✨Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963

Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963

Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963 là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân vị do các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa thực hiện với sự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Cuộc đảo chính đã giết chết anh em Tổng thống là Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu, chính thể Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ và Đảng Cần lao Nhân vị cầm quyền cũng bị giải tán theo, chuyển vai trò lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa sang Hội đồng quân sự do Dương Văn Minh đứng đầu. Cuộc đảo chính được coi là bước ngoặt suy yếu của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.

Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa (1967-1975), cuộc đảo chính này còn được sách giáo khoa lịch sử Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam gọi là Cách mạng 1-11-1963. Sau cuộc đảo chính này, ngày 1 tháng 11 chính thức trở thành ngày quốc khánh của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam ở miền Nam Việt Nam.

Nguyên nhân

Các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa bất mãn trước cách cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm nên họ muốn thực hiện đảo chính để chấm dứt cuộc khủng hoảng Phật giáo. Cuộc đảo chính được Mỹ ủng hộ do chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm không thực hiện những thay đổi chính trị theo khuyến cáo của Mỹ dẫn đến mâu thuẫn với chính phủ Mỹ. Do đó, Mỹ hỗ trợ cho các tướng lĩnh đảo chính.

Độc tài, gia đình trị

Kể từ khi về nước chấp chính, Ngô Đình Diệm đã được sự ủng hộ của Chính phủ Mỹ, đã tập hợp được nhiều đồng minh để lần lượt dẹp trừ các thế lực chống đối của cộng sản, giáo phái và các đảng phái. Tuy nhiên, khi chính sự đã ổn định, Tổng thống Diệm đã dần trở mặt với các thỏa hiệp ban đầu với những người đã ủng hộ ông và giúp ông giữ được ngôi vị Tổng thống. Để đảm bảo vị thế quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm chủ trương kiềm chế các phe phái chính trị đối lập cũng như ảnh hưởng từ phía nước ngoài như Mỹ, Pháp. Điều này giúp ông có thể tập trung sức mạnh để đương đầu với đối thủ mà ông cho là nguy hiểm nhất: những người Cộng sản. Các tướng lĩnh như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân,... các chính khách như Trần Văn Hương, Nguyễn Ngọc Thơ, Phan Khắc Sửu,... kể cả nhiều đảng viên cao cấp của đảng Cần Lao như Trần Chánh Thành, Võ Văn Trưng,... lần lượt đều bị xa lánh và tước bỏ ảnh hưởng. Trong nền Đệ Nhất Cộng hòa, ngoài Tổng thống Diệm, quyền hành bị tập trung vào trong tay một số người thân trong gia đình ông như:

Ngô Đình Nhu với chức vụ "Cố vấn Chính trị" là bộ não của chế độ, nơi khai sinh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Tuy là Dân biểu nhưng không mấy khi đặt chân đến Quốc hội để làm trách nhiệm dân cử, mà chỉ ngồi tại dinh Tổng thống để ra chỉ thị cho Quốc hội làm luật theo ý của anh em ông ta.

Trần Lệ Xuân - phu nhân của Ngô Đình Nhu, được coi là Đệ Nhất Phu nhân của chế độ Việt Nam Cộng hòa, là một trong các nhân vật then chốt của Chính quyền (a key figure in the Diem regime) với những uy quyền to lớn. đã gửi công điện số 5159 yêu cầu các địa phương siết chặt quy định không được treo cờ Tôn giáo ngoài khuôn viên cơ sở Tôn giáo. Mặc dù trước đó trong các dịp lễ Ki-tô giáo, cờ Tòa thánh Vatican và cả cờ Phật giáo được treo tự do mà không bị Chính phủ cấm đoán.

Ngày 7 tháng 5, trong lúc dân chúng Huế và Thừa Thiên sửa soạn làm lễ Phật Đản thì cảnh sát đến tận nhà buộc dân chúng phải hạ cờ Phật giáo. Nhưng sau đó Phật giáo và Việt Nam Cộng hòa đã đạt được thoả thuận cho phép treo cờ Phật giáo trong ngày Phật đản. Tuy vậy Phật giáo vẫn quyết định sẽ nhân cơ hội này đấu tranh chống chính quyền.

Ngày 8 tháng 5, tại lễ Phật đản ở chùa Từ Đàm, trong bài thuyết pháp, Thượng tọa Thích Trí Quang, một trong các nhân vật có ảnh hưởng của Phật giáo miền Nam Việt Nam, người bị các nhà phân tích CIA mô tả là một kẻ mị dân, cực kì chống Công giáo, một người theo chủ nghĩa quốc gia cuồng tín, và một kẻ vĩ cuồng với mục tiêu tối hậu là thành lập ở Miền Nam một chế độ thần quyền Phật giáo chỉ trích chủ trương kỳ thị Phật giáo của Việt Nam Cộng hòa. Thượng tọa Trí Quang cũng có nhắc đến cờ Công giáo Vatican treo khắp đường phố vào các dịp lễ sao không cấm, mà lại cấm đúng vào ngày Phật Đản. Nhiều đoàn thể Phật tử yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng hòa cho phát thanh lại bài thuyết pháp của Thượng tọa Trí Quang, nhưng Giám đốc Đài phát thanh Huế là ông Ngô Ganh không đồng ý vì băng chưa được kiểm duyệt, nên vài ngàn Phật tử kéo đến đài để trực tiếp yêu cầu. Ngay lập tức, làn sóng phản đối chính quyền càng ngày càng dâng cao và càng trở nên bạo động.

Hôm sau, vào ngày 9 tháng 5 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến tư gia Tỉnh trưởng Huế biểu tình và đòi hỏi 5 điểm sau đây:

Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật giáo.

Phật giáo được quyền bình đẳng như Công giáo.

Không được đàn áp Phật giáo.

Phật tử được quyền thờ phượng Tôn giáo của mình.

Chính quyền phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 8 tháng 5 năm 1963.

Ngày 15 tháng 5 năm 1963, một phái đoàn Phật giáo từ thành phố Huế vào Sài Gòn trình kiến nghị cho Tổng thống Ngô Dình Diệm. Ngô Đình Diệm đồng ý hầu hết các yêu sách và hứa sẽ điều tra.

Ngày 25 tháng 5 năm 1963, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam và đại diện các tổ chức và môn phái Phật giáo khác liên kết thành lập Ủy ban Liên phái.

Ngày 28 tháng 5 năm 1963, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Lãnh đạo Phật giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu tình. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường.

Ngày 30 tháng 5, Phật giáo tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại chùa Xá Lợi và chùa Ấn Quang, các tăng ni và Phật tử tuyệt thực 48 giờ, đồng thời 300 tăng ni biểu tình trước Quốc hội với những khẩu hiệu yêu cầu Chính phủ thỏa mãn năm nguyện vọng của Phật giáo.

Ngày 7 tháng 6 năm 1963, Trần Lệ Xuân - vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu - lên án là những vị lãnh tụ Phật giáo đã "bị Cộng sản giật dây'.

Sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại lá thư tâm huyết

Sau đó, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt (nay là Cách mạng Tháng Tám) và Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) ở thành phố Sài Gòn, để phản đối chế độ Việt Nam Cộng hòa đàn áp Phật giáo. Hình ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu trong ngọn lửa bập bùng do Brown - phóng viên hãng tin Mỹ ABC thường trú tại Sài Gòn đăng tải các báo, làm rúng động toàn thể dân chúng Việt Nam và thế giới. Cái chết của vị Hòa thượng này là ngọn lửa châm ngòi cho Phật giáo đấu tranh mạnh mẽ hơn.

Ngày 16 tháng 6, các tăng ni biểu tình trước toà đại sứ Mỹ đồng thời tại chùa Giác Minh hàng ngàn Phật tử tụ tập dự tang lễ Thượng Toạ Quảng Đức. Cuộc tụ tập biểu tình, có xô xát với cảnh sát, làm cho nhiều người bị thương, hàng trăm bị bắt.

Ngày 16 tháng 6 năm 1963, Ủy ban Liên bộ và Ủy ban Liên phái ra Thông cáo chung về việc giải quyết các nguyện vọng của Phật giáo.

Ngày 18 tháng 7 năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra thông điệp kêu gọi "quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của chính phủ trong vấn đề Phật giáo" và "quốc dân đồng bào từ nay sẽ khách quan phán quyết để có thái độ hành động, không để ai làm ngăn cản bước tiến của dân tộc trong nhiệm vụ diệt Cộng cứu quốc" được đài phát thanh phát lại nhiều lần.

Trong các ngày 9 và 29 tháng 7 năm 1963, bộ Nội vụ liên tiếp ra hai nghị định công nhận cờ Phật giáo và việc treo cờ Phật giáo. Tuy nhiên, những cuộc tập họp của Phật giáo bị cản trở, một số tín đồ bị bắt và Chính phủ tổ chức những hội đoàn thân Chính phủ, lên tiếng phản đối Phật giáo.

Ngày 1 tháng 8 năm 1963, trả lời phỏng vấn của đài CBS (Columbia Broadcasting System, Hoa Kỳ), bà Trần Lệ Xuân tố cáo các lãnh tụ Phật giáo đang mưu toan lật đổ Chính phủ và tự thiêu chỉ là việc "nướng thịt sư" (barbecue a bonze).

Ngày 3 tháng 8 năm 1963, khi phát biểu tại lễ mãn khóa huấn luyện bán quân sự của Đoàn Thanh nữ Cộng hòa, bà Trần Lệ Xuân lên án những vụ tranh đấu về Tôn giáo. Lời lẽ của bà Nhu được cha bà là Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, gọi là "thiếu lễ độ" đối với Phật giáo. Mấy hôm sau, bà Nhu bằng giọng gay gắt và chế giễu cho rằng dù bà có thiếu lễ độ đối với Phật giáo chăng nữa, thì có lúc cần phải thiếu lễ độ. Cũng trong ngày này Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, thế danh Đoàn Mễ, tự thiêu ở chùa Từ Đàm, thành phố Huế.

Dù đã cố gắng đối thoại với các lãnh đạo Phật giáo và ra một số văn bản nhằm giải quyết những bức xúc của Phật giáo nhưng vẫn không ổn định nổi tình hình. Cuối cùng chính phủ Ngô Đình Diệm quyết định sử dụng những biện pháp cứng rắn để chấm dứt phong trào đấu tranh của Phật giáo. và Tổng thống Diệm quyết định thiết quân luật trên toàn quốc kể từ 0 giờ sáng 21 tháng 8 năm 1963 với lý do:" có tin Việt Cộng sắp tràn ngập Thủ đô." Đa số các lãnh tụ Phật giáo bị bắt, Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị xô ngã, Sau đó, Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết được thả nhưng những người dưới quyền ông vẫn bị giam giữ.

Sáng ngày 21 tháng 8, Tổng thống Ngô Đình Diệm triệu tập nội các và báo tin là quân luật đã được thiết lập trên toàn lãnh thổ vì Cộng quân đã xâm nhập vào các châu thành Thủ đô Sài Gòn. Ông cũng cho các vị Bộ trưởng hay về việc đánh chiếm các chùa và bắt giữ "bọn tăng ni làm loạn".

Sau vụ tấn công chùa, tình hình càng thêm rối loạn. Trần Văn Chương đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ tuyên bố từ chức. Bà Trần Văn Chương nhũ danh là Thân Thị Nam Trân cũng từ chức quan sát Việt Nam tại Liên Hợp Quốc.

Ngày 22 tháng 8 năm 1963, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu cạo đầu từ chức và thành lập phong trào Trí thức chống Độc tài.

Tối ngày 23 tháng 8 năm 1963, Trung tướng Trần Văn Đôn cho mời Trung tá Lucien Conein, nhân viên CIA, đến gặp tại Bộ Tổng tham mưu để thanh minh rằng quân đội không tham gia vào việc đánh phá các chùa mà chính là Cảnh sát Đặc biệt của Chính phủ. Khi Conein hỏi "Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không?", thì tướng Đôn dè dặt trả lời "sẽ nói chuyện sau". Từ đó, Conein thường liên lạc và dò hỏi các tướng lãnh Việt Nam.

Ngày 25 tháng 8 năm 1963, ba trăm sinh viên học sinh tổ chức biểu tình tại Công trường Diên Hồng phía trước chợ Bến Thành trong lúc đang có lệnh giới nghiêm. Các Trung đội Cảnh sát Dã chiến gần đó được tin liền kéo tới đàn áp. Cảnh sát bắn cả vào đám biểu tình. Nữ sinh Quách Thị Trang trúng đạn tử thương. Khoảng 200 người bị bắt giữ. Ngay chiều hôm đó Chính quyền Đô thành ra thông cáo rằng các lực lượng an ninh đã được lệnh nổ súng vào bất cứ đám đông nào tụ họp ngoài công lộ mà không xin phép trước.

Ngày 7 tháng 9 năm 1963, học sinh các trường Trung học Công lập Gia Long, Trưng Vương và Võ Trường Toản tổ chức mít tinh bãi khóa ngay tại sân trường của họ.

Ngày 5 tháng 10 năm 1963, trước chợ Bến Thành, Đại đức Thích Quảng Hương, thế danh Nguyễn Ngọc Kỳ, tự thiêu để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Diệm.

10 sáng ngày 10 tháng 9 năm 1963, Thiền sư Thiện Mỹ châm lửa tự thiêu trước Nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn.

Mâu thuẫn với chính phủ Hoa Kỳ

phải|Cố vấn Ngô Đình Nhu tiếp kiến Phó tổng thống Mỹ tại dinh Gia Long năm 1961 Một số thành viên trong chính phủ Hoa Kỳ cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm tham nhũng, đàn áp đối lập, không chống cộng hữu hiệu. Một điều quan trọng hơn cả đối với người Mỹ là Ngô Đình Diệm có thái độ dè chừng, giữ khoảng cách với chính người Mỹ, cùng với việc Diệm ngày càng trở nên độc đoán, bảo thủ, khó tiếp cận và khó thuyết phục trong khi mục tiêu chống Cộng đang ngày càng gặp nhiều khó khăn đã khiến cho quan hệ giữa CIA và các cơ sở khác của Mỹ với anh em Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Và người Mỹ một lần nữa lại nghĩ đến nước cờ "thay ngựa giữa dòng" đối với Ngô Đình Diệm.

Trong một cuộc tiếp kiến Đại sứ Frederick Nolting, khi Nolting đề nghị để cho Hoa Kỳ chia sẻ những quyết định về Chính trị, Quân sự và Kinh tế, Ngô Đình Diệm trả lời rằng "chúng tôi không muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ". Có nguồn cho rằng từ năm 1961, Hoa Kỳ muốn thành lập căn cứ Không quân và Hải quân tại Cam Ranh, nhưng Tổng thống Ngô Đình Diệm không chấp thuận.

Tác giả Chính Đạo cho rằng từ tháng 8 năm 1962, Joseph A. Mendenhall, Cố vấn chính trị Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã đề nghị loại bỏ Ngô Đình Diệm, vợ chồng Ngô Đình Nhu và những người trong gia đình ông Diệm, bằng một số nhân vật khác biết tuân phục Mỹ, vì Tổng thống Ngô Đình Diệm không chịu thay chủ trương chính sách như người Mỹ muốn.

Có tin rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm đã bí mật liên lạc để tìm cách thỏa hiệp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cụ thể là tháng 2 năm 1963, Ngô Đình Nhu mượn cớ đi săn cọp, đã bí mật gặp tại Bình Tuy một cán bộ cộng sản cao cấp là Phạm Hùng và có thể cả tướng Trần Độ. Chính phủ Hoa Kỳ khá bận tâm với nguồn tin này.

Tổng thống Kennedy lo ngại tình hình Việt Nam ảnh hưởng xấu đến cuộc tái tranh cử của ông vào năm 1964. Do đó Kennedy muốn tìm một giải pháp mới, nhằm thay đổi tình hình tại Việt Nam theo chiều hướng có lợi cuộc tái tranh cử của mình.

Trong cuộc họp báo ngày 22 tháng 5 về Việt Nam, Tổng thống Kennedy đã có những lời lẽ chỉ trích Chính phủ Ngô Đình Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa bất cứ lúc nào họ yêu cầu. Trả lời báo chí, ông ngụ ý là "Việt Nam muốn chiến thắng Cộng sản, cần phải có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản".

Ngày 23 tháng 5 năm 1963 (sau biến cố Phật giáo ở Huế), người đứng đầu Nhóm nghiên cứu Việt Nam thuộc Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, Ben Wood, đưa ra một kế hoạch về các cách thay đổi chính phủ Diệm bằng một nhóm lãnh đạo khác phù hợp với mong muốn của chính phủ Mỹ.

Ngày 27 tháng 6 năm 1963, Tổng thống Kennedy công bố quyết định thay đổi Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. (Thay đổi Đại sứ trong lúc tình hình căng thẳng là dấu hiệu thay đổi Chính sách).

Ngày 29 tháng 9 năm 1963, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara cùng tướng Maxwell Taylor qua Sài Gòn gặp Ngô Đình Diệm. McNamara nói với Ngô Đình Diệm rằng việc đàn áp Phật giáo gây trở ngại cho nỗ lực chống Cộng và phàn nàn về những tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu, nhưng Ngô Đình Diệm né tránh các vấn đề do McNamara đưa ra.

Diễn biến

trái|Nhà thờ Cha Tam, nơi hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu trú ẩn trước khi bị hạ sát.

Từ tháng 7 năm 1963 đã có những tin đồn về việc sắp xảy ra đảo chính. Các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Dương Văn Minh có ý định đảo chính để chấm dứt khủng hoảng, lật đổ Chính phủ bị nhiều người xem là độc tài, gia đình trị. Theo báo cáo của CIA, đồng thời có ít nhất mười nhóm âm mưu đảo chính cùng chung mục đích kể trên của các tướng tá trẻ. Chính các nhóm này gây áp lực khiến các tướng lĩnh cấp cao phải quyết định hành động để ổn định tình hình, ngăn ngừa xảy ra những cuộc đảo chính của các nhóm khác có thể đưa miền Nam vào khủng hoảng trầm trọng hơn.

Để đối phó, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra lệnh thuyên chuyển các tướng lãnh Tư lệnh các Vùng chiến thuật. Tướng Tôn Thất Đính từ Vùng II chuyển về Vùng III. Tướng Huỳnh Văn Cao được đưa về Vùng IV. Tướng Nguyễn Khánh được đưa ra Vùng II, tướng Đỗ Cao Trí được đưa ra Vùng I. Những tướng bị nghi ngờ thì được triệu về Sài Gòn giữ những chức vụ không có quân trong tay. Tướng Trần Văn Đôn làm cố vấn quân sự cho Phủ Tổng thống. Hai lực lượng hùng hậu nhất mà chính quyền tin cậy là Lực lượng Đặc biệt do Đại tá Lê Quang Tung làm Tư lệnh và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ do Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi làm Tư lệnh, được bố phòng chặt chẽ nhằm sẵn sàng đối phó.

Chuẩn bị

Bùi Diễm đã viết trong hồi ký của mình rằng: tướng Lê Văn Kim đã yêu cầu hỗ trợ nhằm thực hiện điều mà chính phủ Hoa Kỳ muốn làm với chính quyền của Ngô Đình Diệm (tức gạt bỏ chính quyền của Ngô Đình Diệm). Diễm đã liên lạc với cả đại sứ và các nhà báo thạo tin của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, như David Halberstam (New York Times), Neil Sheehan (United Press International) và Malcolm Browne (Associated Press).

Henry Cabot Lodge, Jr. đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa sau khi biết về âm mưu đảo chính, được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa do tướng Dương Văn Minh cầm đầu, đã báo cáo cho Tổng thống Mỹ xin ý kiến. Biên bản cuộc họp ngày 29 tháng 10 năm 1963 giữa Tổng thống Mỹ và các cố vấn cho thấy Tổng thống Mỹ sau khi họp với 15 cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia không đưa ra được ý kiến thống nhất về vấn đề này mà để cho đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. tùy cơ ứng biến. Tại Washington, Ngoại trưởng Dean Rusk truyền đạt quyết định đến Đại sứ Lodge ở Sài Gòn. Lodge báo tin cho nhân viên CIA Lucien Conein. Ngày 3 tháng 10 năm 1963, Conein gặp tướng Minh là người nói cho ông biết ý định đảo chính và yêu cầu người Mỹ hỗ trợ nếu nó thành công. Trong phim tài liệu Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày của đạo diễn Michael Maclear, nhân viên CIA Lucien Conein kể lại rằng khi được thông báo về ý định đảo chính ông ta nói: "Lệnh mà tôi nhận là thế này: Tôi phải cho tướng Minh biết rằng Chính phủ Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính của họ, và tôi đã truyền đạt điều này.". Sau đó Conein bí mật gặp tướng Trần Văn Đôn để nói với ông này rằng Hoa Kỳ phản đối bất cứ hành động ám sát nào. Tướng Đôn trả lời "Được rồi, nếu anh không thích điều đó chúng ta sẽ không nói về nó nữa.". để hỗ trợ cho việc thực hiện đảo chính với lời hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không làm bất cứ điều gì để bảo vệ Ngô Đình Diệm.. Theo Việt Nam nhân chứng của Trần Văn Đôn thì các tướng Trần Thiện Khiêm nhận 500.000 đồng, Tôn Thất Đính nhận 600.000 đồng, đại tá Lê Nguyên Khang nhận 100.000 đồng, đại tá Nguyễn Văn Thiệu nhận 50.000 đồng, đại tá Trần Ngọc Huyến thị trưởng Đà lạt nhận 100.000 đồng; tất cả có biên nhận rõ ràng. Số tiền còn lại được chia cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim,Nguyễn Hữu Có, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Khánh, Trần Ngọc Tám. Ngay sau đó, tướng Dương Văn Minh đề nghị tất cả tướng lãnh tham dự vào cuộc đảo chính. thumb|Quyết nghị của hội đồng quân nhân cách mạng Hầu hết các tướng lĩnh đều hưởng ứng, trừ 5 người đứng dậy phản đối. Đại tá Cao Văn Viên đứng dậy từ chối tham gia, nhưng khi thấy không có nhiều người hưởng ứng mình thì ông nói tiếp là sẽ không chống lại đảo chính, rồi lại ngồi xuống 4 người khác phản đối gồm có Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi - Tư lệnh Liên binh Phòng vệ Phủ tổng thống; Thiếu tá Nguyễn Đức Xích, Tỉnh trưởng Gia Định; Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt và Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, ở Không quân. Các ông bị bắt ngay sau đó và bị Đại úy Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tùy viên của tướng Dương Văn Minh, đưa sang tạm giam trong phòng "cô lập các sĩ quan chống đối". Đêm đó, Nguyễn Văn Nhung đem Đại tá Tung và em trai là Thiếu tá Lê Quang Triệu, Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt ra Nghĩa trang Bắc Việt Tương tế ở sau doanh trại của Bộ Tổng tham mưu. Nhung cùng 1 một quân cảnh khác dùng lưỡi lê đâm tới tấp anh em Tung - Triệu cho đến chết. Khi cả hai anh em Tung - Triệu đã chết hẳn, Nhung ra lệnh vùi xác cả hai vào một đống cỏ rác.

Tại Vùng IV Chiến thuật, tướng Huỳnh Văn Cao lúc đầu nhất định không theo đảo chính. Ông đã cố gắng để liên lạc với Đại tá Bùi Dzinh Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng ở Sa Đéc và Đại tá Bùi Đình Đạm Tư lệnh Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho đem quân về, nhưng Sư đoàn 7 thì bị Đại tá Nguyễn Hữu Có đem công điện của Trung tướng Đôn về đoạt quyền Tư lệnh của đại tá Đạm. Kế tiếp ông Có đã đem quân Sư đoàn 7 ra chặn ở ngã ba Trung Lương và cho rút hết các chiếc phà Mỹ Thuận để ngăn chặn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền Giang. Sau đảo chính, Huỳnh Văn Cao chỉ được giao các chức vụ không quan trọng, rồi phải giải ngũ vào năm 1966.

Cao điểm

Lúc 12 giờ 10, tại Dinh Gia Long, khi Tổng thống Ngô Đình Diệm được tin báo về cuộc đảo chính ông và Cố vấn Ngô Đình Nhu di chuyển xuống hầm bí mật đào dưới dinh Gia Long. Hầm này có phòng ngủ, phòng tắm và phòng khách cho Tổng thống và Cố vấn, và có địa đạo dẫn ra ngoài dinh. Tại đây ông ra lệnh cho các sĩ quan cận vệ liên lạc với các tướng Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính yêu cầu đến ứng cứu.

Vào 1 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, tướng Mai Hữu Xuân kiểm soát được đơn vị của Lực lượng Đặc biệt đóng tại Tân Sơn Nhất, đồng thời tướng Xuân cũng đưa tân binh quân dịch ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung về chặn các ngả đường tiến vào Sài Gòn. Trung tá Nguyễn Cao Kỳ nắm quyền Tư lệnh Không quân (Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư lệnh Không quân đang bị giam tại Bộ Tổng tham mưu) cho phi cơ phóng pháo bay lượn trên không phận Sài Gòn để uy hiếp các lực lượng chống đảo chính. cho đến rạng sáng ngày 2 tháng 11 thì lực lượng này buông súng theo lệnh của Tổng thống Diệm, để Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đem 1 Trung đội vào tiếp thu.

Ngô Đình Diệm liên lạc với phe đảo chính và Đại sứ Mỹ

Lúc đầu, ông Diệm vẫn hy vọng rằng cuối cùng cuộc phản loạn này cũng kết thúc như cuộc đảo chính bất thành ngày 11 tháng 11 năm 1960. Ông đã chủ động gọi tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn tuyên bố với Ngô Đình Diệm phe đảo chính hành động để "đáp lại nguyện vọng của nhân dân" vì các tướng lĩnh đã đề nghị Ngô Đình Diệm "cải cách chính sách theo nguyện vọng của nhân dân" nhiều lần nhưng không được đáp ứng. Ngô Đình Diệm đề nghị đối thoại với các tướng lĩnh để "tìm ra con đường củng cố lại chế độ". Tướng Đôn trả lời sẽ bàn bạc với các tướng lĩnh khác về đề nghị của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Cuộc gọi điện giữa ông Diệm và tướng Đôn được Lý Quí Chung kể lại trong Hồi ký không tên như sau:

:Ông Diệm: ::Tướng lãnh các anh đang làm gì vậy? :Tướng Đôn: ::Thưa cụ, chúng tôi đã đề nghị với cụ nhiều lần rằng cụ cần cải cách chính sách theo nguyện vọng của nhân dân. Bây giờ đã đến lúc quân đội phải đáp lại nguyện vọng của nhân dân. Mong cụ hiểu chúng tôi. :Ông Diệm: ::Tại sao chúng ta không ngồi lại với nhau nói chuyện? Chúng ta sẽ bàn về cái mạnh và cái yếu của chế độ, và tìm ra con đường củng cố lại chế độ. :Tướng Đôn: ::Có lẽ đã quá trễ để bàn luận việc đó, thưa cụ. :Ông Diệm: ::Chưa bao giờ là trễ, do đó tôi mời tất cả các anh đến dinh cùng bàn vấn đề, vạch ra một giải pháp được cả đôi bên chấp nhận. :Tướng Đôn: ::Thưa cụ, tôi phải hỏi lại ý kiến những người khác xem sao.

Vào lúc 4 giờ 30 chiều 1 tháng 11 năm 1963, ông Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ Cabot Lodge để thăm dò thái độ của người Mỹ về việc các tướng lĩnh dưới quyền tổ chức đảo chính. Cabot Lodge khuyên Ngô Đình Diệm từ chức và lưu vong như mong muốn của phe đảo chính để bảo toàn tính mạng. Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận thức rằng người Mỹ đã ủng hộ âm mưu đảo chính của các tướng lĩnh.

::"Một đơn vị quân đội đang làm loạn. Và thông qua ông Đại sứ, tôi muốn biết thái độ của người Mỹ về vấn đề này ra sao?" - Ngô Đình Diệm thử thăm dò. ::"Xin lỗi Tổng thống, tôi không nắm được thông tin đầy đủ về chuyện này để trả lời Tổng thống. Tôi có nghe tiếng súng nổ ở đâu đó, nhưng rất tiếc tôi không nắm chắc chuyện gì đang xảy ra." - Lodge giả vờ ngây ngô để tìm cách thoái thác. "Hơn nữa, thưa Tổng thống hiện tại đang là 4 giờ 30 phút sáng theo giờ của đất nước chúng tôi. Do đó, Chính phủ Mỹ không thể kịp thức dậy để bày tỏ quan điểm nào đó vào lúc này." ::"Nhưng ông cũng phải có một số ý kiến rõ rệt chứ. Dẫu sao, hiện tại tôi cũng đang nắm quyền tối cao tại đất nước này. Tôi đã cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình. Tôi muốn một thái độ hành xử đúng đắn vào lúc này, điều mà trách nhiệm và ý thức luôn đòi hỏi ở tôi. Tôi luôn tin tôi đã làm đúng bổn phận của mình." ::"Chắc chắn ngài đã làm đúng bổn phận của ngài, thưa Tổng thống. Như tôi đã nói với ngài sáng nay, tôi ngưỡng mộ sự dũng cảm cũng như sự đóng góp to lớn của ngài dành cho đất nước ngài. Không ai có thể phủ nhận những gì ngài đã làm. Nhưng thú thật, hiện tại tôi đang lo cho sự an toàn của ngài. Tôi có một báo cáo cho biết những người chịu trách nhiệm tình hình hiện nay sẵn sàng cấp cho ngài và em của ngài giấy thông hành an toàn rời khỏi đất nước nếu như ngài từ chức. Ngài đã từng nghe nói đến việc này chưa?"

Đến 6 giờ 30 cùng ngày, ông Diệm gọi lại tướng Đôn, nhưng được tướng Đôn thông báo sự khước từ của phe đảo chính. Họ đòi hỏi hai anh em ông Diệm phải rời khỏi nước. Ông Diệm đồng ý nhưng đặt một điều kiện: phe đảo chính phải chấp nhận cho ông các nghi thức danh dự ra đi của một tổng thống nhưng bị từ chối.

:Ông Diệm: ::Tôi là một tổng thống dân cử của quốc gia. Tôi sẵn sàng từ chức công khai, và tôi cũng sẵn sàng rời khỏi nước. Nhưng tôi yêu cầu các ông dành cho tôi các nghi thức danh dự ra đi của một tổng thống. :Tướng Đôn: (Suy nghĩ một lúc) ::Thật sự, tôi phải nói rằng chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của cụ về điểm này. :Ông Diệm: ::Thôi được. Cảm ơn.

Anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết

phải|Thi hài Ngô Đình Diệm sau khi bị hạ sát. Một sỹ quan đảo chính tươi cười chụp ảnh bên xác Ngô Đình Diệm|phải Qua đài phát thanh, khi biết các tướng Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính đều tham gia phe đảo chính, 8h tối ngày 1 tháng 11, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu cùng 2 sĩ quan tùy viên (Đại úy Đỗ Thọ và Đại úy Bằng) trốn về nhà Mã Tuyên, Tổng bang trưởng của người Hoa và cũng là Thủ lĩnh Thanh niên Cộng hòa ở Chợ Lớn. Sáng sớm ngày 2 tháng 11, từ nhà Mã Tuyên hai ông sang dự lễ và cầu nguyện tại nhà thờ Cha Tam. Tại đây Tổng thống Diệm ra lệnh Đại úy tùy viên Đỗ Thọ lấy điện thoại Nhà xứ gọi về Tổng tham mưu thông báo là hiện Tổng thống đang ở Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn.

Vào khoảng 7h sáng ngày 2 tháng 11, một phái đoàn gồm có 3 chiếc xe Jeep, hai chiếc Thiết giáp M-113, 2 chiếc GMC chở đầy lính vũ trang và các nhân vật: tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Đại tá Nguyễn Văn Quan, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và Đại úy Dương Hiếu Nghĩa, Đại úy Phan Hòa Hiệp được đưa tới nhà thờ cha Tam để đón hai ông. Đại tá Lắm tuyên bố thừa lệnh Trung tướng Chủ tịch Hội đồng Quân Nhân Cách mạng ép hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu lên xe Thiết giáp M-113.

:Đại tá Lắm đến chào Ngô Đình Diệm: ::Thừa lệnh Trung tướng Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, chúng tôi đến đón Cụ và ông Cố vấn.

:Ngô Đình Diệm bèn hỏi: ::Ông Đôn và ông Minh đâu hè?

:Đại tá Lắm đáp: ::Thưa Cụ, hai ông còn đang bận việc ở Tổng tham mưu.

:Ngô Đình Diệm nói: ::Thôi được. Thế tôi và ông Cố vấn đi cùng xe kia với ông.

:Đại tá Lắm quay người lại chỉ vào chiếc M.113 và nói: ::Thưa Cụ, xin Cụ lên xe này cho.

:Ngô Đình Nhu khẽ nhíu mày lên tiếng: ::Không thể đón Tổng thống bằng một chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.

:Đại tá Lắm khẽ nhún vai: ::Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung tướng Chủ tịch.

:Đại úy Nhung liền oang oang: ::Xin mời hai ông lên xe ngay cho đi.

:Mặt Cố vấn Ngô Đình Nhu đỏ bừng, giọng rất quyết liệt: ::Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng thống...

:Đại úy Nhung: ::Ở đây không còn Tổng thống nào cả.

Ngay lập tức, viên Đại uý này bảo hai quân nhân chạy đến đẩy hai ông lên xe và kéo cửa lên...

Thi hài anh em Tổng thống Diệm được âm thầm an táng trong vòng thành Bộ Tổng tham mưu (về sau thì di dời ra Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi) với sự hiện diện của người cháu gái và làm thủ tục khai tử tại quận Tân Bình. Về nghề nghiệp của Tổng thống Ngô Đình Diệm được ghi là Tuần Vũ và ông Nhu là Quản thủ Thư viện. Tướng Đỗ Cao Trí cũng thông báo với Ngô Đình Cẩn rằng Hội đồng Quân nhân Cách mạng sẽ tịch thu tài sản của ông này và đề nghị giữ giùm tài sản của Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Cẩn đã trao 24 kg vàng cho tướng Đỗ Cao Trí cùng một số đồ quý giá và tiền mặt.

Tuy nhiên không phải ai cũng vui như thế. Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (thời điểm này là Trung tá) cũng như nhiều người khác cảm thấy bất nhẫn khi nghe tin hai ông Diệm Nhu bị thảm sát, ông Kỳ viết: "I was shocked and angry, however, the next day when I learned that Diem and Nhu had been shot to death ... But killing him was not necessary, and if I had known that murder had been on the conspirators' agenda...It was too late to go back, but with these killings I lost what little respect I once had for generals. It showed how fearful they were of maintaining power" ("Tôi đã rất sốc và buồn bực, nhưng ngày hôm sau tôi biết rằng Diệm và Nhu đã bị bắn mà chết... Nhưng giết ông ấy là không cần thiết, và nếu tôi biết rằng vụ sát nhân đã được chuẩn bị trong âm mưu nghị sự...Thật là quá trễ để quay đầu, nhưng với chuyện sát nhân này tôi đã mất đi sự tôn trọng nhỏ mà tôi đã từng có với các tướng. Nó cho thấy sự đáng sợ thế nào trong cách mà họ duy trì quyền lực").

Theo đại tướng Maxwell Taylor - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ - John F. Kennedy luôn kiên trì chủ trương trục xuất Ngô Đình Diệm ra khỏi Việt Nam là đủ rồi và đã dặn dò đảo chính "Chớ nên đổ máu!" nhưng sự thực xảy ra hoàn toàn trái ngược với ý nguyện của ông. Đại tướng Maxwell Taylor cho biết về thái độ của Tổng thống Hoa Kỳ sau khi nghe tin anh em Ngô Đình Diệm đã bị phe đảo chính giết chết:

Nghe tin tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết, Tổng thống Đài Loan Tưởng Giới Thạch thương tiếc nói rằng:

Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ giật mình, Tổng thống Hồi Quốc (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon:

Hậu quả

Các cơ quan do Ngô Đình Diệm lập ra như Đảng Cần Lao, Sở Nghiên cứu Chính trị, Lực lượng Đặc biệt, 4 cơ quan Mật vụ Công an, Phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh Niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đớì, các xóm Đạo võ trang... tất cả đều tê liệt rồi tan rã không một phản ứng. Cả cấu trúc chính trị mà họ Ngô xây dựng trong 9 năm đã sụp đổ trong 24 tiếng đồng hồ.

Sách giáo khoa lịch sử của Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa (Quốc sử lớp nhất - Phạm Văn Trọng & Phạm Thị Ngọc Dung) xuất bản năm 1966 viết về cuộc đảo chính này như sau: :Từ 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi đài phát thanh Sài Gòn báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm thì già trẻ lớn bé lũ lượt kéo nhau đi xem. Lời hò reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đã bóp nghẹt lòng dân trong chín năm trời đăng đẳng" - Bác sĩ Dương Tấn Tươi. Còn thi sĩ Đông Hồ thì: "Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có chứng ấy thì cho thấy quần chúng Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đã biết tự kiềm hãm sức giận dữ hung hãn của mình rồi đó."

Tuy nhiên, đây bị xem là sai lầm tai hại của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, bởi vì sau cuộc đảo chính tình hình chính trường Sài Gòn không được như chính quyền Hoa Kỳ mong muốn. Trong vòng 4 năm kể từ biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963 cho đến khi thành lập Đệ Nhị Cộng Hòa ngày 1 tháng 11 năm 1967, Việt Nam Cộng hòa đã liên tục trải qua hơn 10 cuộc đảo chính, 4 chính phủ lần lượt dựng lên rồi sụp đổ: Chính phủ Nguyễn Khánh (Quân nhân), Chính phủ Trần Văn Hương (Độc lập), Chính phủ Phan Huy Quát (Đại Việt), Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (Quân nhân).

Người kế nhiệm John F. Kennedy, Tổng thống Lyndon B. Johnson (1963 - 1969) nhận xét:

Trên nhật báo Công Luận số đặc biệt ngày 1 tháng 11 năm 1970 cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, một trong những lãnh đạo của cuộc đảo chính năm 1963 đã lên tiếng qua bài "Những cơ hội đã mất".

Linh mục Cao Văn Luận tác giả hồi ký Bên Dòng Lịch sử Việt Nam, 1940-1975 nhận xét:

Bí thư Lê Duẩn nhận xét:

Sau khi biết tin Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát, phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh được thuật lại như sau "Tôi không thể nào tin người Mỹ lại ngu ngốc đến vậy"

Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nói rõ hơn:

Nghi vấn về những người tham gia hạ sát hai anh em Ngô Đình Diệm

phải|Điệp viên CIA Lucien Emile Conein, người là đầu mối liên lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính. Ông cũng chính là một trong những điệp viên đã hỗ trợ tổng thống Diệm giai đoạn 1954-1956.

Về người giết hai anh em Ngô Đình Diệm

Theo John S. Bowman thì hai người trực tiếp giết hại ông Diệm và Nhu là Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và Đại úy Nguyễn Văn Nhung là sĩ quan cận vệ của trung tướng Dương Văn Minh, theo lệnh của Trung tướng Dương Văn Minh, lúc đó đứng đầu phe đảo chính.

Nguyễn Văn Nhung

Theo hồi ký "Việt Nam một trời tâm sự" của tướng Nguyễn Chánh Thi thì Thiếu tá Nhung sau khi bị tướng Nguyễn Khánh bắt đã thú nhận: "Khi đó lại thấy tướng Thu đưa lên hai ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) của bàn tay trái, với hai ngón khép lại với nhau, chỉ vào hai ngón tay của bàn tay phải giơ lên. Họ nghĩ rằng ông ra lệnh bắn cả hai anh em ông Diệm. Tôi (thiếu tá Nhung) rút khẩu súng Colt 12, bắn mỗi người 5 phát. Sau đó hăng máu bồi thêm cho ông Nhu 3 phát nữa vào ngực... Tôi chỉ vì hăng say theo lệnh cấp trên mà đã làm như thế." Sự thật trong Hội đồng tướng lãnh tham gia đảo chánh không có ai tên là Thu cả mà là thiếu tướng Mai Hữu Xuân được tướng Dương Văn Minh cử đi theo dõi đoàn xe chở anh em ông Diệm.

Theo cuốn Assassin in our Time (Kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta) xuất bản năm 1976 ở Mỹ, ở trên chiếc thiết vận xa M113, hai anh em tổng thống Diệm bị trói tay quặt ra sau lưng. Tổng thống Diệm do bị sốc nặng nên đã ngồi im. Bất ngờ, Đại uý Nguyễn Văn Nhung rút dao găm ra đâm ông Cố vấn Nhu 15-20 phát. Rồi rút súng Colt ra bắn vào gáy tổng thống Diệm. Thấy ông Nhu vẫn chưa chết hẳn, Đại uý Nhung đã bắn thêm vào đầu ông ta...

Sau cuộc chỉnh lý của tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh và đại tá Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Nhung bị bắt và chết tại trại Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy dù. Sĩ quan báo chí Bộ Quốc phòng của Nguyễn Khánh chính thức tiết lộ: "Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung sỹ quan tổng quát và tùy viên của trung tướng Dương Văn Minh bị bắt giữ hồi đêm 30-1 và giam tại Lữ đoàn Nhảy dù trại Hoàng Hoa Thám, ông Nhung tự vận bằng dây giày". Vợ thiếu tá Nhung cho biết khi khâm liệm ông Nhung bà thấy trên người ông có hàng chục vết bầm tím, có vết còn in nguyên dấu đế giày. Bà khẳng định chồng bà bị tra khảo đến chết chứ không phải tự sát bằng dây giày. Theo báo Dân Ý xuất bản ở Sài Gòn thì thiếu tá Nhung đã "bị đá bể lá lách sau khi ông đã khai tất cả những bí mật trong vụ thanh toán anh em tổng thống Diệm. Lời khai của ông được thâu băng và trao cho tướng Khánh". Tướng Thi viết trong hồi ký của ông: "Tôi được tin, không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp của một sĩ quan trung thành với cấp trên, không lường được hậu quả to lớn của việc mình làm, không có ý thức chính trị hướng dẫn, đến khi một mình chịu tội một mình thác oan".

Theo cuốn A Death in November (Cái chết vào tháng mười một) của tác giả Ellen J. Hammer viết trong khi chiếc thiết vận xa M113 dừng lại ở trước đường xe lửa trên đường Hồng Thập Tự (đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay), Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa đứng trên cửa xe lia một tràng tiểu liên vào hai anh em Tổng thống Diệm. Rồi Đại úy Nhung rút súng Colt ra bắn thêm mấy phát vào đầu Tổng thống Diệm và Cố vấn Nhu, sau đó tiếp tục rút dao găm đâm nhiều nhát vào ngực hai ông. Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa phủ nhận việc giết hai ông và nói rằng mình không ngồi trên xe chở ông Diệm và ông Nhu lúc đó. Và Thiếu tá Nghĩa cũng lý luận rằng nếu chính ông đã giết ông Diệm và ông Nhu người ta cũng giết ông như giết Nguyễn Văn Nhung rồi. Nhưng nhiều người vẫn tin lời tường thuật của bà Ellen J. Hammer vì Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa là một thành viên Đảng Đại Việt vốn có thâm thù với Chính quyền Ngô Đình Diệm, và sau này khi ngồi ghế Phụ thẩm Quân nhân của Tòa án Cách mạng, đã tham gia xét xử và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn.

Trong chương "Cuộc Đảo Chính ngày 1 tháng 11 năm 1963" từ cuốn Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm thì nhiều nhân chứng đã thấy Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa lau bàn tay vấy máu trước khi vào báo cáo với tướng Dương Văn Minh.

Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đặt vấn đề: "Đáng ra trong hồ sơ khẩu cung sau ngày chỉnh lý 30/1/1964, Thiếu tá Nhung phải khai thêm một sĩ quan đồng lõa tên Nghĩa (Dương Hiếu Nghĩa) nữa, nhưng không hiểu tại sao Thiếu tá Nhung lại không tiết lộ."

Về người ra lệnh giết hai anh em Ngô Đình Diệm

Theo tài liệu "JFK and the Diem Coup" của tiến sĩ John Prados xuất bản vào tháng 11 năm 2003, dựa trên các đoạn băng ghi âm (kể cả các buổi họp bí mật tại Tòa Bạch Ốc), các công điện trong và sau thời gian xảy ra cuộc đảo chính thì chính phủ Hoa Kỳ có ý muốn loại bỏ quyền lực của ông Diệm, chứ không hề có ý định sát hại hai ông Diệm, Nhu.

8 giờ 30 sáng ngày 2 tháng 11 tại cuộc họp thu hẹp giữa một số tướng lãnh tại Bộ Tổng tham mưu, Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ đã xui tướng Dương Văn Minh: " Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc".

Điệp viên CIA Lucien Emile Conein, người được cho rằng đã giật dây cuộc đảo chính này, khi hay tin ông Diệm và ông Nhu ra khỏi dinh Gia Long, Luien Conein đã hỏi: "Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt cho kỳ được vì rất quan trọng?" Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chính bằng tiếng Pháp: "On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs? (Người ta không thể làm trứng rán mà không đập bể những quả trứng)"

Theo hồi ký Việt Nam máu lửa quê hương tôi của Đỗ Mậu thì sáng ngày 2 tháng 11, tại Bộ Tổng tham mưu đã có một cuộc bàn luận giữa các tướng lãnh tham gia đảo chính, về cách đối xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho xuất ngoại. Và Đỗ Mậu là người duy nhất không tán đồng giết hai anh em nhà Ngô.

Và nhiều người nhận định là Đại úy Nhung (sĩ quan cận vệ của tướng Dương Văn Minh) không thể nào dám hạ sát hai ông Diệm, Nhu nếu không có lệnh của tướng Minh.

Thưởng và phạt sau cuộc đảo chính 1963

Những nhân vật được thưởng

Hầu hết các tướng lĩnh tham gia đảo chính đều được thăng cấp.

  • Thiếu tướng Tôn Thất Đính được thăng ngay Trung tướng.
  • Thiếu tướng Nguyễn Khánh được thăng chức Trung tướng.
  • Thiếu tướng Đỗ Cao Trí được thăng chức trung tướng, mặc dầu thiếu tướng Trí mới được lên thiếu tướng hơn một tháng.

Tuy vậy, các tướng lĩnh cầm đầu lại không tự phong cấp cho mình như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân,... đều vẫn giữ cấp bậc cũ.

Ngoài ra, một số sĩ quan khác cũng được thăng cấp:

  • Các Đại tá Đỗ Mậu, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu được thăng Thiếu tướng.
  • Trung tá Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Ngọc Thảo được thăng Đại tá.
  • Đại úy Nguyễn Văn Nhung người trực tiếp giết hai ông Diệm, Nhu được thăng thiếu tá.

Những nhân vật bị phạt

  • Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao bị cách chức, cho đến sau chỉnh lý mới được phục chức.
  • Đại tá Bùi Dzinh bị cách chức Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ Binh, kỷ luật "nghỉ dài hạn không lương", ngày 19 tháng 2 năm 1965 ông tham gia cuộc chính biến lật đổ Quốc trưởng Nguyễn Khánh do Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu, bị bắt giam ở khám Chí Hoà và giải ngũ vài năm sau đó.
  • Đại tá Bùi Đình Đạm bị cách chức, sau chỉnh lý mới được phục chức.
  • Trung tá Đinh Văn Phát, là Tỉnh trưởng Kiến Phong, người đã trả lời phe đảo chính: "Tôi là con nhà Nho, việc gì cũng phải có trước có sau. Mới đây được tổng thống tin cậy cho làm tỉnh trưởng, mà nay ủng hộ đảo chánh, sao tôi làm được?", bị cách chức. Sau đó ông trở thành chủ hãng phim, chủ tờ nhật báo Độc Lập.
  • Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ, Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống, ngưới chỉ huy vệ binh bảo vệ Dinh Gia Long chống quân đảo chính (thời điểm đó Trung tá Tư lệnh Nguyễn Hữu Khôi đang bị giam tại Bộ Tổng tham mưu) bị Nha An ninh Quân đội bắt giam hơn một tháng. Về sau phải nhờ Đại tá Nguyễn Văn Quan, phụ tá Dương Văn Minh, người cầm đầu đảo chính can thiệp, mới được thả. Sau đảo chính, chính quyền Sài Gòn chẳng những không ổn định mà trái lại càng khủng hoảng trầm trọng: "Tình trạng Việt Nam Cộng hoà còn tồi tệ hơn hồi chính quyền Diệm: Kinh tế suy sụp, vật giá leo thang, tiền sụt giá so với Mỹ kim, nạn thất nghiệp, đầu cơ trích trữ và tham nhũng gia tăng". Đảo chính và phản đảo chính diễn ra liên tục.

Sau đảo chính Thượng Hội đồng Quốc gia Việt Nam Cộng hòa được thành lập để chuyển dần quyền lực chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ các tướng lĩnh quân đội về sang các chính trị gia dân sự. Lúc đầu Bác sĩ Hồ Văn Nhựt được tuyển chọn để đảm trách chức Thủ tướng vì ông được sự ủng hộ của mọi thành phần tôn giáo và chính trị. Đây là chức Thủ tướng dân sự đầu tiên kể từ khi nền Đệ Nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị phe Quân đội lật đổ. Tuy nhiên ông muốn tìm kiếm giải pháp hòa hợp dân tộc, và sau những cuộc thảo luận không thỏa đáng với Ủy ban Lãnh đạo Lâm thời và Chính quyền Mỹ, Hồ Văn Nhựt đã từ chối chức vụ này. Thay vào đó, Trần Văn Hương, Đô trưởng Sài Gòn, được bổ nhiệm làm Thủ tướng.

Chính phủ của ông Trần Văn Hương mặc dù được hậu thuẫn của nhiều thành phần nhưng bị bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, các lãnh đạo Phật giáo và lực lượng sinh viên chống đối kịch liệt vì cho rằng thành phần chính phủ không phản ánh đúng nguyện vọng của các đảng phái. Ông Hương lại không chịu nhượng bộ cải tổ nên tình hình trở nên tê liệt. Hội đồng Quân lực quyết đinh bãi nhiệm Thủ tướng Trần Văn Hương và đưa đi quản thúc tại Vũng Tàu rồi đề cử Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh làm Thủ tướng để thành lập nội các mới. Ông Oánh xin từ nhiệm vì ông không chấp nhận bổ nhiệm trung tướng Nguyễn Chánh Thi vào chức Tổng trưởng Nội vụ. Sau đó Phan Huy Quát được bổ nhiệm là Thủ tướng, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, bác sĩ Trần Văn Đỗ làm Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại giao, luật sư Trần Văn Tuyên là Phó thủ tướng phụ trách kế hoạch. Hội đồng Quân lực ra lệnh giải thể Thượng Hội đồng Quốc gia vào ngày 20 tháng 12 năm 1964, một ngày sau khi nội các Phan Huy Quát trình diện Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, để thành lập Hội đồng Quốc gia Lập pháp. Đầu tháng 6/1965, nhiều lãnh đạo tôn giáo và đảng phái chính trị khác lại tiếp tục đòi Phan Huy Quát từ chức. Ngày 11/6/1965, Quát triệu tập một phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Trong cuộc họp này, Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố từ chức và giải tán chính phủ, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu cũng tuyên bố từ chức. Sau đó, trong cuộc họp Hội đồng Quân lực, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng trưởng quốc phòng, đề nghị Nguyễn Chánh Thi làm Thủ tướng nhưng ông này từ chối. Cuối cùng Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tình nguyện đảm nhận chức vụ Thủ tướng. Kết thúc buổi họp, Hội đồng Quân lực đồng ý để tướng Kỳ làm thủ tướng với danh xưng Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, còn Nguyễn Văn Thiệu là Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia.

Theo thú nhận của chế độ Việt Nam Cộng hòa: "Trong vòng ba tháng sau đảo chính, Việt Cộng nổi dậy khắp nơi. Tỉnh Kiến Hoà phải rút đi 51 đồn bót, mất 15 xã. Ở miền Trung từ Phan Thiết trở ra trong vòng hai tháng sau đảo chính, 2200 ấp chiến lược trong tổng số 2700 ấp chiến lược hoàn toàn bị tan tác. Tổng số 4248 ấp chiến lược ở miền Nam thì có 3915 ấp bị phá hẳn. Trong phúc trình gửi Tổng thống Johnson ngày 16 tháng 3 năm 1964, Mc. Mamara đưa ra một bức tranh bi thảm, hậu quả của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm: "Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong 44 tỉnh), Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn thế. Phước Tuy, Việt Cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%; Long An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hoà 90%; An Xuyên (Cà Mau) 85%. Quận Mõ Cày và các xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp, "đỏ 100%"; trên 900 xã như trong trường hợp ba xã này;..." Sau đảo chính 1963, trong một thời gian ngắn, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành một "xa lộ thênh thang". Trước đây, đoàn vận tải ô tô chỉ vào Khe Hó đổ hàng rồi từ đây dùng voi hay sức người chuyển vào Palin Thừa Thiên. Đầu năm 1964, các đoàn ô tô đã có thể đi tới điểm trạm ngã ba biên giới Kontum, số lượng vận tải tăng 40 lần so với năm trước, tỉ trọng vận tải cơ giới là 51%.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa** là chức vụ đứng đầu Chính phủ của ngành hành pháp trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa thời Đệ nhị Cộng hòa. Tiền thân của chức vụ này
**Hội đồng Nhân sĩ** là cơ quan cố vấn dân sự cho chính quyền quân sự của Hội đồng Quân nhân Cách mạng sau đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963. Hội đồng được thành
**Nha Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Strategic Technical Directorate_ – STD) là **Cơ quan Tình báo chiến lược** của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, đặc trách tổ chức, hoạt
**Tỉnh** của Việt Nam Cộng hòa là đơn vị hành chính lớn nhất dưới cấp Quốc gia đứng đầu là tỉnh trưởng. Dưới cấp tỉnh là quận, không phân biệt đô thị hay nông thôn
**Bầu cử Quốc hội** được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 27 tháng 9 năm 1963. Chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã giành được tất cả trừ ba trong
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Lực lượng đặc biệt** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam Special Forces_, **ARVNSF**) - viết tắt: **LLDB** - là một đơn vị quân sự tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
**Lịch sử quân sự của Việt Nam Cộng hòa** là lịch sử của các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu từ khi chế độ chính trị này thành lập vào năm
**Hội đồng Quân nhân Cách mạng** là danh xưng phổ biến của nhóm tướng lĩnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện cuộc đảo chính lật đổ nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Cuộc đảo chính Nam Việt Nam năm 1964** là một cuộc đảo chính xảy ra vào ngày 30 tháng 1 năm 1964 do tướng Nguyễn Khánh lãnh đạo đã loại bỏ vai trò lãnh đạo
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Bộ Công dân vụ Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan chính phủ phụ trách công tác giáo dục công dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, tổ chức quần chúng và tuyên
phải|Trạm y tế ở thôn quê [[chích ngừa cho trẻ em]] **Y tế Việt Nam Cộng hòa** là hệ thống cung cấp dịch vụ y khoa công cộng của Việt Nam Cộng hòa. Cơ cấu
Tổ chức **Quân đội Việt Nam Cộng hòa** (từ năm 1964 cải danh thành **Quân lực Việt Nam Cộng hòa**) là cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang của chính thể Việt Nam Cộng
phải|Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970 **Cải cách điền địa** là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình **Cải cách nông nghiệp** và
**Hiến pháp Việt Nam Cộng hoà năm 1967** là bản hiến pháp thứ hai của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, Quốc hội Lập hiến thông qua vào ngày 18 tháng 3 năm 1967, Ủy
**Sở Liên lạc**, về sau đổi thành **Sở Khai thác địa hình**, là một cơ quan đặc biệt phụ trách các hoạt động gián điệp biệt kích thời Đệ Nhất Cộng hòa. Được thành lập
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]]
Bản đồ các tỉnh thuộc **Quân khu III** **Quân đoàn III** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải
**Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Ministry of Ethnic Development of the Republic of Vietnam_) là cơ quan phụ trách công tác dân tộc thiểu số và thi hành các
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
**Chuẩn tướng** là cấp bậc tướng lĩnh thấp nhất trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp hiệu 1 sao. Cấp bậc này xếp dưới cấp Thiếu tướng, trên cấp Đại tá, tương đương
**Tham chính viện Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan xét xử hành chính cấp cao và tư vấn pháp lý cho Chính phủ và Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng hòa. Trụ sở cơ
**Thượng Hội đồng Quốc gia** là cơ quan chấp chính dân sự do Ủy ban Lãnh đạo Lâm thời lãnh đạo là bộ tam đầu chế gồm ba tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và
**Binh biến tại Việt Nam Cộng hòa tháng 12 năm 1964** là một cuộc binh biến do Hội đồng Quân lực do các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện vào
**Bộ Quốc phòng** là một Cơ quan cấp cao trong Nội các Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chức năng của Bộ là tổ chức, xây dựng và quản lý với trọng trách Phòng vệ
**Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _The School of the Non-commissioned officers of the Vietnam Military Forces_, SNCOVNMF), hay **Quân trường Đồng Đế** (tiếng Anh: _Dong De Military School_,
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù** (tiếng Anh: _81st Airborne Commando Battalion_, **81st ACB**) - thường được gọi tắt là **Biệt cách Dù** (**BCND** / **BCD**) - là một binh chủng đặc biệt, đồng
**Sư đoàn 9 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn IV và Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa có phạm vi hoạt động
**Đặc biệt Pháp viện** là cơ quan tư pháp đặc biệt chuyên xét xử những viên chức cấp cao của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trong trường hợp họ bị cáo buộc phạm tội
**Hội đồng Quân Dân** (có tài liệu gọi là **Hội đồng Dân Quân**) là cơ quan tư vấn được thành lập tại Việt Nam Cộng hòa trong một khoảng thời gian tương đối ngắn từ
**Hội đồng Thẩm phán** là cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa chuyên giám sát hoạt động xét xử của thẩm phán và cố vấn tư pháp cho Tối cao Pháp viện. Trụ sở
**Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa** là một trong hai viện của chính thể Đệ Nhị Cộng hòa, được thành lập dựa trên bản hiến pháp năm 1967. Đây là cơ quan lập pháp
**Hội đồng Kinh tế Xã hội** là cơ quan cố vấn cho cho Chính phủ và Quốc hội về những vấn đề kinh tế và xã hội, đồng thời tham gia ý kiến về các
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn IV** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân – Lục quân – Không quân, là
**Binh chủng Truyền tin** là một ngành "Viễn thông Quân sự" của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trực thuộc Tổng cục Tiếp vận và dưới quyền chỉ huy tổng quát của Bộ Tổng tham
**Viện Bảo hiến** là cơ quan hiến định hoạt động như một thiết chế bảo vệ Hiến pháp dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa. Đây được xem là cơ quan có chức năng gần tương
**Lê Minh Đảo** (5 tháng 3 năm 1933 – 19 tháng 3 năm 2020) nguyên là tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường
**Đảo chính** hay **đảo chánh** (), còn gọi là **chính biến** hay **chánh biến**, là việc lật đổ một chính phủ bằng cách dùng những biện pháp vi hiến. Đảo chính hiện hành khi mà
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Học viện Tài chính** (tiếng Anh: **Academy of Finance**, viết tắt **AOF**) trực thuộc Bộ Tài chính và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, là một trong những
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại