy cộng sản thách thức Malaysia trong Chiến tranh lạnh. Giống như trong tình trạng khẩn cấp Malaya (1948–1960), quân nổi dậy cộng sản Sarawak chủ yếu là người Hoa, họ phản đối sự thống trị của Anh Quốc đối với Sarawak và sau đó phản đối việc lãnh thổ này tham gia Liên bang Malaysia mới thành lập. Giống như những đồng chí Đảng Cộng sản Malaya của mình, Tổ chức Cộng sản Sarawak (SCO) hoặc Tổ chức Cộng sản bí mật (CCO) chủ yếu do người Hoa chi phối song cũng bao gồm những người ủng hộ thuộc dân tộc Dayak. Trong thập niên 1940, chủ nghĩa Mao được truyền bá trong những trường học Hoa ngữ tại Sarawak. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản cũng thâm nhập phong trào lao động, thương đoàn, truyền thông Hoa ngữ và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak (SUPP) thành lập vào năm 1959 do người Hoa chi phối.

Mục tiêu của những người cộng sản tại Sarawak là nhằm giành quyền tự chủ và độc lập cho thuộc địa, và nhằm thiết lập một xã hội cộng sản. Tổ chức Cộng sản hoạt động thông qua các hình thức hợp pháp và bí mật nhằm truyền bá tư tưởng cộng sản. Chiến thuật của họ là nhằm thiết lập một "mặt trận liên hiệp" với các nhóm cánh tả và chống thực dân khác tại Sarawak để đạt được mục tiêu độc lập cho thuộc địa từ Anh Quốc. Theo sử gia người Úc Vernon L. Porritt, hoạt động đầu tiên của Tổ chức Cộng sản Sarawak được biết đến là cuộc tấn công chợ Batu Kitang vào ngày 5 tháng 8 năm 1952. Nhằm phản ứng, chính phủ thuộc địa Sarawak phê chuẩn thêm kinh phí cho các biện pháp an ninh, tăng cường lực lượng an ninh, và ban hành pháp luật nhằm giải quyết an ninh nội bộ. Những người cộng sản Sarawak cũng phản đối việc thành lập Liên bang Malaysia, tình cảm này tương đồng với Đảng Cộng sản Indonesia, Đảng Nhân dân Brunei của A.M. Azahari, và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak.

Nổi dậy Brunei

Theo các sử gia Cheah Boon Kheng và Vernon L. Porritt, Nổi dậy Sarawak chính thức bắt đầu sau Nổi dậy Brunei vào tháng 12 năm 1962. Nổi dậy Brunei là một cuộc phản kháng thất bại chống Anh Quốc của Đảng Nhân dân Brunei dưới quyền A.M. Azahari và cánh quân sự của đảng là Quân đội Quốc gia Bắc Kalimantan (Tentera Nasional Kalimantan Utara, TNKU), họ phản đối Liên bang Malaysia và muốn thiết lập một quốc gia Bắc Borneo bao gồm Brunei, Sarawak, và Bắc Borneo. Theo Porritt, những lãnh đạo của Tổ chức Cộng sản Sarawak là Văn Minh Quyền và Hoàng Kỉ Tác biết về kế hoạch nổi dậy của A.M Azahari song ban đầu không sẵn sàng sử dụng chiến tranh du kích do sự hiện diện yếu của họ tại các tỉnh thứ Tư và thứ Năm của Sarawak nằm liền kề với Brunei. Trong tháng 12 năm 1962, Tổ chức Cộng sản Sarawak vẫn thiếu một cánh quân sự và các thành viên của tổ chức chưa trải qua huấn luyện quân sự. Sau Nổi dậy Brunei, Tổ chức Cộng sản Sarawak chuyển sang chính sách nổi loạn vũ trang từ tháng 1 năm 1963. Những quân du kích của Tổ chức Cộng sản Sarawak chiến đấu bên Quân đội Quốc gia Bắc Kalimantan và lực lượng Indonesia trong Đối đầu Indonesia–Malaysia (1963–1966).

Sau Nổi dậy Brunei, những nhà cầm quyền Anh Quốc trên đảo Borneo hợp tác với Chi nhánh Đặc biệt Malaysia để phát động một cuộc trấn áp những người bị nghi ngờ là cộng sản tại Sarawak khiến cho 700-800 thành viên Tổ chức Cộng sản Sarawak Những người cộng sản lưu vong này sau đó tạo thành hạt nhân của hai cơ cấu du kích của Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan: Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak (SPGF—Pasukan Gerilya Rakyat Sarawak (PGRS)) và Quân đội Nhân dân Bắc Kalimantan (PARAKU). Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak được thành lập vào tháng 3 năm 1964 tại Gunung Asuansang thuộc Tây Kalimantan với trợ giúp từ Bộ Ngoại giao Indonesia. Những lãnh đạo của Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak gồm Hoàng Kỉ Tác, Dương Thụ Trung, và Văn Minh Quyền.

Trong khi đó, Quân đội Nhân dân Bắc Kalimantan do Hoàng Kỉ Tác thành lập gần Sungai Melawi tại Tây Kalimantan với trợ giúp từ Đảng Cộng sản Indonesia vào ngày 26 tháng 10 năm 1965. Trong khi Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak nằm dưới quyền chỉ huy của Dương Thụ Trung hoạt động tại miền tây Sarawak, thì Quân đội Nhân dân Bắc Kalimantan hoạt động tại miền đông Sarawak. Quân đội Nhân dân Bắc Kalimantan ban đầu nằm dưới quyền chỉ huy của Lâm Hòa Quý, kế tiếp là Hoàng Kỉ Tác.

Người Indonesia lên kế hoạch sử dụng những người cộng sản Sarawak làm một mặt trận bản địa cho các hoạt động của họ trong cuộc đối đầu với Malaysia. Nhằm hỗ trợ cho âm mưu này, họ thậm chí còn đặt tên cho tổ chức là Quân đội Quốc gia Bắc Kalimantan (TNKU), nhằm liên kết Tổ chức Cộng sản Sarawak với những phiến quân Brunei trước đó. Trong những cuộc đột kích đầu tiên thường bao gồm các thành viên Tổ chức Cộng sản Sarawak, song họ thường do một sĩ quan chính quy hoặc hạ sĩ quan của Indonesia lãnh đạo. Theo Porritt, cuộc thanh trừng chống Cộng tại Indonesia cũng kèm theo một cuộc tàn sát do người Dayak lãnh đạo nhằm vào người Indonesia gốc Hoa tại Tây Kalimantan, hành động này nhận được sự ủng hộ cầm từ nhà cầm quyền Indonesia.

Nỗ lực trấn áp

Nhằm đối phó với những hoạt động của Tổ chức Cộng sản Sarawak, chính phủ Sarawak và chính phủ liên bang Malaysia sử dụng nhiều hoạt động trấn áp khác nhau. Ngày 30 tháng 6 năm 1965, chính phủ Sarawak thi hành kế hoạch Goodsir, theo đó tái định cư 7.500 người dân trong 5 "khu định cư tạm thời" dọc theo đường Kuching-Serian tại các tỉnh thứ Nhất và thứ Ba của Sarawak, kế hoạch được đặt tên theo quyền ủy viên cảnh sát Anh Quốc tại Sarawak là David Goodsir. Những khu định cư này được bảo vệ bằng dây thép gai và học theo mô hình những Tân Thôn thành công được sử dụng trước đó trong Tình trạng khẩn cấp Malaya. Giống như kế hoạch Briggs, "vùng kiểm soát" của kế hoạch Goodsir thành công trong việc loại bỏ khả năng tiếp cận nguồn cung lương thực, vật liệu cơ bản, và tin tức của Tổ chức Cộng sản Sarawak từ những ủng hộ viên người Hoa của họ.

Đến ngày 22 tháng 7 năm 1966, Thủ tướng Malaysia Tunku Abdul Rahman ước tính rằng có khoảng 700 người cộng sản tại lãnh thổ của Indonesia trên đảo Borneo và khoảng 2.000 cảm tình viên. Tunku Abdul Rahman cũng đưa ra đề xuất ân xá và dẫn qua an toàn đối với các du kích của Tổ chức Cộng sản Sarawak trong Chiến dịch Harapan, song chỉ có 41 binh sĩ du kích chấp thuận đề nghị này. Việc kết thúc Đối đầu Indonesia-Malaysia cũng cho phép thiết lập hợp tác quân sự giữa lực lượng vũ trang Indonesia và Malaysia nhằm chống lại du kích Tổ chức Cộng sản Sarawak tại Borneo. Vào tháng 10 năm 1966, hai chính phủ chấp thuận để lực lượng vũ trang của họ được vượt biên trong những hoạt động "truy kích nóng". Từ năm 1967 đến năm 1968, lực lượng quân sự Indonesia và Malaysia tiến hành các hoạt động chung nhằm chống lực lượng cộng sản Sarawak, gây tổn thất ngày càng nghiêm trọng cho cả Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak và Quân Giải phóng Bắc Kalimantan. Do suy giảm về nhân lực, tài nguyên, và ngày càng bị cô lập, Tổ chức Cộng sản Sarawak chuyển từ chiến tranh du kích theo hướng tái lập liên kế của phong trào với quần chúng, bao gồm cả những dân tộc bản địa, nhằm duy trì "đấu tranh vũ trang".

Trong tháng 2 năm 1969, tập thể lãnh đạo của Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak đảo nghịch chính sách chống Malaysia của mình sau một hội nghị giữa lãnh đạo đảng là Dương Quốc Tư (杨国斯) và Thủ tướng Tunku Abdul Rahman. Trước đó, Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak là đảng đối lập tả khuynh chính tại Sarawak và nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng người Hoa của Sarawak. Một số thành viên của đảng này cũng là thành viên của các tổ chức có liên hệ với cộng sản như Hội Thanh niên Tiên tiến (SAYA), Tổ chức Nông dân Sarawak, và cánh du kích của Đảng Nhân dân Brunei là Quân đội Quốc gia Bắc Kalimantan. Những thành phần cộng sản trong Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak suy giảm do kết quả một cuộc trấn áp toàn quốc do nhà cầm quyền tiến hành từ năm 1968 đến 1969. Sau tổng tuyển cử cấp bang vào tháng 7 năm 1970, Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak gia nhập một liên minh với các đối tác trong Nghị hội bang Sarawak. Điều này cho phép chính phủ liên bang Malaysia củng cố quyền kiểm soát của họ đối với Sarawak. Đổi lại, Dương Quốc Tư được bổ nhiệm vào ủy ban an ninh của bang, cho phép đảng có ảnh hưởng đến các chiến dịch trấn áp và chăm sóc phúc lợi cho những đảng viên bị tạm giữ và những người Hoa định cư trong những trung tâm tái định cư

Ngày 25 tháng 3 năm 1969, lực lượng Indonesia loại bỏ nhánh thứ ba của Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak tại Songkong thuộc Tây Kalimantan sau một trận kéo dài hai ngày, tiêu diệt quân đoàn lớn nhất của họ. Nhằm thay thế Lực lượng Du kích Nhân dân Sarawak bị tiêu hao nhiều, Tổ chức Cộng sản Sarawak thiết lập Lực lượng Du kích Nhân dân Bắc Kalimantan tại Nonok vào ngày 13 tháng 7 năm 1969.

Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan

Ngày 30 tháng 3 năm 1970, người đứng đầu Du kích Nhân dân Sarawak tại tỉnh thứ Nhất của Sarawak là Văn Minh Quyền thành lập Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan. Tuy nhiên, ngày 19 tháng 9 năm 1971 được chọn làm ngày thành lập chính thức của đảng này nhằm trùng với Hội nghị Pontianak được tổ chức vào ngày 17–19 tháng 9 năm 1965. Mặc dù trong Hội nghị tại Pontianak được cho là nền tảng của phong trào cộng sản Sarawak, song không có ai tham dự hội nghị là cộng sản. Thay vào đó, họ gồm các thành viên Liên minh Tự do tả khuynh và "những thành viên O" của Hội Thanh niên Tiên tiến. Mặc dù họ đã thảo luận về việc lập một đảng cộng sản tại Sarawak, song họ trì hoãn thực hiện cho đến năm 1971 do tình hình chính trị căng thẳng tại Indonesia.

Suy sụp

Thủ hiến Sarawak Abdul Rahman Ya'kub cũng đưa ra một số đề nghị đàm phán với phiến quân Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan và nỗ lực thuyết phục một số phiến quân hạ vũ khí. Trong năm 1973–74, chính phủ Malaysia giành được một chiến thắng quan trọng khi Rahman Ya'kub thuyết phục thành công một thủ lĩnh của Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan là Hoàng Kỉ Tác đầu hàng cùng với 481 người ủng hộ ông ta. Điều này là một tổn thất nghiêm trọng cho Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan do số binh sĩ đầu hàng này chiếm khoảng 75% toàn bộ lực lượng của Đảng tại Sarawak. Sau cuộc đào tẩu này, chỉ còn lại 121 chiến binh du kích dưới quyền lãnh đạo của Uông Sở Đình và Vương Liên Quý. Đến năm 1974, cuộc nổi dậy cộng sản bị giới hạn trong châu thổ sông Rejang. Hai bên đều chịu tổn thất và nhiều thường dân cũng thiệt mạng và bị thương trong giao tranh.

Sau hòa ước Hat Yai thành công giữa Đảng Cộng sản Malaya và chính phủ Malaysia vào năm 1989, những du kích còn lại của Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan quyết định kết thúc cuộc nổi dậy của họ sau khi một trong những đầu mối liên lạc của họ là Văn Minh Quyền khuyến nghị họ đàm phán với chính phủ bang Sarawak. Trong tháng 7 năm 1990, một loạt đàm phán giữa Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan và chính phủ Sarawak diễn ra tại thị trấn Bintulu. Đến ngày 17 tháng 10 năm 1990, một hòa ước chính thức kết thúc nổi dậy Sarawak được phê chuẩn tại Wisma Bapa Malaysia tại thủ phủ bang Kuching. Ngay sau đó, những phiến quân cuối cùng của Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan dưới quyền Uông Sở Đình đầu hàng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nổi dậy cộng sản Sarawak** diễn ra tại Malaysia từ năm 1962 đến năm 1990, liên quan đến Đảng Cộng sản của vùng lãnh thổ xứ Bắc Kalimantan và Chính phủ Malaysia. Đây là một
Thuật ngữ **đảng cộng sản** có thể dùng để chỉ bất kỳ đảng nào theo chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, quan điểm về đảng cộng sản của Lenin không chỉ bao gồm việc định
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
**Sibu** () là thị trấn thủ phủ của huyện Sibu thuộc tỉnh Sibu, bang Sarawak, Malaysia. Thị trấn nội lục này nằm trên đảo Borneo, có diện tích là 129,5 km². Sibu nằm tại nơi hợp
**Vương quốc Sarawak** (còn gọi là **Quốc gia Sarawak**; Hán-Việt: **Sa Lạp Việt** 砂拉越) là một lãnh thổ bảo hộ của Anh nằm tại phần tây bắc của đảo Borneo. Quốc gia này ban đầu
Malaysia là một quốc gia tại Đông Nam Á, vị trí hàng hải chiến lược của nó có những ảnh hưởng căn bản đối với lịch sử quốc gia. Văn hóa Ấn Độ giáo và
**Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất** (**UMNO**; tiếng Mã Lai: _Pertubuhan Kebangsaan Melayu Bersatu_) là chính đảng lớn nhất của Malaysia. Đây là một thành viên sáng lập của Liên minh Mặt trận
nhỏ|phải|Biểu trưng và khẩu hiệu của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo **Công ty Đặc hứa Bắc Borneo** (tiếng Anh: _North Borneo Chartered Company_) hay **Công ty Bắc Borneo thuộc Anh** (tiếng Anh: _British North
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Malaysia** là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á, lãnh thổ bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích là 330,803 km². Malaysia
**Brunei**, quốc hiệu là **Brunei Darussalam**, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở bờ biển phía bắc của Borneo tại Đông Nam Á. Ngoại trừ dải bờ biển giáp biển Đông, quốc gia
**Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng** là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại xã Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách phường Đồng Hới khoảng 50 km về phía
**Singapore** (, , ), quốc hiệu là **Cộng hòa Singapore**, là một đảo quốc và thành quốc có chủ quyền ở Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi phía nam của bán đảo Mã
**Kuching** (chữ Jawi: ; ), gọi chính thức là **Thành phố Kuching**, là thủ phủ và thành phố đông dân nhất của bang Sarawak tại Malaysia. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Kuching. Thành
**Sabah** () là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với
**Borneo** hay **Kalimantan** là đảo lớn thứ ba thế giới và lớn nhất tại châu Á. Đảo thuộc Đông Nam Á hải đảo, nằm về phía bắc của đảo Java, phía tây đảo Sulawesi và
## Thời kỳ đầu Không có nhiều nghiên cứu về thời tiền sử của Brunei, một số thư tịch cổ Trung Hoa có ghi chép từ thế kỷ 6 đã có sự giao thương qua
nhỏ|Đông Malaysia nhỏ|Đảo [[Borneo]] **Đông Malaysia**, hay còn gọi là Borneo thuộc Malaysia, là phần lãnh thổ Malaysia nằm trên đảo Borneo. Khu vực này gồm hai bang là Sabah và Sarawak, cùng Lãnh thổ
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**_Ketuanan Melayu_** (nghĩa là "bá quyền của người Mã Lai") là một khái niệm chính trị nhấn mạnh tính ưu việt của người Mã Lai tại Malaysia hiện nay. Người Mã Lai tại Malaysia yêu
**Singapore** (), tên chính thức là **Bang Singapore** (), là một trong 14 tiểu bang của Malaysia từ năm 1963 đến năm 1965. Malaysia được thành lập vào ngày 16 tháng 9 năm 1963 thông
Cuộc **khủng hoảng chính trị Malaysia năm 2020** là một cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở Malaysia đã dẫn đến việc Mahathir Mohamad từ chức thủ tướng thứ bảy và bổ nhiệm
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Vườn quốc gia Gunung Mulu** là một vườn quốc gia nằm tại huyện Marudi, Miri, Sarawak, Malaysia. Đây là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm các hang động và thành
**Kota Kinabalu** (đọc là [ˈkota kinaˈbalu]), trước đây mang tên **Jesselton**, là thủ phủ của bang Sabah, Malaysia và cũng là thủ phủ của Phân khu Bờ Tây thuộc bang này. Thành phố có diện
**Trận Borneo** là một chiến dịch thành công của các Lực lượng Đế quốc Nhật Bản nhằm kiểm soát hòn đảo Borneo và tập trung chủ yếu vào việc chinh phục Raj Sarawak, Brunei, Bắc
**Cuộc bạo động Brunei** diễn ra vào ngày 8 tháng 12 năm 1962, do Yassin Affandi lãnh đạo, khiến vua Brunei là Omar Ali Saifuddin III phải chạy sang nước láng giềng Malaysia và kêu
**Mã Lai thuộc Anh** () là một trong những thuộc địa của Đế quốc Anh, bao gồm Định cư Eo biển (thành lập năm 1826), Liên bang Mã Lai (thành lập năm 1895) và năm
**Ngày Quốc Khánh** (tiếng Mã Lai: **_Hari Merdeka_**, còn được gọi là **_Hari Kebangsaan_** hay "Quốc khánh"), là ngày độc lập chính thức của nước Malaysia. Ngày này kỉ niệm Tuyên ngôn Độc lập Malayan
**_Connarus_** là một chi thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Chi này được Carl Linnaeus công bố mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. ## Từ nguyên Từ tiếng Hy Lạp κονναρος (_konnaros_),
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong đại dịch COVID-19 gây ra bởi SARS-CoV-2 tại Việt Nam năm 2020. ## Thống kê _Số liệu cuối ngày 31 tháng 12 năm 2020_
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
nhỏ|phải|Vị trí [[Đông Nam Á trên bản đồ thế giới]] ## Tiền sử ### Các xã hội nông nghiệp đầu tiên Nông nghiệp, một sự phát triển tự nhiên dựa trên nhu cầu. Trước khi
**Bánh cuốn**, còn gọi là **bánh mướt** hay **bánh** **ướt** (khi không có nhân), là một món ăn làm từ bột gạo hấp tráng mỏng, cuộn tròn, bên trong có thể có nhân hành, thịt,
**Đại thọ lâm** hay còn gọi là **Đại tòng lâm** là một khu rừng có trồng nhiều cổ thụ (đại thụ) mà diện-tích (tùy ý) được cải tạo thành một thiền viên (vườn thiền). Đại
**Haji Omar Lim Yew Hock** (15 tháng 10 năm 1914 – 30 tháng 11 năm 1984), tên khai sinh là **Lâm Hữu Phúc** (, Lim Yew Hock), là một chính trị gia người Singapore và
**Tòa án tối cao nước Cộng hòa Singapore** là một trong hai bậc của hệ thống tòa án Singapore, bậc kia là Tòa án sơ thẩm. Tòa án tối cao, bao gồm Tòa án thượng
**Biến cố 13 tháng 5 năm 1969** nhắc đến bạo lực bè phái giữa người Mã Lai và người Hoa tại Kuala Lumpur (đương thời thuộc bang Selangor), Malaysia. Náo loạn nổ ra sau khi
**Người Dayak** hoặc **Dyak** hoặc **Dayuh** là những dân tộc bản địa của Borneo. Đây là nhóm dân tộc với hơn 200 tiểu nhóm dân tộc sống ven sông và đồi, chủ yếu ở nội
**Lenggong** (Tiếng Trung giản thể: 玲珑; Tiếng Trung phồn thể: 玲瓏) là một thị trấn và khu vực bầu cử quốc hội nằm ở Hulu Perak, Perak, Malaysia. Thung lũng Lenggong ở Hulu Perak là
Ngày **17 tháng 10** là ngày thứ 290 (291 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 75 ngày trong năm. ## Sự kiện *1604 - Nhà thiên văn học Johannes Kepler quan sát một ngôi
**Vườn quốc gia Bantimurung – Bulusaraung** là một vườn quốc gia ở Nam Sulawesi, Indonesia. Vườn quốc gia này bao gồm khu vực karst Rammang-Rammang, là khu vực núi đá vôi lớn thứ hai được
right|thumb|Công nhân Trung Quốc trong một đồn điền [[Uncaria gambir|gambir và hồ tiêu ở Singapore, vào khoảng năm 1900.]] **Chế độ Cảng chủ** là một hệ thống tổ chức và hành chính kinh tế xã
[[Tập tin:Passports-assorted.jpg|nhỏ|Hộ chiếu thông thường của Hà Lan, ngoại giao Nepal, hộ chiếu phổ thông của Ba Lan và Hộ chiếu Công vụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] nhỏ|Kiểm soát hộ chiếu tại
Tun Dr. **Mahathir bin Mohamad** (Jawi: ; ; sinh ngày 10 tháng 7 năm 1925) là một chính trị gia Malaysia từng giữ chức thủ tướng Malaysia. Ông được bổ nhiệm làm thủ tướng năm
**Belait District** (; chữ Jawi: دأيره بلأيت) hay đơn giản gọi là **Belait** (__; ), là huyện lớn nhất và cực tây của Brunei. Huyện có diện tích 2.727 km² (1.053 dặm vuông Anh) và
**Vườn quốc gia Niah** là một vườn quốc gia nằm ở Miri, Sarawak, Malaysia trên đảo Borneo. Đây là một điểm thu hút du lịch lớn ở Sarawak, được biết đến với địa điểm khảo
**Bắc Borneo** () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc