✨Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa

Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa

Trường Thiếu sinh quân (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Trường được đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tiêu chí của trường là đào tạo và huấn luyện cho lớp thiếu niên khi ra trường sẽ trở thành binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa hoặc trở thành những kỹ sư, bác sĩ, giáo viên v.v... để phục vụ trong quân đội. Tóm lại, đây là một cơ sở giáo dục cũng giống như những cơ sở giáo dục khác của Việt Nam Cộng hòa nhưng có phần huấn luyện quân sự nên được gọi là Học đường Quân sự.

Thánh Tổ: Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản.

Lịch sử hình thành

Vào thời Pháp thuộc, triều đại Vua Thành Thái. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ký nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899, cho hai đơn vị Quân đội Bảo hộ Pháp tại Hà Nội và Sài Gòn được thành lập 2 Toán Thiếu sinh quân. Nhân số Thiếu sinh quân vào thời kỳ này, mỗi Toán chỉ có 10 người. Từ đó tại những nơi khác các Toán Thiếu sinh quân lần lượt được thành lập. Nhân số Thiếu sinh quân được thu nhận cũng được tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50 cho mỗi Toán. Khi nhân số của từng nơi tăng lên thành số nhiều, các Toán được đổi thành Trường.

Ở Miền Bắc có các trường Thiếu sinh quân: Móng Cái, Núi Đèo, Đáp Cầu. Phủ Lạng Thương, Việt Trì, Hà Nội. Miền Trung có trường Thiếu sinh quân Huế (Ban đầu tọa lạc ở thành Mang Cá, sau dời vào Thành nội Huế). Miền Nam có các trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tại Vũng Tàu), Thủ Dầu Một, Đa Kao (tại Gia Định), Thành Ô Ma (Sài Gòn), Đà Lạt, Ban Mê Thuột và Mỹ Tho. Về phương pháp huấn luyện và điều hành của các Trường, đều rập theo khuôn mẫu của các Trường Thiếu sinh quân của Quân đội Pháp tại nước Pháp.

Vào thời điểm đầu thập niên 1950 trên toàn Việt Nam có 7 trường TSQ phân phối như sau:

- Trường TSQ Đệ nhất Quân khu ở Gia Định

- Trường TSQ Đệ nhị Quân khu ở Huế

- Trường TSQ Đệ tam Quân khu ở Hà Nội

- Trường TSQ Đệ tứ Quân khu ở Ban Mê Thuột

- Trường TSQ Móng Cái (Hải Ninh) dành cho sắc dân Nùng

- Trường TSQ Đà Lạt của Quân đội Pháp

- Trường TSQ Đông Dương của Quân đội Pháp ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu)

Năm 1954, sau Hiệp định Geneve. Các trường Thiếu sinh quân miền Bắc được di chuyển vào Nam sáp nhập vào trường Thiếu sinh quân Mỹ Tho. Tuy nhiên, giai đoạn này rất căng thẳng vì Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ không có ngân khoản dự trù dành cho các trường Thiếu sinh quân, nên đã đề nghị với Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa cho giải tán tất cả sáu trường ở miền Nam, chỉ giữ lại trường Đông Dương ở Vũng Tàu. Nhưng vào giờ phút chót, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Trung tướng Lê Văn Tỵ quyết định duy trì các trường Thiếu sinh quân này.

Cuối tháng 5 năm 1956, Tổng thống Diệm chỉ thị cho tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, tập trung sáu trường hiện hữu (gồm 1.350 học viên) và di chuyển tất cả về Vũng Tàu nhập vào trường Đông Dương. Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Thiếu sinh quân hợp nhất, đồng thời chính thức với danh xưng "Trường Thiếu sinh quân Việt Nam" và trở thành một Quân trường có tầm vóc Quốc gia. Ngân khoản đài thọ cho trường Thiếu sinh quân được trích ra từ ngân khoản của quân đội.

Phù hiệu

Thanh kiếm bạc đặt trên nền màu xanh, đầu thanh kiếm chỉ thẳng lên ba ngôi sao sáng trên trời và dưới thanh kiếm có ba chữ ''Nhân, Trí, Dũng

Ý nghĩa trên phù hiệu như sau:
-Thanh kiếm bạc:
Biểu dương tinh thần thượng võ, dũng cảm và uy quyền của người chỉ huy
-Nền xanh:
Nền trời màu xanh, màu trẻ trung, hy vọng và đầy nhiệt huyết
-Ba chữ Nhân, Trí, Dũng:
-Nhân: Là một đạo đức lớn bao trùm trên hết các đạo làm người
-Trí: Là óc thông minh biết xét đoán người và việc
-Dũng: Là sự can trường, đảm lược.
Tóm lại: Nhân, Trí, Dũng là sống làm sao cho đúng đạo làm người.

Tuyển sinh

Đối tượng

Trường thiếu sinh quân thu nhận các con em của quân nhân thuộc Chủ lực quân, Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát Quốc gia. Đặc biệt, ưu tiên cho các con của tử sĩ, thương phế binh và cựu quân nhân. Tuổi của các em khi thu nhận là từ 12 đến 15 (trước năm 1956 nhận các em từ 10 tuổi).

Đào tạo và Huấn luyện

Văn hóa

Chương trình giáo dục Phổ thông, bắt đầu là hệ Trung học đệ nhất cấp: các lớp đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ, rồi đến Trung học đệ nhị cấp: các lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất. Học viên được thu nhận vào trường là những học sinh đã có bằng Tiểu học. Cuối niên học lớp đệ tứ sẽ thi lấy bằng Trung học. Tiếp đến học lên đệ nhị cấp; cuối niên học lớp đệ nhị thi lấy bằng Tú tài phần I, xong lớp đệ nhất thi lấy bằng Tú tài II. Tuy nhiên, trường cũng linh động thu nhận các em ở tuổi 12 đang học lớp nhất của hệ Tiểu học, các em này học xong lớp nhất sẽ tiếp tục học lên Trung học đệ nhất cấp như những học viên khác.

Vào niên học 1971-1972, trường Thiếu sinh quân có từ lớp 5 đến lớp 12 gồm hai mươi bảy lớp chia ra: một lớp 5, ba lớp 6, bốn lớp 7, bảy lớp 8, năm lớp 9, bốn lớp 10, hai lớp 11 và một lớp 12.

Trường dạy văn hóa dựa theo chương trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Thành phần giáo viên gồm đa số giáo chức đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm phải thi hành nghĩa vụ công dân. Các giáo chức này sau khi tốt nghiệp tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức được bổ sung làm giáo viên cho trường Thiếu sinh quân. Vào các kỳ thi Tú tài I và II, các học viên thi đậu với tỷ lệ rất cao.

Các học viên học văn hóa phổ thông đến năm 18 tuổi nếu không thi đậu bằng Tú tài I thì phải ra trường theo học các khóa hạ sĩ quan. Các học viên thi đậu Tú tài I sẽ được học đến năm 20 tuổi để thi lấy bằng Tú tài II, rồi theo học sĩ quan ở các trường Võ bị: Hải, Lục, Không quân hoặc các trường Đại học Y khoa, Luật khoa, Khoa học...

Quân sự

Chương trình rèn luyện Quân sự áp dụng cho các học viên là chương trình căn bản của người tân binh được chia làm 4 giai đoạn:
-Giai đoạn chuẩn bị: Đối với tuổi từ 12 đến 14
-Giai đoạn 1: Đối với tuổi 15
-Giai đoạn 2: Đối với tuổi 16
-Giai đoạn 3: Đối với tuổi từ 17 trở lên

Trong phần quân sự, các học viên học tổng quát về quân phong, quân kỷ, cơ bản thao diễn, chiến thuật, vũ khí, tổng quát... tuỳ theo mỗi giai đoạn. Mục đích chuẩn bị cho các học viên có một căn bản vững vàng khi vào các trường sĩ quan hoặc hạ sĩ quan.

Võ thuật

Song song với chương trình học văn hóa và quân sự, hàng tuần các học viên được huấn luyện Taekwondo xen kẽ với giờ huấn luyện thể chất. Các Võ sư Đại Hàn đảm trách hướng dẫn từ năm 1965 đến năm 1971. Tính đến thời điểm năm 1967, đã có 20 học viên đậu huyền đai đệ nhất đẳng. Các học viên này giúp các Võ sư Đại Hàn trong chương trình huấn luyện thường nhật.

Sinh hoạt

Trường Thiếu sinh quân là một trong những Quân trường đẹp nhất của Việt Nam Cộng hòa. Trong khuôn viên của trường được xây dựng với ba ngôi nhà lầu ba tầng tọa lạc trên một khu đất có diện tích rộng rãi. Bao gồm các phòng ăn, phòng ngủ dành cho học viên thật khang trang và đầy đủ tiên nghi. Hội trường rộng lớn cùng nhiều giảng đường, phòng học, thư viện, câu lạc bộ, nhà tiếp tân. Trong trường có nhiều bãi và sân tập. Về phương diện Tôn giáo, trong trường có nhà thờ Công giáo và Niệm Phật đường.

Thành quả

Trong tổ chức Quân lực Việt Nam Cộng hòa có các quân trường:
-Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan hiện dịch, chuyên nghiệp.
-Trường Võ khoa Thủ Đức: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan trừ bị.
-Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan, hạ sĩ quan hiện dịch và trừ bị.

Duy nhất chỉ có một quân trường đã đào tạo cho quân đội mà về sau họ đã trở thành những quân nhân ưu tú, trong đó có các hạ sĩ quan xuất sắc, các sĩ quan chỉ huy giỏi và nổi tiếng (không những là các sĩ quan cấp úy, cấp tá mà còn có cả các tướng lĩnh nữa). Đó là '''Trường Thiếu sinh quân VNCH.

Từ ngày Trường Thiếu sinh quân (TSQ) được chính thức thành lập (từ 1/6/1956 đến 30/4/1975). Trải qua 19 năm, có thể nói là thời kỳ "cực thịnh" của Thiếu sinh quân VNCH. Kể cả giai đoạn đầu, khi mới thành lập những Toán Thiếu sinh quân (1899) cho đến 1975. Trường Thiếu sinh quân đã đào tạo và cung ứng cho quân đội và Quốc gia 6.000 người con ưu tú. Những cán bộ quân sự chuyên nghiệp cho quân đội có trình độ văn hóa bậc Đại học, điển hình như sau:
-Tốt nghiệp từ trường Võ bị Quốc gia, với văn bằng Cử nhân Khoa học Thực nghiệm có: Cựu TSQ Đặng Phương Thành, cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh và một số các huynh đệ khác cùng khóa.
-Tốt nghiệp Sư phạm với văn bằng Đại học Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, một số cựu TSQ được điều động trở về "trường mẹ" làm giáo viên văn hóa, tiếp tục hướng dẫn và đào tạo các lớp đàn em.
-Tốt nghiệp Đại học Luật khoa với văn bằng Cử nhân Luật. Được Bộ Ngoại giao tuyển dụng để trở thành những Tuỳ viên quân sự cho các Sứ quán VNCH tại các nước Đồng minh trên thế giới.
-Tốt nghiệp Đại học Quân y hoặc Đại học Y khoa với văn bằng Y khoa Bác sĩ. Được bổ dụng phục vụ trong các Quân, Dân y viện hoặc điều động phục vụ ngành quân y cho các đơn tác chiến, đơn vị yểm trợ của quân đội.

Trước ngày 30/4/1975, còn có các cựu TSQ giữ chức vụ Tỉnh trưởng, đó là cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn (Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện), cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh (Nguyên Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Tuy)...

Sĩ quan VNCH xuất thân từ Thiếu sinh quân

1975

Trường Thiếu sinh quân trong suốt quá trình 19 năm chính thức tồn tại, đã hoàn thành sứ vụ đào tạo cho Quốc gia nhiều nhân tài và cung ứng cho Quân lực VNCH rất nhiều quân nhân xuất sắc.

Cũng như các Quân trường của Quân lực trên toàn VNCH, trường Thiếu sinh quân đã chấm dứt nhiệm vụ vào ngày xảy ra biến cố 30/4/1975.

Chỉ huy trưởng qua các thời kỳ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trường Thiếu sinh quân** (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Trường được đặt
**Hải quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Republic of Vietnam Navy_, **RVN**) là lực lượng Hải quân trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoạt động trên cả vùng sông nước và lãnh
Dưới đây là danh các Hiệu kỳ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hầu hết được sử dụng từ năm 1955 đến năm 1975.
Các cựu quân nhân miền Nam Việt Nam chào cờ trong
**Lục quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam_, **ARVN**) hay **Bộ binh** là lực lượng quân chủ lực chiến đấu trên bộ của Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Lá cờ của Việt Nam cộng hòa** được giới thiệu lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 6 năm 1948, sau đó được sử dụng làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam và Việt
phải|Trạm y tế ở thôn quê [[chích ngừa cho trẻ em]] **Y tế Việt Nam Cộng hòa** là hệ thống cung cấp dịch vụ y khoa công cộng của Việt Nam Cộng hòa. Cơ cấu
*Dưới đây là danh sách huy hiệu Quân lực Việt Nam Cộng hòa: ## Chức trách và cơ quan cấp cao Tập tin:Flag of the President of the Republic of Vietnam as Supreme
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Hội đồng các Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa** hoặc **Hội đồng Sắc tộc**, là cơ quan đảm trách việc cố vấn cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa về các vấn đề liên quan
**Nguyễn Văn Kiểm** (1924 - 1969) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Ministry of Ethnic Development of the Republic of Vietnam_) là cơ quan phụ trách công tác dân tộc thiểu số và thi hành các
**Nguyễn Văn Mạnh** (1921-1994) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính
phải|Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970 **Cải cách điền địa** là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình **Cải cách nông nghiệp** và
**Tổng cục Chiến tranh Chính trị** là cơ quan tuyên truyền, ban đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này được thành lập dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa với
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù** (tiếng Anh: _81st Airborne Commando Battalion_, **81st ACB**) - thường được gọi tắt là **Biệt cách Dù** (**BCND** / **BCD**) - là một binh chủng đặc biệt, đồng
**Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa** được tổ chức hàng năm, lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 6 năm 1965. Đó là ngày mà tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chính
**Bộ Công dân vụ Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan chính phủ phụ trách công tác giáo dục công dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, tổ chức quần chúng và tuyên
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
**Hiến pháp Việt Nam Cộng hoà năm 1967** là bản hiến pháp thứ hai của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, Quốc hội Lập hiến thông qua vào ngày 18 tháng 3 năm 1967, Ủy
**Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa** là một trong hai viện của chính thể Đệ Nhị Cộng hòa, được thành lập dựa trên bản hiến pháp năm 1967. Đây là cơ quan lập pháp
**Thanh nữ Cộng hòa** Việt Nam Cộng hòa đã hiện diện từ thời còn Quân đội Liên hiệp Pháp. Ban đầu chỉ là một nhân số nhỏ thuộc diện công chức bán quân sự. Sau
**Chương trình học bậc tiểu học và trung học thời Việt Nam Cộng hòa** là tổ chức giáo dục hai cấp dưới của nền giáo dục tại Miền Nam Việt Nam dưới vĩ tuyến 17,
**Tỉnh** của Việt Nam Cộng hòa là đơn vị hành chính lớn nhất dưới cấp Quốc gia đứng đầu là tỉnh trưởng. Dưới cấp tỉnh là quận, không phân biệt đô thị hay nông thôn
nhỏ|**Phù hiệu Binh chủng Pháo binh - Quân lực Việt Nam Cộng Hòa** **Binh chủng Pháo Binh** (tiếng Anh: _Artillery Republic of Vietnam Armed Forces_, **ARVNAF**) là lực lượng hỏa lực trọng yếu của Quân
**Hội đồng Văn hóa Giáo dục** là cơ quan cố vấn cho Chính phủ và Quốc hội về việc thiết lập và thi hành chính sách văn hóa, giáo dục của Việt Nam Cộng hòa.
**Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (, viết tắt _CSDC_) cũng được người Pháp gọi là **Police de Campagne** và có nhiều tên gọi khác nhau là **Cảnh sát Dã chiến
**Hội đồng Quân Dân** (có tài liệu gọi là **Hội đồng Dân Quân**) là cơ quan tư vấn được thành lập tại Việt Nam Cộng hòa trong một khoảng thời gian tương đối ngắn từ
**An ninh Quân đội** (1952 - 1975) là một ngành trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ban đầu khi thành lập trực thuộc Bộ Tổng tham mưu với danh xưng là **Nha An ninh
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang** (tiếng Anh: _Nha Trang Naval Training Center_, **NTNTC**) là một cơ sở đào tạo thủy binh 3 cấp: sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ của
**Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan** (, thường gọi là **Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan** và viết tắt là **MSUG**) là một chương trình hỗ trợ kỹ thuật được cung
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Hội Sinh viên Việt Nam** là một tổ chức chính trị - xã hội dành cho sinh viên Việt Nam, hoạt động song song cùng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, với Đoàn Thanh
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam** (tiếng Anh: _Alliance of National Democratic and Peaceful Forces of Vietnam_, **ANDPFVN**) là một tổ chức được thành lập sau sự
**Hành quân Trần Hưng Đạo 48** là một chiến dịch do Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiến hành vào tháng 2 năm 1974 đưa quân lên đồn trú các đảo chưa bị chiếm đóng
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Quân đội Quốc gia Việt Nam** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Vietnamienne_, **ANV**) là lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam, là một phần của Quân đội Liên hiệp Pháp, được sự bảo trợ
nhỏ|Một nữ y tá và những trẻ em tị nạn trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam **Chiến dịch Không vận Trẻ em** (tiếng Anh: **Operation Babylift**) là một chiến dịch di tản
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền