✨Giống vật nuôi Việt Nam
nhỏ|phải|[[Tằm tơ|Tằm nhộng ở Việt Nam]]
Giống vật nuôi Việt Nam chỉ về các giống vật nuôi có nguồn gốc, xuất xứ từ Việt Nam cũng như một số giống đã được nội địa hóa đã và đang có trên lãnh thổ Việt Nam, người ta hay gọi với tên thông thường là giống nội. Trên thực tế, còn nhiều giống vật nuôi chưa được luật quy định hết, bao gồm những giống vật nuôi còn tiềm ẩn, những giống vật nuôi được nhập nội và nuôi nhốt trong nước Việt Nam. Rất nhiều loại vật nuôi ở các vùng không có tên, nên được gọi là "gà địa phương, lợn địa phương". Theo quy định, mỗi giống vật nuôi mới chỉ được đặt một tên phù hợp, không được trùng hoặc tương tự với tên giống đã có hay chỉ bao gồm các chữ số, dễ gây hiểu nhầm.
Tổng quan
Thống kê
nhỏ|phải|Một đàn [[dê cỏ, thịt dê ở Việt Nam là món đặc sản.]] nhỏ|phải|[[Chăn nuôi cừu ở Ninh Thuận đã có từ thời Pháp thuộc với giống cừu Phan Rang]] Việt Nam được đánh giá là một trong những cái nôi thuần hóa gia súc, gia cầm của loài người. Nguồn gen vật nuôi của Việt Nam được xếp hạng cao trong đa dạng sinh học và khá phong phú do sự khác nhau về môi trường tự nhiên giữa các vùng miền, hệ thống canh tác, nền văn hóa giữa các địa phương, dân tộc. Theo thống, Việt Nam có đến 70 giống vật nuôi bản địa, trong đó có khoảng 30 giống đang được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp như trâu, bò vàng, ngựa ta, lợn. Thống kê của Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), Việt Nam có 30 giống vật nuôi các loại Trong các vùng sinh thái của Việt Nam, 15 tỉnh miền núi và trung du phía Bắc là khu vực có đa dạng giống vật nuôi bản địa phong phú nhất, còn lưu giữ nhiều giống nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ và phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có của vùng do đó việc lai tạo ra nhiều giống gà, giống lợn để đáp ứng ngày càng nhiều hơn cho nhu cầu, thị hiếu ẩm thực của người Việt. Riêng việc nhập khẩu có thể thấy về chủng loại, thịt gà là mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất chiếm gần 74% lượng thịt nhập khẩu và gần 50% tổng giá trị nhập khẩu, mức tiêu thụ thịt đỏ (thịt trâu, thịt bò, thịt dê, thịt cừu) của Việt Nam chỉ chiếm 9,2% tổng lượng thịt tiêu thụ mỗi năm, thịt gia cầm là 17,5%, thịt heo chiếm 73,3% và nhu cầu tiêu thụ thịt bò của Việt Nam ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn có nhiều giống vật nuôi còn tiềm ẩn, riêng một cuộc khảo sát thực hiện trên 12 huyện thuộc 9 tỉnh Sơn La, Phú Thọ, Cao Bằng, Lâm Đồng, Gia Lai, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Lào Cai và Yên Bái đã phát hiện 35 giống vật nuôi mới, trong đó có 13 loại bị lặp và rất nhiều loại vật nuôi ở các vùng không có tên.
Các giống gia cầm quý hiếm đều có những đặc điểm đặc sắc nhất định với những giá trị văn hoá, tinh thần nhất định, chẳng hạn như gà Hồ mang đặc trưng cho vùng văn hoá Kinh Bắc, gà mía là đặc trưng của vùng văn hoá cổ Đường Lâm, Sơn Tây hay gà H'Mông của người H'Mông, gà Tè, vịt mốc, vịt Bầu Quỳ. Về giá trị kinh tế, đến nay đã có nhiều giống quý được phát triển ở quy mô đại trà như gà ri, hay gà Hmông. Đặc biệt, mới đây các nhà khoa học đã phát hiện ra giống gà xước và gà lông chân tại vùng cao Mèo Vạc (Hà Giang).
Hiện nay, các giống vật nuôi được sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam do Nhà nước ban hành có 16 giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam gồm: Ngựa, Bò, Trâu, Lợn, Dê, Cừu, Gà, Vịt, Ngan, Ngỗng, Thỏ, Chim Bồ câu, Chim cút, Đà Điểu, Ong và Tằm Trong đó có các giống nội như bò Vàng, bò H’Mông, bò U đầu rìu, bò Phú Yên; lợn Ỉ, lợn Móng Cái, lợn Mường Khương, lợn Mán, lợn Lang Hồng, lợn Thuộc Nhiêu, lợn Ba Xuyên; dê Cỏ, dê Bách Thảo; Gà Ri, gà Mía, gà Hồ, gà Đông Tảo, gà Tàu vàng, gà Tre, gà Chọi (hoặc Đá hoặc Nòi), gà Tè, gà Ác, gà H’Mông, gà nhiều cựa Phú Thọ, gà Tiên Yên, gà Ri Ninh Hòa; ngan Dé, Trâu, Sen.
Đặc điểm
Đặc điểm nổi bật và quý của các giống vật nuôi nội địa là khả năng chống chịu bệnh tật cao, khả năng sử dụng thức ăn nghèo dinh dưỡng tốt (chịu kham khổ), thịt thơm ngon, thích nghi với điều kiện môi trường sinh thái của từng vùng nơi chúng sinh ra, thích nghi với khí hậu, tập quán canh tác địa phương, khả năng đề kháng bệnh tật cao mặc dù những giống và những nguồn gen này năng suất còn thấp. Các giống gia cầm quý hiếm bao giờ cũng có khả năng phòng chống dịch bệnh tốt hơn rất nhiều so với giống nuôi công nghiệp vì đó mà người chăn nuôi hay sử dụng con cái của giống địa phương lai với con đực của giống nhập ngoại. Các giống địa phương thường có những gen quý, tuy nhiên việc sử dụng các gen này một cách riêng biệt không dễ vì chính chúng lại có thể liên kết với những gen không mong muốn.
Năng suất, chất lượng giống vật nuôi hiện nay nhìn chung đều thấp, hiệu quả và hệ số quay vòng thấp. Công tác quản lý chất lượng con giống, phòng trị bệnh chưa được quan tâm. Chất lượng con giống chưa được chú trọng, nhiều nông dân chọn những giống vật nuôi chất lượng thấp, hiệu quả chăn nuôi không cao.
Nguy cơ
Đến nay, những nguồn gen lợn quý đã bị mai một đi rất nhiều và đã có rất nhiều giống vật nuôi đặc sản hiện nay như lợn ỉ, lợn H’mông, lợn rừng, gà ri… đã bị tuyệt chủng hoặc mất giống thuần chủng. Trước đó đã mất đi ít nhất 8 giống vật nuôi khá nổi tiếng như lợn ỉ mỡ, lợn Phú Khánh, lợn Thuộc Nhiêu, gà Sơn Vi.... Có 8 giống vật nuôi bản địa của người Việt đã mất đi hẳn như thế. Dòng lợn ỉ mỡ, lợn Sơn Vi, gà Văn Phú… toàn những giống phổ biến ngày xưa, thịt có vị rất đặc trưng nhưng đã không có may mắn được bảo tồn kịp thời, nên đã mất giống. Thống kê của Viện Chăn nuôi, có 2 giống đã mất giống, 1 giống lợn ỉ đen không rõ còn hay mất, 3 giống nguy cơ mất và 26 đang giảm nhanh về số lượng chưa nói đến chất lượng. Theo FAO, đã có 5 giống bị tuyệt chủng, 50% số còn lại nằm dưới con số 20 con đực và 1000 con cái. Điều đó khiến Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thất thoát nguồn gen vật nuôi.
Ngành chăn nuôi trong thời hiện đại hóa, thiên tai dịch họa và bệnh tật là những nguyên nhân gây ra sự thất thoát này.
Bảo tồn
nhỏ|phải|Lợn sóc, giống lợn của người Ê-Đê
Hơn 10 năm qua dù muộn màng, Việt Nam đã quan tâm đến bảo tồn và phát triển nguồn đa dạng sinh học của các giống vật nuôi bản địa. Đã có hơn 50 giống vật nuôi bản địa được nghiên cứu, phát hiện, bảo tồn và phát triển. Một số giống đã được phục hồi và trở thành hàng hóa, mang lại lợi ích cho người nông dân. Trong đó, có 14 loài vật nuôi mới quý hiếm, nhiều giống vật nuôi có vốn gen quí hiếm ở Việt Nam đã được cứu vãn và phục hồi thành công như: lợn Móng Cái, lợn Táp Ná (Cao Bằng), ngựa Bạch, gà H’mông, gà Tè (lùn), vịt Bầu Bến (Hòa Bình), vịt Kỳ lừa, vịt đốm (Lạng Sơn).
Hiện đã có 74 nguồn gen đã được đưa vào danh sách cần được bảo tồn, lưu giữ, sử dụng có hiệu quả trong sản xuất Hiện nay, Giống mới phát hiện như lợn Nàng Hương (Cao Bằng) vừa được phát hiện, lợn Mường Khương có đặc tính hoang dã cao đã giao cho một số cơ sở địa phương nuôi, nay cơ bản đã an toàn.
Hiện nay, Viện Chăn nuôi đang bảo tồn 24 giống vật nuôi, trong đó có 7 giống gà, là gà Lạc Thủy, gà Lạc Sơn (Quảng Bình), gà kiến (Bình Định), gà Quý Phi, gà chín cựa, gà Lôi lam đuôi trắng, gà Xước Hà Giang. Do kinh phí eo hẹp nên hiện tại Trung tâm thuộc Viên mới chỉ nuôi giữ được 2 giống lợn ỉ và Lũng Pù, 3 giống thủy cầm, 7 giống gà và một số giống khác gồm các giống sau đây (chưa đầy đủ):
Giống trâu
nhỏ|phải|Một con trâu nội Các giống trâu có nguồn gốc ở Việt Nam còn được gọi chung là Trâu nội hay trâu ta. Dưới đây liệt kê một số giống trâu nội thường gặp ở Việt Nam.
Trâu nội
Trâu nội thuộc nhóm trâu đầm lầy châu Á. Kết cấu ngoại hình với mục đích kéo cày là chủ yếu. Màu đặc trưng màu tro sẫm, lông thưa, da dày khô. Đại bộ phận có vạch loang cắt ngang qua phía dưới cổ họng và một hình chữ V thấp hơn chạy ngang qua phía trên ngực. Ít khi có trâu màu trắng. Đầu to ngắn, sừng dài, đen, nhọn và cong về phía sau, cổ dài thẳng, có nhiều nếp nhăn; vai vạm vỡ khỏe mạnh; ngực lép; bụng to tròn; lưng dốc về phía sau. Mông thường phát triển tốt.
Trâu Ngố
Là một giống trâu nội có nguồn gốc ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc như vùng Lục Yên thuộc Yên Bái, vùng Hàm Yên thuộc Tuyên Quang và huyện vùng cao Chiêm Hóa, Tuyên Quang vốn nổi tiếng có giống trâu ngố vóc dáng to, khỏe. Giống trâu ngố Lục Yên là giống trâu tốt, có tầm vóc to, khỏe. Những con trâu ốm yếu thì được gọi là trâu Dé.
Trâu Bảo Yên
Trâu Bảo Yên là những giống trâu được nuôi tại huyện Bảo Yên thuộc tỉnh Lào Cai, nơi được coi là vùng trâu giống Quốc gia của Việt Nam. Trâu Bảo Yên đã được cấp văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Trâu Bảo Yên có từ xa xưa, chủ yếu là trâu nội. Đến 1960, Bộ Nông nghiệp Việt Nam nhập trâu Murah từ Ấn Độ nhằm cải tạo, nâng cao năng suất, sức kéo đàn trâu địa phương, trâu ở Bảo Yên là trâu lai (Murah – Nội).
Trâu Langbiang
Trâu Lang Biang hay còn gọi là trâu Lạc Dương được nuôi tại huyện Lạc Dương, Lâm Đồng. Trâu có sừng, chân to, ngắn, mông nở, cổ dài và nhỏ với 2-3 vòng trắng dưới cổ rất dễ nhìn, mặt và mắt cũng có nhiều điểm trắng. Đây là loài trâu đầm to nhất so với đồng loại ở các vùng miền khác của Việt Nam. Khối lượng trung bình của trâu đực Lang Biang là 669 kg và con cái là 500 kg, cá biệt, một số trâu cái nặng tới 874 kg (vòng ngực 223 cm, chiều cao thân 139 cm), Trong khi đó, trâu đầm to nhất ở Việt Nam chỉ nặng 450–500 kg.
Giống bò
Bò Việt Nam hay còn gọi là bò ta, bò nội, bò địa phương nguồn gốc từ bò Bos indicus, nhánh bò châu Á, có u như bò U Ấn Độ (bò Zebu), hầu hết màu vàng, vàng nhạt hoặc vàng đậm, nên có tên chung là bò vàng Việt Nam hay bò Vàng. Nhìn chung giống bò Việt Nam nuôi để lấy sức kéo, một phần lấy thịt, hầu như không nuôi để lấy sữa. Chăn nuôi bò thịt hiện nay ở Việt Nam còn manh mún, nhỏ lẻ và được nuôi chủ yếu tại các hộ nông dân không chuyên nghiệp. Bò chủ yếu là chăn nuôi kiêm dụng, quy mô sản xuất nhỏ, giống năng suất thấp. Khi bán bò lại qua nhiều khâu trung gian, dẫn đến chi phí giao dịch trong toàn chuỗi cao. Trên thị trường thiếu các giống bò thịt cao sản, thiếu đàn bò cái chuẩn, nên giá bò giống quá cao. Mạng lưới thụ tinh nhân tạo bò không phát triển. Trong khi đó diện tích đồng cỏ cho chăn thả rất ít vì đa số đất đã sử dụng cho việc trồng các cây lương thực và cây công nghiệp.
Dưới đây liệt kê (chưa đầy đủ) một số giống bò nội địa được nuôi ở Việt Nam hiện nay:
Bò Vàng
Bò vàng Việt Nam là giống bò địa phương thuộc nhóm giống bò vàng phương Nam, do vóc dáng nhỏ bé nên người ta hay gọi nó là loài bò cóc, bò cỏ. Bò phân bố tương đối tập trung (57 – 60 % tổng đàn) từ Thanh Hoá dọc theo Quốc lộ 1 đến miền Đông Nam Bộ. Giống bò này nuôi chủ yếu làm sức kéo từ lâu đời chưa được cải tạo, nên không có thiên hướng sản xuất rõ rệt, không có tên riêng mà gọi theo địa danh: Bò Thanh Hoá, bò Nghệ An, bò Bình Định, bò Phú Yên. Bò Vàng Việt Nam có các dòng là Bò Thanh Hóa và bò Nghệ An.
Bò H’Mông
nhỏ|phải|Một con bò Mèo Được nuôi nhiều nhất ở vùng rẻo cao vùng Hà Giang, Cao Bằng tại các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, chúng được người Mông và các dân tộc anh em bản địa nuôi khá phổ biến. Hiện nay giống bò này đang nằm trong danh sách bảo tồn nguồn gen quý. Là giống bò chủ yếu do người H'mông chăn nuôi, bò đực trưởng thành trên 5 năm tuổi có trọng lượng 500–800 kg. Đây là giống bò có nguồn gen quý với tỷ lệ mỡ giắt cao, độ dai là 6,5 kg sau 24 giờ giết mổ.
Bò U đầu rìu
Là giống bò có nguồn gốc ở Nghệ An, Hà Tĩnh, tập trung chủ yếu tại huyện Nam Đàn (tỉnh Nghệ An), huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh) và một số địa phương lân cận. Bò có màu lông từ vàng đến nâu nhạt, cao khoảng 110–115 cm. Đặc điểm nổi bật là ở con đực có u vai màu hơi đen giống hình cái rìu nên gọi là “u đầu rìu”. Mặt thanh, sừng ngắn to ở bò đực, nhỏ ở bò cái; tai nhỏ, thẳng, yếm thẳng và gọn; lông thưa, ngắn và mịn; đuôi dài, chỏm đuôi có màu đen.
Bò Phú Yên
Là một giống bò vàng nội địa có xuất xứ từ Phú Yên. Đây là giống bò được Nhà nước công nhận là giống vật nuôi được phép kinh doanh, sản xuất. Bò Phú Yên nặng 250 –350 kg, thuộc bò U, có tầm vóc lớn. Sừng chĩa về phía trước, cổ ngắn, yếm rộng, màu lông vàng sẫm, đỏ sẫm hay đỏ nhạt. Bò Phú Yên nổi tiếng là giống tốt, theo đúng tiêu chuẩn: mình lăn, đùi treo, ngực nở, mình hổ cổ rô, tai nhỏ, mí mắt mỏng, da mỏng lông mượt, ống chân thắt tròn, gót chân mỏng, móng tròn.
Bò Bảy Núi
Bò Bảy Núi hay bò đua Bảy Núi được nuôi ở vùng Bảy Núi thuộc Tri Tôn, An Giang, phổ biến trong lễ hội đua bò Bảy Núi. Bò chính gốc Bảy Núi, còn gọi là bò "Cu", chúng nhỏ con nhưng thân mình liền lạc, nhanh, mạnh và bền, dáng thấp, nhỏ với sắc lông vàng chiếm ưu thế, có sự phân bổ cơ, xương rất đặc thù, cho phép bò có được sức rướn, sức bật nhanh mà đảm bảo được sức bền vượt trội. Hiện nay, bò đua đứng trước nguy cơ tuyệt chủng vì tập quán thiến (hoạn) bò đực từ nhỏ và nhất là phong trào Sind hoá đàn bò.
Bò lai
Bò lai hay tổ hợp lai của các giống bò giống bò nội mặc dù dễ nuôi, ít bệnh nhưng năng suất nuôi không cao. Trong khi các giống bò trên thế giới có năng suất nuôi thịt cao, nhưng lại đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc và chất lượng thức ăn tốt. Các nhà chăn nuôi ở Việt Nam đã nhập tinh bò ngoại hoặc đực giống về cho gieo phối với bò cái để cải tạo năng suất chăn nuôi. Các tổ hợp bò lai gồm: Bò lai Sind là con lai cấp tiến giữa bò đực giống Sindi đỏ và bò cái Vàng Việt Nam, phân bố rải rác ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài ra có bò lai Charolaise, Bò lai Droughtmaster, Bò lai Brahman, Bò lai BBB F1.
Giống ngựa
Các giống ngựa của Việt Nam gọi chung là ngựa nội, hay ngựa ta, chúng chủ yếu dùng làm ngựa thồ, ngựa kéo xe (xe thổ mộ, xe đám cưới).
Ngựa nội
Một con [[ngựa bạch Việt Nam ở Sơn Tây]] Hiện nay, Việt Nam có giống ngựa nội được phổ biến ở các vùng đồi núi trung du phía Bắc Việt Nam hay còn gọi là ngựa Bắc Hà hay ngựa Cao Bằng. Chúng là loại kiêm dụng, dùng vào việc thồ hàng (ngựa thồ) ở miền Bắc và kéo xe thổ mộ ở miền Nam. Ngoài ra ở Đà Lạt từ xưa đến nay tồn tại quần thể ngựa Đà Lạt là các con ngựa cỏ được người dân tộc nuôi và nay có lai tạo với ngựa ngoại để làm du lịch (ngựa cưỡi du lịch, ngựa kéo xe du lịch).
Ngựa nội gồm hai dòng là Ngựa Màu (nâu) và Ngựa Bạch, chúng đang bị lai tạp nhiều. Ngựa nội có tầm vóc và vóc dáng thấp nhỏ, cao chừng 1,5m, bề cao vai khoảng 1,2m, có trọng lượng 150–170 kg, chúng có kết cấu chưa cân đối, đầu hơi to, cổ hơi nằm ngang, ngực hơi lép, lưng hơi võng, bụng to, phình ra, đùi chưa phát triển, chân nhỏ, thế dứng của haichân chưa tốt nhất là chân sau. Chạy nhanh cũng chỉ khoảng 25–28 km/giờ, kém xa so với tốc độ ngựa đua trên thế giới.
Ngựa bạch
Là một giống ngựa sắc trắng (ngựa trắng) có xuất xứ từ Cao Bằng do bị bạch tạng (ngựa bạch). Chúng là dòng ngựa quý, hiếm, có số lượng rất ít ở Việt Nam hiện nay, được phân bố rải rác ở một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam, phân bố chủ yếu ở ba tỉnh Đông Bắc là Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang. Chúng được nuôi để lấy cao ngựa. Đây là giống vật nuôi quý hiếm được nhà nước Việt Nam công nhận là một giống vật nuôi.
Ngựa Phú Yên
Là giống ngựa lâu đời được nuôi ở một số tỉnh miền Trung như Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, trong đó thủ phủ là tỉnh Phú Yên, đây là xứ ngựa nổi tiếng một thời. Ngựa Phú Yên từng được đánh giá cao, dùng vào nhiều việc, từng được xem là giống ngựa tốt, thường được chọn dâng triều đình nhà Nguyễn làm ngựa dụng. Ngựa hiện được dùng nhiều để kéo, cưỡi, thồ.
Giống dê
Các giống dê của Việt Nam gọi chung là dê nội, hiện nay ở Việt Nam có giống dê cỏ là giống bản địa và được nuôi rộng rãi, ngoài ra còn có giống dê Bách Thảo là giống nội địa hóa các giống dê nhập ngoại.
Dưới đây liệt kê một số giống dê nội địa của Việt Nam hiện nay:
Dê cỏ
Dê Cỏ được nuôi ở hầu hết các vùng sinh thái của Việt Nam theo phương thức chăn thả quảng canh, với mục đích lấy thịt. Chúng dễ nuôi, khả năng thích ứng rộng và có khả năng chống chịu với bệnh tật rất tốt. Thịt dê Cỏ thơm ngon, được ưa chuộng (Dê núi Ninh Bình). Đa số lông có màu vàng nâu hoặc đen loang trắng, chúng nhỏ con, thành thục sớm.
Dê Bách Thảo
Là giống dê do lai tạo mà có ở Việt Nam, chúng là giống kiêm dụng sữa – thịt được hình thành từ việc lai giống giữa dê Alpine, dê British-Alpine của Pháp với dê Ấn Độ, đây là giống dê to con, có lông đen, tai cụp và là giống dê kiêm dụng sữa và thịt dê. Dê hiền lành, có thể nuôi nhốt hoàn toàn hoặc nuôi nhốt kết hợp với chăn thả ở các vùng.
Giống cừu
Ở Việt Nam hiện nay chỉ nuôi một giống cừu nội địa duy nhất.
Cừu Phan Rang
Cừu Phan Rang là giống cừu duy nhất ở Việt Nam hiện nay, chúng được du nhập vào bởi các giáo sĩ Công giáo. Giống cừu này được hình thành hơn 100 năm, trải qua những điều kiện khí hậu nắng nóng gần như quanh năm, dưới sự tác động của chọn lọc tự nhiên và nhân tạo, đã thích nghi cao với điều kiện sinh thái của Ninh Thuận, giữa cái nắng như đổ lửa đàn cừu vẫn tha thẩn gặm cỏ khô trên những gò cát trơ trụi, nóng bỏng.
Giống lợn
nhỏ|phải|Một con lợn Ỉn của Việt Nam Các giống lợn truyền thống Việt Nam rất nhiều mỡ và sinh trưởng chậm. Do vậy, chúng không phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Do đó, hiện nay, người dân Việt Nam có xu hướng nuôi lợn lai nhập nội, dẫn đến nguy cơ mất dần đi những giống lợn bản địa. Một số giống lợn đã được đưa vào Danh mục nguồn gen vật nuôi quý hiếm cần bảo tồn của Việt Nam, gồm: lợn ỉ, lợn Ba Xuyên, lợn cỏ, lợn mán, lợn Táp Ná, lợn Vân Pa.
Riêng các giống lợn bản địa đã có tới 20 loại, như lợn ỉ, Móng Cái, Thuộc Nhiêu, lợn hung (Hà Giang), lợn Vân Pa (Quảng Trị), lợn Mường Khương (Lào Cai), lợn Táp Ná (Cao Bằng), lợn lửng Phú Thọ, lợn đen 14 vú Mường Lay (Điện Biên), lợn nâu (Sìn Hồ - Lai Châu) v.v… Như vậy hiện đã có 5 giống hoặc nhóm vật nuôi địa phương được phát hiện là tuyệt chủng hoặc ở mức độ tối nguy hiểm: lợn Ỉ mở, lợn Sơn Vi, lợn trắng Phú Khánh, lợn Cỏ Nghệ An. Hai giống lợn bản địa chủ yếu được đưa vào nghiên cứu là lợn lửng Phú Thọ và lợn đen 14 vú Mường Lay (Điện Biên).
Các giống lợn bản địa chủ yếu được bà con các dân tộc miền núi khắp các vùng từ Móng Cái (Quảng Ninh) qua dãy Trường Sơn đến Bình Phước lưu giữ và chăn nuôi ở quy mô nhỏ với phương thức thả rông. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều người đang quay lại chăn nuôi các giống lợn bản địa vì các ưu điểm: thịt ngon, ít bệnh tật, giá trị kinh tế lớn. Tuy nhiên hệ thống chăn nuôi các loại lợn bản địa hiện còn nhiều nhược điểm: chủ yếu nuôi thả rông gây khó khăn cho việc ghép đôi giao phối, năng suất thịt thấp, quy mô nhỏ, sản lượng thấp khó trở thành sản xuất hàng hóa lớn.
Danh mục các giống lợn nuôi hiện nay được liệt kê (chưa đầy đủ) dưới đây gồm:
Lợn Táp Ná
Lợn Táp Ná là một giống lợn nội của Việt Nam, được hình thành từ lâu đời chủ yếu ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng. Người dân nuôi lợn ở vùng núi huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng chỉ giao dịch mua bán lợn tại chợ Táp Ná do đó giống lợn nội Việt Nam này dần dần được người dân đặt tên là giống lợn Táp Ná. Ngoài nuôi phổ biến ở các bản làng hẻo lánh trên các vùng núi cao hiểm trở của huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng.
Lợn đen Lũng Pù
nhỏ|phải|Một con lợn đen Sapa Đây là giống lợn bản địa ở Mèo Vạc, hiện được chăn nuôi tại 4 huyện trong tỉnh Hà Giang. Lợn đen Lũng Pù có tầm vóc to lớn, nuôi 10 đến 12 tháng đạt trọng lượng 80 đến 90 kg. Lông đen, dày và ngắn; da thô; tai nhỏ cúp; mõm dài trung bình. Giống lợn này có hai loại hình, một loại 4 chân trắng và có đốm trắng ở trán và mõm, một loại đen tuyền. Đây là giống lợn chiếm tỷ lệ cao nhất và có chất lượng tốt nhất so với các giống lợn địa phương khác của Hà Giang.
Lợn Mường Khương
Là một giống lợn được nuôi nhiều ở vùng núi phía Bắc và gắn liền với đời sống người H’Mông, chúng là giống lợn địa phương có từ lâu đời, được nuôi ở nhiều vùng thuộc tỉnh Lào Cai, nhiều nhất là ở huyện Mường Khương. Đây là một trong ba giống lợn quý ở các tỉnh phía Bắc, chúng cũng là một trong ba giống lợn nội chủ yếu làm nền lai kinh tế ở Miền Bắc Việt Nam. Lợn Mường Khương được nuôi chủ yếu được nuôi ở vùng trung du Bắc Bộ.
Lợn Mường Lay
Lợn đen Mường Lay hay còn gọi là lợn đen 14 vú là một giống lợn nội địa ở Điện Biên. Lợn có 14 vú trở lên nên rất đông con, mỗi lứa đẻ trung bình 12-15 con, thậm chí tới 20 con/lứa. Đây là giống lợn đen phàm ăn, quen chịu đựng sương gió, thời tiết khắc nghiệt, ít bệnh, phát triển mạnh. Nuôi lợn đen Mường Lay ít tốn thức ăn nhưng chúng vẫn lớn đều, thịt săn chắc, thơm và ngọt, được coi là thực phẩm sạch nên được nhiều người ưa chuộng. Lợn đen 14 vú Mường Lay đã được tỉnh Điện Biên đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển từ năm 2008.
Lợn ỉ
nhỏ|phải|Một con lợn Ỉ mở Lợn ỉ là một giống lợn địa phương ở miền Bắc Việt Nam, ngày nay ít được nuôi do hiệu quả kinh tế không cao và đang có nguy cơ tuyệt chủng. Giống lợn ỉ mỡ (hay còn gọi là lợn ỉ nhăn) có thịt ít mỡ nhiều (tỉ lệ nạc chỉ đạt 36% trong khi mỡ chiếm đến 54%). Nuôi lợn ỉ cả năm cũng chỉ đạt 40–50 kg, trong khi giống lợn thịt nuôi sáu tháng đã đạt 70 – 80 kg. Lợn ỉ mỡ hiện chỉ còn được nuôi tại một số hộ dân nghèo ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái có xuất xứ từ thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, hiện nay đã có mặt ở nhiều tỉnh phía Bắc và miền Trung, Tây Nguyên. Lợn Móng Cái gồm 2 dòng: xương to và xương nhỡ. Lợn Móng Cái có đầu đen, giữa trán có đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi, mõm trắng. Lưng, mông, cổ màu đen hình yên ngựa, các phần còn lại trắng.
Lợn lửng
Giống lợn lửng Phú Thọ của một số thôn bản của các xã vùng sâu, vùng xa như: Xuân Sơn, Vĩnh Tiền, Yên Sơn, Đông Cửu (Phú Thọ) toàn thân đen tuyền, trán dô, mặt phẳng, mõm dài, tai chuột, chân nhỏ, tầm vóc nhỏ (một năm tuổi chỉ đạt 10–15 kg, nhiều nơi còn gọi là lợn "cắp nách"), thịt ngon và thơm như thịt lợn rừng, giá bán cao gấp 3-4 lần so với lợn công nghiệp, hiện đang được tỉnh Phú Thọ đưa vào danh mục bảo tồn và phát triển.
Lợn mán
nhỏ|phải|Một con heo mọi Lợn mọi, Heo mọi hay lợn Mán là một giống lợn nhỏ được lai giữa lợn nhà và lợn rừng xuất phát từ miền Trung Việt Nam và miền Bắc Việt Nam, được nuôi thả, thường chỉ nặng trên dưới 10 kg, lưng cong, bụng ỏng rất dễ thương, thịt rất săn chắc, rất thông minh và thích sạch sẽ, có thể dùng làm vật nuôi, thú cảnh hoặc làm nguyên liệu cho nhiều món ăn ngon.
Lợn Mẹo
Lợn Mẹo hay còn gọi là lợn Mèo, heo Mẹo là giống lợn của Người H'Mông, được nuôi tại các hộ gia đình thuộc một số xã miền núi trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Yên Bái. Lợn Mẹo được đồng bào dân tộc H'Mông nuôi thuần từ rất lâu đời ở vùng rẻo cao khí hậu mát mẻ quanh năm. Lợn Mẹo được hình thành tại vùng núi cao của dãy Trường Sơn, nơi có khí hậu mát mẻ và địa hình đồi núi rộng rãi thích hợp cho thả rông tự do, chúng thích nghi và phát triển tốt trong điều kiện sinh thái, kinh tế và tập quán chăn nuôi của người H’Mông.
Lợn cỏ
Lợn cỏ hay lợn nít heo cặng là một giống lợn nuôi có khối lượng nhỏ, gầy, èo uột, chậm lớn và là đặc sản của một số vùng đất nghèo ở miền Trung mà chủ yếu là ở các tỉnh khu IV cũ, gắn liền với một thời kỳ của một nền kinh tế nghèo nàn, với việc quản lý kém trong thời kỳ bao cấp, lợn được nuôi tự phát và thoái hóa do phối giống cận huyết. Hiện chúng được nuôi để làm đặc sản.
Lợn cắp nách
Lợn cắp nách hay còn gọi là lợn Mường Sapa là giống lợn nhỏ, chỉ chừng chục kg, con vật này được người dân miền núi nuôi theo kiểu thả rông. Chúng ăn ngô, khoai, sắn hay rễ cây, rau cỏ trong rừng. Tại những phiên chợ trên vùng cao Tây Bắc, người dân tộc gùi chúng trên lưng xuống chợ, mua bán, trao đổi hàng hóa, họ có thể cắp chúng ở nách.
Lợn Bản
Là giống vật nuôi bản địa, được dân tộc Mán, Mường nuôi từ rất lâu đời với phương thức nuôi thả tự do, một số ít nuôi nhốt nhưng không thâm canh. phân bố ở khắp các huyện vùng núi cao của tỉnh Hòa Bình, trong đó chủ yếu tập trung ở Đà Bắc, Cao Phong, Lạc Sơn, Mai Châu, Tân Lạc. Lợn có ưu điểm là có sức đề kháng cao với dịch bệnh, chất lượng thịt thơm ngon.
Lợn Bảo Lạc
Lợn Bảo Lạc là một giống lợn được nuôi từ lâu, được đánh giá là thuần chủng, có đặc điểm, ngoại hình đa dạng, được nuôi từ lâu đời ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng của Việt Nam. Trong điều kiện nuôi dưỡng lạc hậu ở vùng núi đá, lợn Bảo Lạc có tầm vóc nhỏ và khả năng sinh sản không cao nhưng nhóm lợn này thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên, tập quán và trình độ sản xuất của người dân vùng cao, chất lượng thịt thơm ngon.
Lợn Hạ Lang
Lợn Hạ Lang là giống vật nuôi Việt Nam có từ lâu đời ở tỉnh Cao Bằng, đây là nguồn gen bản địa được phát hiện và bảo tồn từ năm 2007, hiện nay, 60% giống lợn này được sử dụng làm nái nền trong chăn nuôi lợn của trong thành phố Cao Bằng. Đặc điểm ngoại hình của lợn có nhiều điểm giống với lợn Móng Cái. Lợn có da mỏng, mõm bẹ, ngắn lưng, phàm ăn; có khoang yên ngựa trên thân, trán đốm trắng, da bụng trắng, 4 chân trắng; đẻ nhiều và tỉ lệ mỡ cao.
Lợn Hương
Lợn Hương là giống lợn được nuôi phổ biến ở các huyện biên giới Việt Nam – Trung Quốc thuộc tỉnh Cao Bằng gồm Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang… Đây là một nguồn gen quý, được bảo tồn ở Việt Nam từ năm 2008 và ngày càng phát triển về số lượng ở Cao Bằng. Lợn Hương có nguồn gốc từ Trung Quốc, được du nhập và nuôi phổ biến ở các huyện biên giới Việt Nam – Trung Quốc thuộc tỉnh Cao Bằng.
Lợn sóc
nhỏ|phải|Con lợn Đê Lợn Đê là một loại lợn của người Êđê, người M'nông. Giống lợn nhà này phù hợp một số đặc điểm và địa hình của buôn làng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Họ có nhà sàn cao cách biệt với các loài vật ở dưới sàn. Lớp sàn dưới dùng cho các loài vật quần tụ ở đó, hiện này nhân dân các buôn làng không làm như vậy nữa mà làm chuồng nhốt riêng xa nhà một khoảng.
Lợn Khùa
Đây là giống lợn bản địa ở miền núi Quảng Bình, do người dân tộc Khùa nuôi tại các nông hộ theo phương thức thả rông tự kiếm ăn và không có chuồng trại. Về màu lông, lợn Khùa có thể có màu lông đen toàn thân, có lông da đen với các điểm trắng ở 4 chân hoặc có lông da đen và loang trắng trên thân. Mõm lợn khùa nói chung dài và khỏe, lưng khá thẳng.
Lợn Vân Pa
Lợn Vân Pa hay còn gọi là lợn mini Quảng Trị là giống lợn địa phương lâu đời của đồng bào dân tộc Vân Kiều-Pa Cô thuộc 2 huyện miền núi Hướng Hoá và Đakrông thuộc tỉnh Quảng Trị. Trọng lượng lợn Vân Pa trưởng thành chỉ đạt 30 – 35 kg, được coi là giống lợn mi ni duy nhất của Việt Nam. Giống lợn này có nhiều tập tính của động vật hoang dã như tính bầy đàn, có khả năng tự kiếm ăn cao, chịu được kham khổ, khả năng kháng bệnh tốt, thịt thơm ngon.
Lợn Lang Hồng
Lợn Lang Hồng là giống lợn địa phương Bắc Ninh (chúng được gọi là Lang hay Lạng vì có ở Lạng Sơn), lang Bắc Thái. Nhóm lợn lang có pha máu lợn Móng Cái với lợn địa phương, hướng mỡ. Lông da lang từng nhóm to nhỏ trên mình, không ổn định như ở lợn Móng Cái. Được dùng làm nái nền trong lai với lợn ngoại có tỉ lệ nạc cao. Nuôi nhiều ở các địa phương, Lợn Lang Hồng được phân bố chủ yếu ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang (Hà Bắc cũ).
Lợn Phú Khánh
Hay còn gọi là lợn trắng Phú Khánh là một giống lợn có nguồn gốc ở Việt Nam tại địa phương Phú Khánh cũ (nay là tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên). Giống lợn này được công nhận là một giống vật nuôi ở Việt Nam. Lợn trắng Phú Khánh là lợn lai giữa lợn địa phương với các giống lợn ngoại, chủ yếu là lợn Yorkshire, qua nhiều năm phát triển lợn lai này đã dần dần thích ứng với điều kiện chăn nuôi và khí hậu ở địa phương tỉnh Phú Khánh. Lợn đã được chọn lọc, nhân thuần và xây dựng thành nhóm giống lợn trắng Phú Khánh.
Lợn Kiềng Sắt
Là giống lợn bản địa Quảng Ngãi có tên gọi phổ biến là lợn Cỏ, theo cách gọi của người Hrê gọi là lợn Kiềng Sắt hay lợn cúng Giàng, chúng có nguồn gốc tại xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ, được nuôi chủ yếu bởi ba cộng đồng người dân tộc Người Hrê, người Kor, người Kdong. Chúng có những đặc điểm quý như dễ nuôi, khả năng chống chịu bệnh tốt, không kén ăn, chi phí nuôi thấp, chất lượng thịt thơm ngon. Hiện nay số lượng lợn Kiềng Sắt còn rất ít, phân bố rải rác ở những vùng xa xôi, hẻo lánh.
Lợn Bồ Xụ
Lợn Bồ Xụ là lợn lai giữa lợn Vuông (một giống lợn nuôi lâu năm ở Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc) với lợn Craonnais do các chủ đồn điền người Pháp ở vùng Miền Đông Nam Bộ nhập về vào năm 1920. Lợn Bồ Xụ có thân hình cao lớn, lông trắng, tai lớn và xụ xuống che cả mắt, nuôi khoảng 8 tháng thịt cho nhiều nạc. Nếu nuôi giáp năm thì đạt gần tạ rưỡi. Heo Bồ Xụ được cho lai với heo Berkshire và Tamworth.
Lợn Ba Xuyên
nhỏ|phải|Lợn Ba Xuyên Lợn Ba Xuyên hay heo bông là giống lợn đen đốm trắng xuất phát vùng Ba Xuyên nay thuộc tỉnh Sóc Trăng. Giống lợn này được hình thành từ các giống lợn địa phương lai với lợn Hải Nam, lợn Craonnaise và lợn Berkshire. Lợn Ba Xuyên có khối lượng trưởng thành đạt 120–150 kg, đẻ bình quân 8-9 con/lứa, nuôi con khéo. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc chỉ đạt 39-40%. Lợn Ba Xuyên thường được dùng làm nái nền để lai với đực ngoại tạo con lai nuôi thịt thương phẩm.
Lợn Thuộc Nhiêu
Đây là con lai giữa lợn Bồ Xụ và lợn Yorkshire ở vùng Thuộc Nhiêu, huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Lợn Thuộc Nhiêu có lông màu trắng, có thể có vài đốm đen nhỏ. Giống lợn này chịu đựng được nhiều điều kiện chăn nuôi kham khổ, có khả năng sử dụng tốt thức ăn nghèo protein, nuôi con khéo, chống chịu bệnh tốt, phù hợp với chăn nuôi gia đình. Hiện nay giống lợn này chỉ còn nuôi ở vùng sâu, vùng xa, các vùng khác được cải tiến bằng cách lai pha máu với lợn Yorkshire.
Giống gà
nhỏ|phải|Gà đồi Mai Châu Các giống gà nội địa của Việt Nam gọi chung là gà ta (để phân biệt với gà Tàu là giống gà từ phương Bắc và gà Tây là giống gà từ Pháp, gà Mỹ), gà nội (để phân biệt giữa gà nội địa, gà địa phương với các giống gà nhập ngoại). Đặc điểm chung của gà ta là thịt thơm ngon, lòng đỏ trứng to (34-35% khối lượng trứng) chịu đựng tốt nhưng các giống gà nội năng suất thấp. So với gà công nghiệp, gà ta thả vườn dễ nuôi, có sức chống chịu bệnh cao, có khả năng tận dụng thức ăn, đầu tư chuồng trại thấp, phù hợp với điều kiện nuôi nông hộ. Gà ta có chất lượng thịt thơm, ngon, giá bán cao do thị hiếu người tiêu dùng luôn ưa chuộng giống gà ta. Gà ta vốn khỏe mạnh hơn gà công nghiệp và khi được chăn thả theo mô hình tự nhiên bán hoang dã, chúng sẽ tự điều chỉnh để thích nghi, hòa nhập và chống chọi với dịch bệnh, vì vậy gà thả vườn ít bị dịch bệnh hơn nuôi gà công nghiệp.
Gà là giống vật nuôi rất thân thuộc với đời sống người Việt, làng quê Việt sẽ thiếu hồn nếu thiếu tiếng gà. Trong hơn 20 loại gia cầm quý ở Việt Nam được bảo tồn gen, gà chiếm 11 loại, còn lại là vịt (vịt cỏ, vịt bầu bến, vịt bầu Quỳ), ngan (ngan trắng tức ngan ré, ngan đen tức ngan trâu, ngan loang đen trắng), ngỗng cỏ. Hiện Việt Nam đang có các giống gà hồ, gà mía, gà Đông Tảo, gà Tàu vàng, gà ri, gà tre, gà Phù Lưu Tế, gà Văn Phú, gà ô, các loại gà lai, gà cải tiến Trong số đó có 05 giống gà tiến vua độc nhất vô nhị của Việt Nam. Viện Chăn nuôi đang bảo tồn 24 giống vật nuôi, trong đó có 7 giống gà, là gà Lạc Thủy, gà Lạc Sơn (Quảng Bình), gà Kiến (Bình Định), gà Quý Phi, gà nhiều cựa, gà Lôi lam đuôi trắng, gà Xước Hà Giang.
Gà Re
Gà Re, còn gọi là gà Hrê, là một giống gà đặc sản, quý hiếm, có từ xa xưa của dân tộc Hrê ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là nguồn gen vật nuôi quý, hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam. Gà chủ yếu được nuôi chăn thả, có tập tính siêng kiếm ăn quanh vườn, không chịu ở yên một chỗ. So với các giống gà thông thường khác, gà Re có giá cao.
Gà ác
nhỏ|phải|Một con gà ác mái Gà ác hay gà ô kê Là giống gà nguyên liệu cho đặc sản gà ác tiềm (hầm) thuốc Bắc, rất bổ, tham gia quá trình tạo xương, đen tóc, tạo kháng thể chống mầm bệnh, tạo máu. Gà ác được nuôi nhiều ở phía Nam, nhỏ con (chỉ từ 5 đến 7 lạng), có sức sống cao, nuôi được cả nhốt lẫn thả, được coi như một vị thuốc bổ. Gà đen được nuôi ở vùng biên giới Việt Trung, có nhiều ở Lào Cai, do nuôi thả chung nên bị lai tạp giống. Chịu đựng kham khổ, khắc nghiệt, sương giá tuyết rơi, gà vẫn đi kiếm mồi. Giống gà này được FAO công nhận.
Thỏ ta
Các giống thỏ ở Việt Nam hiện nay gọi là giống thỏ ta hay thỏ nội, gồm các dòng sau đây:
- Thỏ cỏ: Loại thỏ này được nuôi nhiều trong dân, màu lông rất khác nhau như: trắng pha vàng hoặc đen pha trắng, xám loang trắng nhưng hầu hết mắt đen, rất ít con mắt đỏ, đầu to, mõm dài, khả năng sử dụng thức ăn, sinh sản, chống đỡ bệnh tật tốt, đã có hiện tượng đồng huyết, năng suất ngày càng giảm.
- Thỏ dé hay thỏ ré: Là giống thỏ được chọn lọc từ các giống địa phương của Việt Nam, thỏ có mắt đen, thỏ ré thường màu lông không thật thuần khiết khối lượng 2,6–3 kg. Nói chung chúng đa dạng về màu lông: khoang trắng đen, vàng, xám, đầu to, tai dài, bụng to, chân dài, tỷ lệ thịt xẻ khoảng 46%.
Thỏ đen
Thỏ đen: Thỏ này có màu lông và mắt đen tuyền, đầu to vừa phải và mõm nhỏ, cổ không vạm vỡ nhưng thân hình chắc chắn, thịt ngon, lông thỏ ngắn, lưng khum, bụng thon, thân hình chắc chắn, 4 chân dài thô, xương to, thỏ mắn đẻ. Chúng được nuôi nhiều ở Gia Lai. Thỏ dùng làm nền để lai tạo với các giống thỏ ngoại khác để cải thiện năng suất, sản lượng.
Thỏ xám
Thỏ xám: Thỏ có màu lông xám tro hoặc xám ghi, Lông ngắn, màu lông thay đổi từ xám tro đến xám ghi. Riêng phần dưới ngực, bụng, đuôi có màu lông trắng. Mắt đen, đầu to vừa phải, lưng hơi cong, đầu nhỏ, cổ dài, lưng khum, bụng hơi xệ, 4 chân dài, xương to, thân hình không chắc chắn như thỏ đen. Thỏ đẻ khỏe. Thỏ dùng làm nền để lai tạo với các giống thỏ ngoại khác để cải thiện năng suất, sản lượng.
Giống Ong
nhỏ|phải|Nuôi ong ở [[Bến Tre]] Nghề nuôi ong mật cũng tương đối phát triển ở Việt Nam hiện nay, Việt Nam từng trở thành nước đứng thứ hai ở châu Á về xuất khẩu mật ong. Năm 2013 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu mật ong vào Mỹ vượt mốc 30.000 tấn, lượng mật xuất sang Trung Đông, Nhật Bản, EU và một số nước châu Á khác Việt Nam đạt khoảng 34.000 tấn kim ngạch xuất khẩu. Trong số các giống đó có giống ong nội
Ong nội
Ở Việt Nam, vùng trung du miền núi là quê hương của loài ong mật nội địa. Hiện nay giống ong này đang bị giống ong Ý cạnh tranh quyết liệt vì chúng có năng suất cao hơn và thị trường lại chuộng mật ngoại hơn. Ong nội năng suất mật rất thấp, tuy vậy đàn ong nội địa rất chăm chỉ, có thể tận dụng hết thức ăn ở gần. Mật ong Cát Bà là một đặc sản.