✨Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa

Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa

Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975. Tập tin:South Vietnam film clapperboard.png

Lịch sử

Bộ môn nghệ thuật này vốn manh nha ở những năm cuối Chiến tranh Đông Dương, nhưng khởi sắc nhờ hệ quả kế hoạch Sang Phía Tự Do mà chuyên viên hầu hết là trí thức ưu tú và cả sự bảo trợ tích cực của Văn Hóa Vụ. Thời gian đầu, điện ảnh Việt Nam Cộng hòa chưa trưởng thành nhưng cũng chưa bao hàm ý thức chính trị mà hầu hết chế tác dựa trên những tiểu thuyết và tuồng tân cổ mùi mẫn nhằm đánh vào thị hiếu công chúng đô thị.

Ở giai đoạn giữa, do tác động sâu sắc của sự kiện Chỉnh Lí, hàng loạt hãng phim tư nhân giải thể khiến điện ảnh quốc nội trước nguy cơ xóa sổ. Chỉ có vài cuốn phim do Trung tâm Quốc gia Điện ảnh sản xuất để đem đi đại hội điện ảnh quốc tế, và cũng không chen được vào rạp vốn chỉ chú trọng phim ngoại.

Phải từ năm 1968 trở đi, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa sáng lập Ngày Điện Ảnh Việt Nam để gây tiềm lực cho sức phát triển mãnh liệt của điện ảnh quốc nội, với kì vọng cạnh tranh được với các nền điện ảnh lớn đương thời là Đài Loan, Hương Cảng, Nhật Bản. Một yếu tố nữa quyết định trào lưu chế tác phim Việt nở rộ là do chiến sự hai miền quá căng thẳng khiến nhu cầu giải trí của công chúng tăng mạnh, ngay cả phim ngoại quốc cũng không đủ giờ chiếu.

Nền nghệ thuật này được coi là kết thúc cùng với sự cáo chung chế độ, tuy nhiên dư âm vẫn ảnh hưởng tới thị hiếu thưởng thức nghệ thuật thứ bảy của công chúng Việt Nam hiện đại.

1955—1963 : Điện ảnh như cộng hưởng văn chương kịch trường

Hiệp định Genève năm 1954 đã đánh dấu sự chấm dứt hiện diện của người Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Đất nước Việt Nam sau đó chia làm hai miền với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Làn sóng di cư của người Bắc vào miền Nam kéo theo những ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của người miền Nam, và của cả nền điện ảnh. Trong cuốn hồi ký của mình, Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu của chính phủ Ngô Đình Diệm, các hoạt động văn nghệ diễn ra "tưng bừng". Ngoài những ngành về văn nghệ và mỹ thuật thì chính quyền Đệ nhất Cộng hòa còn chú trọng vào điện ảnh. Theo nhạc sĩ Phạm Duy, "một mặt, nhà nước khuyến khích các hãng sản xuất phim tư nhân như Đông Phương của Đỗ Bá Thế, Tân Việt của Bùi Diễm, Alpha của Thái Thúc Nha. Mặt khác, Trung tâm điện ảnh được xây dựng ở đường Thi Sách để đào tạo các chuyên viên". Ngoài các hãng phim của người Việt, còn có một số hãng phim của người Hoa, ví dụ như Việt Thanh. Đây là hãng sản xuất nhiều phim nhất trong giai đoạn 1954 đến 1960 tại miền Nam. Bên cạnh việc khuyến khích các hãng phim tư nhân, chính phủ cũng quan tâm đến việc đào tạo nhân sự cho điện ảnh. Năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Phòng Điện ảnh trực thuộc Nha Thông tin, bao gồm đội ngũ gồm 19 đạo diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Những người này hoặc được đào tạo tại chỗ, hoặc du học nước ngoài trong giai đoạn 1957 đến 1959. Ngoài ra, chính quyền còn mời chuyên gia từ Philippines sang Sài Gòn để hợp tác xây dựng một số bộ phim tuyên truyền chính trị. Trung tâm Điện ảnh là nơi đào tạo ra những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa. Ngành điện ảnh tập trung khai thác các đề tài xã hội, cổ tích và chống cộng. Năm 1955, Xuân, em bé chăn trâu trở thành phim điện ảnh Việt Nam đầu tiên đoạt giải tại Đại hội Điện ảnh Quốc tế 1955. Nền điện ảnh Việt Nam Cộng hòa phát triển rực rỡ vào năm 1957, tiêu biểu là phim Lục Vân Tiên, phim màu đầu tiên của Việt Nam. Tính riêng trong năm này, ngành điện ảnh sản xuất ra 37 bộ phim. Sự phát triển mạnh mẽ của các hãng phim tư nhân đã tạo ra những thế hệ diễn viên mới, hầu hết xuất thân từ những nghệ sĩ sân khấu. Sức hút của điện ảnh cũng khiến cho một số người trong lĩnh vực âm nhạc như Lê Thương và Phạm Duy tiếp cận với vai trò kịch bản và đạo diễn. Tuy nhiên, sau năm 1957, nền điện ảnh miền Nam bắt đầu có dấu hiệu chững lại. Theo ký giả Lê Hoàng Hoa, năm 1957 là năm "điện ảnh Việt Nam có điều kiện phát triển mạnh nhưng chưa có lối thoát, vừa vì kĩ thuật kém, vừa thiếu thị trường".

Trên tờ Truyện Phim số phát hành năm 1958, tác giả Thái Thúc Nha nhận định nguyên nhân thoái trào của điện ảnh Việt Nam Cộng hòa giai đoạn này đó là nhà sản xuất bỏ vốn quá nhiều nhưng thu lợi nhuận thấp. Theo ông, để làm được một cuốn phim xem được, nhà sản xuất phải bỏ ra số tiền hơn một triệu đồng, gồm các chi phí quay phim và phụ phí khác. Cuốn phim đem ra chiếu tại ba rạp ở Sài Gòn có thể thu về 400 nghìn đồng trong một tuần, tuy nhiên họ phải trả thêm thuế thuê rạp khiến doanh thu giảm còn 133 nghìn đồng, chưa kể tiền trả cho quảng cáo báo chí. Trong thời gian 6 tháng sau đó có thể thu thêm 300 nghìn đồng từ việc công chiếu ở các tỉnh lẻ và các nước lân cận, nhưng vẫn không đủ hòa vốn. Mặc dù vậy, nhà sản xuất vẫn phải đi khai thuế lợi tức và đóng tiền cho Nha Thuế. Để giải quyết tình trạng này, Đỗ Bá Thế, giám đốc hãng phim Đông Phương đứng ra thành lập Liên thương Ảnh nghiệp và trở thành Chủ tịch Ban quản trị Lâm thời. Theo ông Thế, vai trò của tổ chức này là "đoàn kết các nhà sản xuất phim ảnh trong nước, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến nghệ thuật thứ bảy, bênh vực quyền lợi những người hành nghề, nâng cao kĩ thuật chuyên môn và tìm cách xuất cảng phim Việt ra ngoại quốc". Lúc bấy giờ, có 15 hãng phim đã tham gia tổ chức này. Năm 1959, chính quyền Đệ nhất Cộng hòa cũng thành lập Trung tâm Điện ảnh Tâm lý chiến và Trung tâm Quốc gia Điện ảnh. Trong đó, Phòng Điện ảnh Quân đội với cơ sở kĩ thuật 16 mm thường tập trung sản xuất các phim thời sự, phim ngắn thuộc thể loại phóng sự, tài liệu và truyện. Khán giả của cơ quan này bao gồm quân nhân và gia đình họ, cũng như cư dân ở vùng đóng quân, khán giả xem qua truyền hình. Với các phương tiện kĩ thuật để sản xuất phim 35 mm cùng đội ngũ nhân viên với ngân sách thường niên 80 triệu đồng, Trung tâm Quốc gia Điện ảnh sản xuất mỗi tuần một phim thời sự, nửa tháng một phim thời sự bán nguyệt cho cộng đồng hải ngoại, mỗi tháng 2 phim tài liệu và mỗi năm 2 phim điện ảnh. Một số đạo diễn, diễn viên Việt Nam Cộng hòa giai đoạn này đã gặt hái được những thành tích. Bộ phim Chờ sáng do Thân Trọng Kỳ làm đạo diễn đã nhận được một giải thưởng điện ảnh tại Liên hoan phim quốc tế Berlin. Hai diễn viên chính là Lê Quỳnh và Kiều Chinh đã có mặt trong lễ trao giải, đánh dấu lần đầu tiên các diễn viên Việt Nam Cộng hòa đại diện cho lĩnh vực điện ảnh do chính phủ tài trợ tham dự một liên hoan phim quốc tế. Trước đó một năm, đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc của Trung tâm Điện ảnh Quốc gia cũng giành giải Golden Harvest Award cho phim Con búp bê nhồi bông tại Đại hội Điện ảnh Á Châu ở Đông Kinh. Thời kỳ này cũng là giai đoạn chói sáng của một số tên tuổi như Trần Quang, Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, trong đó Trần Quang trở thành nam diễn viên trụ cột trong nền điện ảnh Việt Nam Cộng hòa thời điểm đó, trong khi Thẩm Thúy Hằng góp mặt trong 20 bộ phim và tham dự một số liên hoan phim quốc tế. Phim ngoại thống trị rạp, trong khi phim Việt chỉ được chiếu ở những rạp vừa và nhỏ, mà phải ở khung giờ thưa khách. Như rạp Rex chiếu 100% phim [[Hoa Kỳ.]] Vào giữa những năm 1960, khi chiến tranh leo thang và quân đội Mỹ chính thức tham chiến, kỹ thuật truyền hình cũng đến Việt Nam. Ban đầu, các đài truyền hình quân sự của Hoa Kỳ phát sóng từ máy bay, với ăng-ten được giấu kín, bay lơ lửng trên thành phố. Sau này, hệ thống truyền hình Việt Nam chính thức được thành lập, cơ sở vật chất kỹ thuật lần lượt được xây dựng, từng bước phủ sóng trên toàn quốc. Với năm đài truyền hình địa phương và hơn 350.000 máy thu hình, 80% dân số miền Nam lúc đó có thể xem truyền hình tại nhà. Nhận biết được tầm quan trọng của điện ảnh, Sở Thông tin Hoa Kỳ cùng với Nha thông tin Việt Nam Cộng hòa và Nha Chiến tranh Tâm lý đã tiến hành nhiều chiến dịch chiếu phim lưu động ở vùng nông thôn, tuy nhiên phạm vi thực hiện của chiến dịch này bị hạn chế do điều kiện chiến tranh. Sở Thông tin Hoa Kỳ cung cấp khoảng 70% số lượng phim. Năm 1964, có hơn 10.000 phim của cơ quan này được trình chiếu. Sở Thông tin cũng cung cấp các thiết bị kĩ thuật cho quá trình chiếu phim, trong đó bao gồm 600 trên tổng số 800 máy chiếu loại 16 milimét. Hoa Kỳ cũng cung cấp một số phụ kiện như máy phát điện, đầu ghi băng, máy phát thanh cùng một số phương tiện khác. Sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh tại Việt Nam đã dẫn đến nhiều thay đổi sâu sắc, thu hút sự chú ý của truyền thông toàn cầu. Sài Gòn trở thành một trung tâm giao lưu quốc tế. Nhiều kỹ thuật mới như nhạc điện tử và các bộ phim mới nhất luôn được cập nhật. Do ảnh hưởng từ truyền hình vô tuyến và màn ảnh rộng tại các rạp mới xây dựng như Đại Nam, Rex, lượng khán giả có hứng thú với điện ảnh ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng, nên dù đã phục hồi từ những năm 1950, nhưng chỉ đến những năm 1960 ở thời Đệ nhị Cộng hòa, nền điện ảnh của quốc gia này mới thực sự trưởng thành và chính thức được công nhận là một loại hình nghệ thuật quan trọng. Ngày 10 tháng 7 năm 1969, Trung tâm Quốc gia Điện ảnh tổ chức hội thảo với đề tài "Yếu tố phát triển điện ảnh quốc gia", tạo điều kiện để những người làm điện ảnh có thể trao đổi ý kiến lẫn nhau.

Nghị định số 449-BTT-NĐ của Tổng trưởng Thông tin Việt Nam Cộng hòa ban hành ngày 7 tháng 8 năm 1969 đã cho phép các hãng phim tư nhân hợp tác với Trung tâm Quốc gia Điện ảnh và nhận hỗ trợ kĩ thuật, nhân lực từ trung tâm này. Đến ngày 28 tháng 10 cùng năm, một dự luật có tên "Đại cương về một bộ luật điện ảnh Việt Nam" được trình lên Quốc hội xem xét.

Từ năm 1969 đến 1970, hai hợp đồng dựng phim được Bộ Thông tin ký kết với các đơn vị Công ty Liên Ảnh (phim Chân trời tím) và hãng phim Giao Chỉ (phim Người tình không chân dung). Một số phim tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ, Chiều kỷ niệm, Loan mắt nhung. Bên cạnh đó là những tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết, những câu chuyện về những cô gái lầm lỡ. Với việc thị trường mở rộng và khán giả bắt đầu đón nhận phim trở lại, nền điện ảnh bắt đầu thu được lợi nhuận, giúp số lượng phim tăng dần theo từng năm.

1972—1975 : Phục hưng phát triển mãnh liệt trong xu thế quốc tế hóa

Trong vòng 2 năm từ 1970 đến 1972, số phim sản xuất ở miền Nam tăng từ 6 lên 29 phim. Một số hãng phim tìm đến các đối tác trong khu vực để hợp tác làm phim. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng cho phép các hãng phim tự do nhập phim ngoại địa thay cho điều kiện muốn nhập phim phải tự mình sản xuất phim như thời gian trước. Đây cũng là giai đoạn mà một số hãng phim liên doanh như Liên Ảnh, Việt Nam Film, Giao Chỉ, Nghệ Thuật, Việt Ảnh, Cosunam, Cinevina, Sóng, Tân Kiệt Y Oan... Một số minh tinh cũng như đạo diễn phim giai đoạn này cũng đứng ra thành lập các hãng phim riêng.

Về điện ảnh Việt Nam Cộng hòa giai đoạn này, ký giả Hồ Trường An nhận định nó giống như "trăm hoa đua nở trên bờ vực thẳm". Từ khoảng cuối năm 1974, điện ảnh Việt Nam Cộng hòa lại có tín hiệu suy thoái do sự chổi dậy của điện ảnh hành động Hương Cảng, Thái Lan, cho nên đã chuẩn bị cho cuộc chấn hưng tiếp theo. Nhưng sau kì 30 Tháng Tư, nhiều cuốn phim đang trong giai đoạn hoàn tất nên vẫn chưa kịp chiếu.

Văn hóa

Thuật ngữ

Ngoài ra : Bí thư sân quay, dựng phim, đạo cụ, giám đốc hình ảnh, giám đốc sản xuất, kịch vụ, ký chú viên, nhiếp ảnh, phân cảnh kỷ thuật, phụ tá, ráp nối, sân quay, thu hình, thu thanh, truyện phim, y phục...

Nhân sự

(liệt biểu chỉ hàm nghĩa tượng trưng, không cốt thống kê số lượng)

;Giám chế Lưu Trạch Hưng Quốc Phong

;Đạo diễn Đặng Trần Thức Đỗ Tiến Đức Hoàng Anh Tuấn Hoàng Vĩnh Lộc Lê Dân Lê Hoàng Hoa Lê Mộng Hoàng Nguyễn Ngọc Long Thái Thúc Nha Thân Trọng Kỳ Trương Hà Vĩnh Noãn *Võ Doãn Châu

;Biên kịch Duyên Anh Hà Triều - Hoa Phượng Kim Cương Ngọc Linh Nguyễn Thành Châu Nhã Ca Túy Hồng Văn Quang

;Kĩ thuật viên Jo Marcel Nam Lộc Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ Tăng Thiên Tài *Trường Kỳ

;Nhạc sĩ Hoàng Trọng Huỳnh Anh Phạm Duy Trần Thiện Thanh Y Vân Y Vũ

;Ca sĩ Lệ Thu Khánh Ly *Mai Lệ Huyền

;Tài tử Bảy Nam Bà Minh Ngọc Bà Năm Sadec Đoàn Châu Mậu Lê Quỳnh Hùng Cường Kim Vui Kiều Chinh Thanh Lan Thanh Nga Thẩm Thúy Hằng Trần Quang Tùng Lâm Xuân Phát

Ảnh hưởng

Sau Ngày Thống Nhất, bên cạnh việc rà soát và triệu tập cải tạo vô thời hạn đối với tất cả quân dân cán chính, những chuyên viên điện ảnh Việt Nam Cộng hòa có "dính tới lính" (nguyên văn lời nghệ sĩ Kim Cương) cũng bị cưỡng bách đi trại giam. Như tài tử Khả Năng bị điều tới trại Suối Máu, đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc xộ khám Chí Hòa. Chỉ một số ít nghệ sĩ được coi là còn đắc dụng thì được biên chế vào các tổ hợp sản xuất phim truyện dưới chế độ mới như Lê Mộng Hoàng, Trần Quang... Một số nhân vật như Lê Hoàng Hoa, Nguyễn Chánh Tín, Thanh Lan... tìm cách vượt biển ra hải ngoại, nhưng bị bắt giam một thời gian trước khi phải tái điều động về xưởng phim. Tình hình này chỉ được coi là chấm dứt khi nhà nước ban hành luật Đổi Mới, cho phép văn nghệ được "cởi trói" (chữ của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tại đại hội văn nghệ toàn quốc năm 1988) và nghệ sĩ có thể tự do hoạt động hơn.

Cũng theo danh ca Hùng Cường, đương thời Chân trời tím là xuất phẩm điện ảnh ẵm nhiều vinh dự Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Toàn quốc nhất, cho nên Sở Văn Hóa Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mới cứ theo những tư liệu còn lại của Giải nầy để thống kê và đưa ra những biện pháp thanh trừng về mặt vật lý. Cụ thể, bức ảnh trên báo ghi lại cảnh ông và bạn diễn Kim Vui nằm hôn nhau ngoài bãi biển Vũng Tàu trong phim bị chính quyền mới phóng to và trưng bày ở cửa vào khu triển lãm "tội ác Mĩ-ngụy" để đấu tố suốt một tuần lễ. Về sau, khoảng năm 2004 và 2005, cuốn băng sao trắng đen của bộ phim này lại được đem chiếu cho du khách tại Hội trường Thống Nhất, tuy nhiên vì chất lượng băng đã quá nhiễu nên phải cất đi sau một thời gian.

Trong suốt khoảng ba thập niên sau, công chúng Việt Nam quốc nội và hải ngoại thường mặc định một thành kiến rằng, tất cả băng phim đã bị thiêu hủy trong chiến dịch bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy. Nhưng thực tế, những băng này được phía Điện Ảnh Quân Đội đem ra Hà Nội tạm thời tàng trữ ở thư viện phố Lý Nam Đế, sau đó bàn giao hoàn toàn cho Viện Tư liệu Điện ảnh do lo ngại những diễn biến Chiến tranh Biên giới phía Bắc, chỉ giữ lại số ít băng nhựa ghi hình thời chiến (chủ yếu do Trung tâm Điện ảnh Tâm lý chiến sản xuất) để làm phương tiện chế tác phim tài liệu về sau. Mãi cho đến năm 2013, kí giả Lê Quang Thanh Tâm mới công bố một số cuốn băng tư liệu lưu trữ của đài THVN và các hãng phim Mỹ Vân, Alpha, Vili do ông đem ở Viện Điện Ảnh ra. Ngay sau đó Trung tâm Asia vội vàng đăng kí bản quyền trên kênh YouTube, khiến giữa kí giả Thanh Tâm và ban giám đốc hãng này xảy ra tranh tụng kịch liệt.

Ở những năm cuối thập niên 1970 đến trước thềm Đổi Mới, số băng nhựa Vinascope còn thừa (chủ yếu là tô mầu) của nền điện ảnh Việt Nam Cộng hòa vẫn được phân phối về các xưởng phim nhà nước để khởi quay những sự kiện trọng đại, vì đặc thù đều là sản phẩm kĩ nghệ do Nhật Bản và Hoa Kỳ chế tạo nên có độ bền cũng như sắc nét rất cao, sau đó lại gửi sang Tô Liên và các nước xã hội chủ nghĩa để in tráng đại trà. Cũng thời kì này, các đạo diễn và chuyên viên điện ảnh Việt Nam vẫn được tiếp cận các phim chế tác thời Việt Nam Cộng hòa, nhưng phải có giấy ủy nhiệm của cơ quan quản lí. Một số đạo diễn và biên kịch cũng mượn ý tưởng của các nhà làm phim hồi này để sản xuất phim mới, nhưng dưới góc nhìn khác biệt hơn. Điển hình như những tác phẩm của đạo diễn Hồng Sển, Long Vân và đặc biệt Hồ Quang Minh. Phương thức soạn kịch Hoàng Vĩnh Lộc và quay phim Lê Hoàng Hoa, hay lối dẫn truyện nhấn nhá của Lê Mộng Hoàng được trang trọng đưa vào các giáo trình điện ảnh kể từ sau thời Đổi Mới để tiếp tục đóng góp cho sự thăng hoa của điện ảnh nước nhà.

Tại hải ngoại, do bầu không khí quốc tế hóa tự do hơn, nên những băng điện ảnh Việt Nam Cộng hòa được in thành video thương mại đại chúng. Một số nghệ sĩ có tên tuổi cũng soạn hồi kí để lưu lại những khoảng khắc sinh động thời quá vãng. Riêng sang thập niên 2010, ban giám đốc hãng phim Mỹ Vân khởi động số hóa tất cả băng điện ảnh do hãng sản xuất thời trước, đồng thời phối hợp với phía VietFilmFest nhân rộng những yếu tố tích cực của điện ảnh Việt Nam Cộng hòa ra bằng hữu quốc tế.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
Hình:South Vietnam film clapperboard.png **Danh sách phim điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** gồm những bộ phim được chế tác tại Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1955 – 1975. ***Phim tài liệu khuyết thông
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
phải|Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970 **Cải cách điền địa** là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình **Cải cách nông nghiệp** và
**Danh sách phim điện ảnh Việt Nam thập niên 1970** bao gồm phim sản xuất tại Việt Nam, phim sản xuất tại nước ngoài nhưng có sự tham gia của người Việt, nội dung chủ
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Trung tâm Quốc gia Điện ảnh** (, **CNC**; , **NBC**) là cơ quan đặc trách các vấn đề điện ảnh trực thuộc Nha thông tin - Bộ văn hóa Việt Nam Cộng hòa, tồn tại
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Lá cờ của Việt Nam cộng hòa** được giới thiệu lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 6 năm 1948, sau đó được sử dụng làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam và Việt
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Liên hiệp Anh** (), thường gọi là **Đại sứ quán Nam Việt Nam tại Anh**, là cơ quan đại diện ngoại giao do Việt Nam
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Đài Truyền hình Việt Nam (THVN)** hay còn gọi là **Đài Truyền hình Sài Gòn** là đài vô tuyến truyền hình thuộc Nha Vô tuyến Truyền hình Việt Nam của Việt Nam Cộng hòa. Đài
**Đại sứ quán Vương quốc Liên hiệp Anh tại Việt Nam Cộng hòa** (), thường gọi là **Đại sứ quán Anh tại Nam Việt Nam**, là cơ quan đại diện ngoại giao do Vương quốc
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
Khi nhà nước Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào tháng Tư năm 1975, trong ngân khoản dự trữ của chính phủ Việt Nam Cộng hòa cất trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có
**Tổng cục Chiến tranh Chính trị** là cơ quan tuyên truyền, ban đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này được thành lập dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa với
**Đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1960** là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông đứng
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa** là một trong hai viện của chính thể Đệ Nhị Cộng hòa, được thành lập dựa trên bản hiến pháp năm 1967. Đây là cơ quan lập pháp
**Trường Thiếu sinh quân** (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Trường được đặt
**Cuộc đảo chính Nam Việt Nam năm 1964** là một cuộc đảo chính xảy ra vào ngày 30 tháng 1 năm 1964 do tướng Nguyễn Khánh lãnh đạo đã loại bỏ vai trò lãnh đạo
**Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Ministry of Ethnic Development of the Republic of Vietnam_) là cơ quan phụ trách công tác dân tộc thiểu số và thi hành các
**Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (, viết tắt _CSDC_) cũng được người Pháp gọi là **Police de Campagne** và có nhiều tên gọi khác nhau là **Cảnh sát Dã chiến
**Lục quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam_, **ARVN**) hay **Bộ binh** là lực lượng quân chủ lực chiến đấu trên bộ của Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng
**Hải quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Republic of Vietnam Navy_, **RVN**) là lực lượng Hải quân trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoạt động trên cả vùng sông nước và lãnh
**Hội đồng Thẩm phán** là cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa chuyên giám sát hoạt động xét xử của thẩm phán và cố vấn tư pháp cho Tối cao Pháp viện. Trụ sở
**Quốc hội Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan lập pháp cao nhất của chính thể Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này dựa trên công thức tam quyền phân lập của các nước cộng
**Chương trình học bậc tiểu học và trung học thời Việt Nam Cộng hòa** là tổ chức giáo dục hai cấp dưới của nền giáo dục tại Miền Nam Việt Nam dưới vĩ tuyến 17,
**Thượng Hội đồng Quốc gia** là cơ quan chấp chính dân sự do Ủy ban Lãnh đạo Lâm thời lãnh đạo là bộ tam đầu chế gồm ba tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và
**Tuyển cử 1967 Việt Nam Cộng hòa** là cuộc tổng tuyển cử vào ngày 3 tháng 9 và 22 tháng 10 năm 1967 dưới Hiến pháp mới của Việt Nam Cộng hòa, chính thức trao
nhỏ|**Phù hiệu Binh chủng Pháo binh - Quân lực Việt Nam Cộng Hòa** **Binh chủng Pháo Binh** (tiếng Anh: _Artillery Republic of Vietnam Armed Forces_, **ARVNAF**) là lực lượng hỏa lực trọng yếu của Quân
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Trường Cao đẳng Quốc phòng** là một cơ sở được mở ra để bổ sung kiến thức, chiến lược và chiến thuật, tìm hiểu về những phương diện tân tiến trên thế giới dành cho
**Cục Điện ảnh** là cơ quan trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật
**Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế** (_Viet Film Fest_ hay **ViFF**) là một đại hội điện ảnh diễn ra hai năm một lần do hai tổ chức phi lợi nhuận Hội Văn học
**Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam** thành lập ngày 15/3/1953 là đơn vị doanh nghiệp đầu tiên của ngành Văn hoá ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Tập đoàn Điện lực Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế là _Vietnam Electricity_, viết tắt là **EVN** (Électricité du Vietnam) thuộc Bộ Công Thương là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt của
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam** (tiếng Anh: _Alliance of National Democratic and Peaceful Forces of Vietnam_, **ANDPFVN**) là một tổ chức được thành lập sau sự
**Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh** là trường đại học chuyên đào tạo nhóm ngành sân khấu, điện ảnh và nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh.
**Đoàn Văn nghệ Việt Nam** là lực lượng xung kích thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Lịch sử ###