✨Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam

Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam

thế=Ngọ Môn - Huế|nhỏ|Ngọ Môn, lối vào [[Hoàng thành Huế, nhìn từ phía điện Thái Hòa nhìn ra|317x317px]] Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc, khuôn phép riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.

Sơ khởi ban đầu

Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không hẳn là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ sáp nhập văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian nên đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Lê Trung Hưng (thế kỷ 16) đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ 19-20). Kiến thức về kiến trúc thời Lý-Trần, vốn được xem là thời kỳ văn minh rực rỡ nhất của Đại Việt, từng sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc, nhưng về di tích cổ thì số còn sót lại rất ít.

Những nền đất còn lại của các ngôi chùa từ thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu dù không trọn vẹn có nhiều chi tiết được thay thế vẫn chứng minh được quy mô và kỹ thuật xây cất của hai triều Lý Trần. Tuy vậy, số công trình cho đến thế kỷ 20 còn lại trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay cũng minh định khá rõ cách thức xây dựng trong dân gian và nơi cung đình, tạo nên "quy thức kiến trúc cổ Việt Nam". Nên lưu ý nhiều giá trị văn hóa kiến trúc của Việt Nam từ trước thời Lê Trung Hưng đã không được tiếp nối, vì thế những quy thức kiến trúc này có thể sẽ không áp dụng cho các kiến trúc của các thời kỳ trước đó.

Kiến trúc cung đình

thế=Điện Thái Hòa|nhỏ|Điện Thái Hòa và sân chầu

Kiến trúc dân gian

Kiến trúc cung đình và dân gian Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên thế giới như lân bang Campuchia.

Nét đặc trưng

thế=Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật được tại Hoàng Thành Thăng Long.|nhỏ|Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long. Thấy rõ kết cấu đấu-củng, lợp ngói âm dương Có ba nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:

  • Dốc mái thẳng, đao cong.
  • Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên (chủ yếu thời Lê, Nguyễn) hoặc là hệ đấu củng (chủ yếu đến hết thời Lý, Trần dần bổ sung hoặc thay thế bằng bảy/kẻ). Cả hai phương pháp tồn tại song song tùy vào trình độ người thợ mà chọn lựa thi công. Hệ đấu-củng tương đối phức tạp, có độ bền cao, về khía cạnh thẩm mỹ thì trau chuốt và đẹp hơn nên yêu cầu tay nghề người thợ cao và tỉ mỉ trong công việc.
  • Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới

Nếu so sánh với quy thức kiến trúc cổ Trung Quốc thời Minh Thanh sẽ thấy được sự khác nhau:

  • Dốc mái võng xuống
  • Đỡ mái hiên chỉ dùng bằng hệ đấu-củng (còn gọi là "con sơn chồng đấu" hoặc "chồng đấu tiếp rui")
  • Cột thanh mảnh, tròn đều

    Mái nhà

    nhỏ|[[Chùa Minh Thành (Gia Lai)]] Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức "tầu đao" làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái.

Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm (long nghê, hay cá chép hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. "Khu đĩ" thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là "vỉ ruồi". thế=Kiến trúc hệ đấu-củng Việt Nam|nhỏ|Kiến trúc hệ đấu-củng Việt Nam. Chùa Keo, Thái Bình Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây Bảy/kẻ hoặc đấu-củng. Bảy/kẻ đây là một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái, khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy, phương pháp sử dụng đơn giản ít cầu kỳ tuy nhiên không được đánh giá cao về thẩm mỹ và độ bền kém hơn so với hệ đấu-củng. Đấu-củng ra đời trước bảy/kẻ được sử dụng nhiều trong kiến trúc Lý-Trần, tương đối phức tạp, trau chuốt và thẩm mỹ đẹp hơn Bảy/kẻ, đặc biệt có độ bền cao nên yêu cầu tay nghề người thợ giỏi, tỉ mỉ trong công việc cái mà ít người thợ Việt hiện nay có thể thực hiện được.

Ngói được sử dụng có thể là ngói âm dương (ngói lưu ly) hoặc ngói hài (ngói vảy):

  • Từ xưa thì ngói âm dương đã gắn liền với các công trình kiến trúc của Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp bất cứ nơi đâu trên đất Việt, từ phố cổ Hội An với những ngôi nhà cổ kính, hay những mái nhà quen thuộc nơi phố xá hay làng quê. Ngói âm dương ra đời tại Việt Nam là một thành quả, một sự sáng tạo của con người trong suốt quá trình lao động miệt mài. Đây là thành quả đáng trân trọng trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng. Nó được sử dụng khá phổ biến trên khắp vùng miền. : Mái ngói cùng đường nét hoa văn chạm khắc nâng niu được xuất hiện từ các tỉnh miền núi phía Bắc, đến miền Trung, miền Nam. Chính mái ngói đã khiến ngôi nhà mang một vẻ đẹp hoài cổ, sang trọng, trở thành một nét đẹp văn hóa trong bản sắc người Việt. Ngói âm dương với ưu điểm độ bền cao, cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông thường được sử dụng cho các công trình hành chính nhà nước hoặc nhà tầng lớp cao, quan lại, kiến trúc tôn giáo.
  • Ngói hài xuất hiện vào khoảng có niên đại TK XIII-XIV đến nay, thường được sử dụng trong kiến trúc dân gian, chi phí thấp, độ bền thường không cao, có nét tương đồng với ngói của người Khmer, Thái Lan.

Cột

Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông. Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.

Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đó là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiến trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.

Chạm khắc

Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ, kiến trúc dân gian Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ.

Thước tầm

Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo "thước tầm", một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ.phải|nhỏ|Tàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, [[chùa Dận, Bắc Ninh]]

Hình ảnh minh hoạ

|Chi tiết dáng cột chuẩn |Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng |Kiến trúc cổ điển Trung Hoa. Lưu ý mái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy

Tên gọi các cấu kiện

nhỏ|504x504px|Vì kèo truyền thống với câu đầu nối hai cột cái (hình trên), chồng rường xếp trên xà nách (giữa), và chi tiết chạm khắc (dưới)|phải thế=Ngói lưu ly (ngói ống, ngói lòng máng, ngói âm dương) Việt Nam khai quật tại Hoành Thành Thăng Long|nhỏ|Ngói lưu ly (ngói ống, ngói lòng máng, ngói âm dương) Việt Nam khai quật tại Hoành Thành Thăng Long

nhỏ|Chạm khắc trên kẻ bảy, [[đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc|phải]]Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:

*Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu. *Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái. **Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên. * là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; **Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. **Đấu củng: bao gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vái trò là bệ đỡ) và "củng" (giống hình khuỷu tay, đóng vài trò là tay đỡ) được dùng để dỡ kết cấu khác bên trên là mái hiên. *Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: **Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; **Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái. *Bảy hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. **Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. **Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: nhỏ|phải|Góc tầu đao mái chùa Hoa Yên trên núi [[Yên Tử. Phía lộ hồi có "vỉ ruồi" che khoảng tam giác chỗ hai mái trước và sau gặp nhau]] Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà. Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà. Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màn và lợp ngói bên trên. Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. thế=ngói hoàng lưu ly Việt Nam|nhỏ|Đầu ngói hoàng lưu ly khai quật được tại hoàng thành Thăng Long. Niên đại thời LêNgói âm dương (ngói lưu ly) Từ ngàn xưa người Việt đã sáng tạo ra ngói âm dương, cấu tạo bao gồm Ngói Dương là tấm lợp nằm ngửa, còn ngói âm là ngói úp xuống ngói dương. Đón mái sẽ là các cặp ngói âm dương diềm** (ngói riềm hoặc ngói diềm, đầu ngói) hay còn được gọi với tên khác như ngói câu đầu hoặc trích thủy, những cặp diềm có hoa văn tinh xảo, họa tiết khắc nổi được tạo nên bởi bàn tay khéo léo của người thợ lành nghề lão luyện, tăng độ thẩm mỹ của mái ngói, cấu tạo đặc biệt vòng nửa vòng úp đã tạo ra tác dụng tạo khoảng trống giữ khí, thông gió cho mái nhà, giúp quá trình thoát nước được dễ dàng chính cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt này mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông. Bên cạnh đó, ngói âm dương có tuổi thọ khá cao, ước tính phải đến 50 năm mới có dấu hiệu xuống cấp. *Ngói mũi hài hay ngói vẩy, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa, thường dùng cho kiến trúc dân gian, nhà ở người tầng lớp thấp, loại ngói thường thấy ở kiến trúc Thái Lan, Khmer, hay lên rêu nhanh trong điều kiện ẩm thấp, mưa gió. Các chi tiết kiến trúc khác:

  • Cửa bức bàn
  • Con tiện
  • Dạ tàu
  • Đầu đao phải|nhỏ|Công trình hai mái, hai đầu hồi bít đốc, [[đình Kim Liên, Hà Nội]] phải|nhỏ|Công trình bốn mái: hai mái chính và hai mái chái ở hai đầu nhà Căn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo: phải|nhỏ|Chùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, [[chùa Keo, Thái Bình]]
  • Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc,
  • Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.
  • Hình thức 8 mái chồng diêm. Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:
  • Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng;
  • Nhà 3 gian;
  • Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 chái;
  • Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 chái;
  • Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 chái.

    Bộ phận trần thiết

    Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấm liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng "cửa bức bàn" bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa "thượng song hạ bản" tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua. Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thế=Ngọ Môn - Huế|nhỏ|Ngọ Môn, lối vào [[Hoàng thành Huế, nhìn từ phía điện Thái Hòa nhìn ra|317x317px]] **Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam** là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất
thế=Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long.|nhỏ|Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long. Thấy rõ
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Hội Kiến trúc sư Việt Nam** là hội nghề nghiệp của các kiến trúc sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam, là một hội thành viên của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
**Vần luật trong kiến trúc**, còn gọi là **nhịp điệu kiến trúc**, là một trong những quy luật bố cục không gian kiến trúc cơ bản. Vần luật trong kiến trúc là sự lặp đi
**Quan hệ Việt Nam - Mông Cổ** là mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mông Cổ. Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán tại Ulaanbaatar và Mông Cổ cũng đã thiết
phải| Đền Parthenon ở Athens, [[Hy Lạp]] **Kiến trúc** là một ngành nghệ thuật và khoa học về tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Kiến
nhỏ|Tái hiện Lễ sắc phong [[Hoàng thái hậu thời Lê sơ ở Việt Nam]] **Cổ phong** (chữ Hán: 古風) là một thuật ngữ chỉ nếp xưa, phong cách cổ, những nét đẹp tinh hoa thời
**Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam**, phiên hiệu quân sự **Binh đoàn 18**, tên thương mại là **Vietnam Helicopters** (**VNH**), là một doanh nghiệp quốc phòng, an ninh trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
Thảm thực vật rừng ở đai cao 1000m thuộc xã Mường Khoa, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, Việt Nam Các đặc điểm của rừng như thành phần loài cây, cấu trúc sinh thái, năng
**Đà Lạt** là phường may mắn sở hữu nhiều di sản kiến trúc giá trị, ví dụ như bảo tàng lưu trữ kiến trúc thuộc địa thế kỷ XX,... Từ một đô thị nghỉ dưỡng
**Nhà Quốc hội** hay **Tòa nhà Quốc hội Việt Nam**, còn có tên gọi khác là **Hội trường Ba Đình mới**, là trụ sở làm việc và nơi diễn ra các phiên họp toàn thể
**Ngô Viết Thụ** (17 tháng 9 năm 19269 tháng 3 năm 2000) là một kiến trúc sư người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến
**Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh** (_, thường được gọi tắt là **UAH**)_ là trường đại học chuyên ngành, giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực đào tạo và nghiên
nhỏ|[[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] nhỏ|[[Chùa Dơi, Sóc Trăng]] nhỏ|[[Chùa Cầu, Hội An]] nhỏ|[[Chùa Phước Điền, An Giang]] **Chùa Việt Nam** (gọi thông tục là _Chùa chiền_) là các ngôi chùa trên lãnh thổ Việt Nam.
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Hoàng Thúc Hào** (1971), hiện là Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ông tốt nghiệp Khoa Kiến trúc - Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội năm 1992, tốt nghiệp
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
Phương đình Nhà thờ kết hợp phong cách kiến trúc Đông-Tây **Nhà thờ chính tòa Phát Diệm** (thường gọi là **Nhà thờ đá Phát Diệm**) là một quần thể nhà thờ Công giáo rộng khoảng
Kiến trúc cổng thành Hà Nội thời Nguyễn, với bệ đá từ hoàng thành Thăng Long thời Lê Trung Hưng Kiến trúc cổng kinh thành Huế thời Nguyễn Kiến trúc cổng hoàng thành Huế thời
**Chùa Bối Khê** (tên chữ: _Đại Bi tự_) là ngôi chùa cổ tại xã Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội. Ngôi chùa nổi tiếng là một trong số ít các chùa còn lưu lại những
Tòa nhà chính của Trường [[Đại học Quốc gia Moskva|Trường Đại học Quốc gia Moskva]] **Kiến trúc Stalin** (tiếng Nga: Сталинский стиль, phiên âm: _Stalinskiy stil′)_ hay **phong cách** **Cổ điển Xã hội chủ nghĩa**
**Lá cờ của Việt Nam cộng hòa** được giới thiệu lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 6 năm 1948, sau đó được sử dụng làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam và Việt
Cty TNHH Tư vấn Quy Hoạch Kiến Trúc Nam Đảo hiện là công ty tư vấn quy hoạch xây dựng, thiết kế kiến ​​trúc, nội thất và tư vấn dự án chuyên nghiệp tại Nam
Cty TNHH Tư vấn Quy Hoạch Kiến Trúc Nam Đảo hiện là công ty tư vấn quy hoạch xây dựng, thiết kế kiến ​​trúc, nội thất và tư vấn dự án chuyên nghiệp tại Nam
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Đài Truyền hình Việt Nam**, được biết đến rộng rãi với tên gọi **VTV** (viết tắt của từ ), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Chế định Chủ tịch nước Việt Nam** qua các bản Hiến pháp là tổng thể các quy định trong các bản Hiến pháp Việt Nam về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn
**Cục Viễn thám Quốc gia** (tiếng Anh: _National Remote Sensing Department_, viết tắt là **NRSD**) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Opera Việt Nam** đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Công an nhân dân Việt Nam** là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng
phải|nhỏ|Cải cách ruộng đất hoàn tất, nông dân đốt văn tự cũ **Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam** là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Internet tại Việt Nam** được coi như chính thức bắt đầu từ cuối năm 1997. Ngày 19 tháng 11 năm 1997 là ngày đầu Việt Nam được hòa vào mạng Internet toàn cầu. ## Lịch
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
Việt Nam đã nhận biết các dấu hiệu đại dịch COVID-19 và có các biện pháp kiểm soát từ khá sớm. Đầu tháng 1 năm 2020, trên một số tờ báo lớn tại Việt nam
**Cá chết hàng loạt ở Việt Nam 2016** hay còn gọi là **Sự cố Formosa** đề cập đến hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh) bắt đầu từ ngày
**Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam** là cơ quan cấp cao nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khoảng 350 Ủy viên, thay phiên lựa chọn với nhiệm kỳ 5
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Bộ Xây dựng** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng và giao thông theo quy định của pháp luật. Tiền thân của bộ
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm