✨Kiến trúc Đà Lạt
Đà Lạt là phường may mắn sở hữu nhiều di sản kiến trúc giá trị, ví dụ như bảo tàng lưu trữ kiến trúc thuộc địa thế kỷ XX,... Từ một đô thị nghỉ dưỡng do người Pháp xây dựng, qua hơn một thế kỷ, Đà Lạt ngày nay đã trở thành một phường du lịch nổi tiếng với hơn 200 nghìn người dân, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Khánh Hòa và vùng Tây Nguyên. Lịch sử phát triển quy hoạch đô thị Đà Lạt nửa đầu thế kỷ XX dường như gắn liền với sự phát triển nghệ thuật quy hoạch đương đại của thế giới. Từ chương trình xây dựng của Toàn quyền Paul Doumer, đồ án tổng quát áp dụng phương pháp quy hoạch phân khu chức năng của thị trưởng đầu tiên Paul Champoudry, đến những bản quy hoạch của các kiến trúc sư Hébrard năm 1923, Pineau năm 1933, Mondet năm 1940 và Lagisquet năm 1943, Đà Lạt luôn hiện lên như một thành phố nghỉ dưỡng miền núi kiểu mẫu với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Tuy chứa đựng những quan điểm đôi khi khác biệt, nhưng các đồ án quy hoạch thành phố luôn mang tính kế thừa lẫn nhau và được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế từng thời kỳ. Với sự nhất quán trong việc thực thi ý tưởng xây dựng một thành phố cảnh quan, các kiến trúc sư người Pháp đã tạo nên những đặc điểm nổi trội của kiến trúc đô thị Đà Lạt – như quy hoạch đô thị theo bố cục tự do, hạn chế can thiệp vào địa hình, các con phố uốn lượn theo đồi núi và thung lũng, những phân khu chức năng bố trí linh hoạt... – ít có thể thấy ở những thành phố khác của Việt Nam.
Với lịch sử hơn 100 năm, Đà Lạt tuy không phải một thành phố cổ kính nhưng cũng đã xây dựng được cho mình không ít những công trình kiến trúc độc đáo, đa dạng về thể loại và phong phú về phong cách. Những công trình kiến trúc xuất hiện dưới thời thuộc địa đều có cơ sở thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương và điều kiện sinh hoạt của cư dân. Tuy Đà Lạt mang dấu ấn của các nhà kiến trúc người Pháp, nhưng những kiến trúc sư này khi sáng tác, thiết kế các công trình cũng đã chịu ảnh hưởng của đặc điểm thiên nhiên, đặc biệt là những điều kiện về khí hậu, thời tiết và cảnh quan môi trường nơi đây. Trải qua một thời gian dài xây dựng thành phố, phong cách kiến trúc của các công trình đã có nhiều thay đổi, từ phong cách kiến trúc thuộc địa tiền kỳ đơn giản, đến phong cách Tân cổ điển, phong cách kiến trúc địa phương Pháp, và phong cách kiến trúc hiện đại. Bên cạnh các công trình kiến trúc Pháp, kiến trúc Đà Lạt còn trở nên đa dạng hơn nhờ những ngôi chùa, thiền viện mang đậm nét Á Đông, những công trình mang nét kiến trúc của cư dân bản địa và những công trình do các kiến trúc sư Việt Nam thiết kế. Dù chịu ảnh hưởng bởi nhiều phong cách kiến trúc khác nhau, nhưng hầu hết các công trình nổi tiếng của Đà Lạt đều hòa hợp với thiên nhiên, tạo nên những nét chấm phá trong bức tranh cảnh quan của phường.
Tuy vậy, sau một thời gian dài phát triển thiếu quy hoạch và buông lỏng quản lý, kiến trúc đặc sắc của Đà Lạt đã chịu nhiều biến dạng. Những ngôi nhà xây cất trái phép, không phù hợp với quy hoạch, những công trình quy mô lớn phá vỡ cảnh quan, những ngôi nhà ống, nhà hộp xuất hiện dày đặc ở khu vực trung tâm, những khu rừng nội ô bị tàn phá... tất cả đã khiến bộ mặt kiến trúc của thành phố trở nên nhem nhuốc. Không ít những công trình kiến trúc giá trị chịu sự tàn phá của thời gian mà không có được sự bảo tồn chu đáo, nhiều ngôi biệt thự cổ bị bỏ hoang hoặc biến thành chung cư, nhà trọ. Năm 2010, chính quyền tỉnh Lâm Đồng thông báo quyết định mời một nhóm kiến trúc sư thuộc Viện Thiết kế quy hoạch đô thị Paris và một công ty thiết kế quy hoạch khác của Pháp thực hiện quy hoạch lại Đà Lạt.
Lịch sử quy hoạch đô thị
Đồ án quy hoạch đầu tiên
Năm 1897, Toàn quyền Paul Doumer quyết định xây dựng một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên, nơi nghỉ dưỡng dành cho những người Pháp tại Đông Dương. Khi còn ở Hà Nội, Paul Doumer đã cho thiết lập một "Chương trình xây dựng đầu tiên cho Đà Lạt" với chức năng: Đà Lạt sẽ trở thành nơi nghỉ dưỡng cho những kiều dân và công chức với đường giao thông thuận lợi và dễ dàng; Đà Lạt là một trung tâm hành chính và doanh trại quân đội quan trọng, sẽ quy tụ một phần quân đội dự bị để được huấn luyện có đầy đủ sức khỏe, phòng khi cần đến. Theo dự định của Paul Doumer khi đó, Đà Lạt sẽ là một thành phố hoàn chỉnh với đầy đủ các công trình kiến trúc, công sở, trường học, doanh trại quân đội... Trong bản đồ quy hoạch, các công trình quan trọng như dinh Toàn quyền, sở cảnh sát, tòa công sứ, khu công chính, bệnh viện, nhà ở công chức, doanh trại quân đội, khu giải trí, trường học... đều đã được bố trí cụ thể. Nguồn nước được dự trù cho một đô thị 10 ngàn dân và có thể lên tới 40 ngàn trong tương lai. Điện sẽ được cung cấp từ một nhà máy thủy điện công suất 2.760 mã lực ở vùng thác Ankroet. Những nét chính của đô thị tương lai được vạch theo các con đường mòn sẵn có của cư dân bản địa. Thành phố được bố trí ở phía nam dòng suối Cam Ly, còn phần phía bắc dành cho doanh trại quân đội. Ở gần trung tâm thành phố, trung tâm thương mại và chợ sẽ được thiết lập, bên cạnh các khách sạn và khu giải trí. Theo dự định của Paul Champoudry, các con đường chính của thành phố sẽ được thiết kế với bề rộng 20 mét, các đường hạng hai sẽ rộng 16 mét, còn các nhánh đường phụ rộng 12 mét. Phần lớn đồ án này đã được thực hiện và hình thành nên những nét chính của đô thị Đà Lạt ngày nay. Kiến trúc sư đặc biệt quan tâm tới việc bảo vệ cảnh quan và bố cục không gian thẩm mỹ của thành phố. Trong đồ án, ý tưởng xuyên suốt của Ernest Hébrard là "thành phố trong cây cỏ và cỏ cây trong thành phố", Đà Lạt sẽ là một đô thị sinh thái vắng bóng các ống khói công nghiệp. Trục đường xương sống kéo dài từ nhà ga xe lửa tới thác Cam Ly, dựa theo đường đỉnh của địa hình, ngày nay là các tuyến đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Trần Phú và Hoàng Văn Thụ. Đứng trên tuyến đường này nhìn về phía bắc sẽ thấy một quang cảnh ấn tượng với hồ Xuân Hương, đồi Cù, một cánh rừng trải dài và núi Lang Biang ở cuối phía xa. Phía nam suối Cam Ly, các đường Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Phan Chu Trinh, Hoàng Văn Thụ... là khu vực biệt thự dành cho người Pháp, được phân lô thành ba hạng: từ 2.000 m² đến 2.500 m², từ 1.000 m² đến 1.200 m² và từ 500 m² đến 600 m². Khu dân cư người Việt được bố trí một phần ở phía đông khu trung tâm, còn phần lớn tập trung quanh khu vực làng Việt Nam cũ phía hạ lưu hồ.
Đồ án của Pineau
Dự kiến Đà Lạt trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương đã không thành hiện thực, đồ án của Ernest Hébrard với tham vọng quá lớn trở nên không thực tế. Mặt khác, sau gần 10 năm thực hiện đã có những vấn đề phát sinh. Hồ Xuân Hương trở thành trung tâm của thành phố khiến việc phân lô biệt thự phía bắc hồ đe dọa làm hỏng tầm nhìn về phía Lang Biang. Khu vực dành cho người Pháp và người Việt không còn đáp ứng đủ nhủ cầu. Ngoài dự kiến của Ernest Hébrard, từ thập niên 1930, nhiều khu biệt thư như Saint Benoit, Cité Decoux, Cité Bellevue... hay các ấp Hà Đông, Nghệ Tĩnh... có khuynh hướng phát triển về hướng bắc.
Khác với đồ án của Ernest Hébrard, kiến trúc sư Louis Georges Pineau đưa ra một quan niệm thực tế hơn: Đà Lạt trước mắt chưa là thủ đô hành chính hay thủ đô mùa hè của Liên bang Đông Dương, chương trình phát triển thành phố vì thế cần được giới hạn lại. Kiến trúc sư Mondet đã đề cập đến bài toán khó nhất cần giải quyết trong các đề án quy hoạch Đà Lạt: xây dựng và phát triển thành phố, nhưng vẫn bảo vệ được cảnh quan.
Mondet đề nghị không kéo dài thành phố, thay vào đó tổ chức họp nhóm lại, mở rộng bằng cách ưu tiên sử dụng những lô đất gần trung tâm và được phát triển chung quanh một trục. Những khoáng địa dành cho tương lai chiếm một phần quan trọng ở ngay trung tâm đô thị.
Đà Lạt đầu thập niên 1940 đã là một đô thị xinh đẹp, hài hòa với những viễn cảnh rộng rãi và các khu vực được xây cất hoàn hảo. Nhưng Thế chiến thứ hai bùng nổ khiến dòng người tìm đến Đà Lạt ngày một đông, thành phố trở nên chật hẹp bởi sự phát triển quá độ và thiếu tổ chức, một vài khu dân cư được dựng lên gấp rút và tạm bợ.
Đồ án của Lagisquet
Ngày 27 tháng 4 năm 1943, đồ án chỉnh trang Đà Lạt của kiến trúc sư Jacques Lagisquet cùng nhóm nghiên cứu được Toàn quyền Jean Decoux chấp thuận và đưa vào áp dụng. "Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt" được nghiên cứu theo những định hướng tổng quát, từ đó ban hành các chương trình, quy chế cụ thể có tính pháp lý để thực hiện và phát triển thành phố một cách hài hòa hợp lý, từ tổng thể đến các chi tiết.
Trung tâm hành chính được tập trung lại theo trục chính, các cơ quan quan trọng được bố trí quanh hồ Xuân Hương: Văn phòng Toàn quyền nằm ở bờ đông, vị trí khách sạn Công đoàn ngày nay, Tòa thị chính ở bờ bắc và phía nam sẽ là Dinh Toàn quyền. Trung tâm thương mại của thành phố được tách thành hai khu vực: Khu thương mại người châu Âu trên đường Trần Phú, gần bưu điện hiện nay, còn khu Hòa Bình và đường Nguyễn Chí Thanh dành cho hoạt động thương mại của người Việt. Vấn đề khu dân cư người Việt – cho đến khi đó chỉ được bố trí ở những khu nhà tạm, khu vực phụ của thành phố – được giải quyết bằng nhiều phương án, dựa trên tính chất nghề nghiệp của người dân. Trước tiên, một khu thương mại với những dãy nhà phố nằm quây quần quanh chợ, tiếp đến khu biệt thự song lập và nhà liên kế dành cho công chức và thợ thủ công, những người vì công việc vẫn cần được bố trí gần trung tâm thành phố.
Về chức năng đô thị, đồ án Lagisquet đã làm rõ và nổi bật các đặc tính riêng của Đà Lạt: Trung tâm hành chính trung ương, thành phố nghỉ dưỡng, thành phố học đường, trung tâm văn hóa, du lịch... Kiến trúc sư Jacques Lagisquet đã giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa tính tập trung của đô thị và tính tản mát của một thành phố vườn. Đà Lạt thời kỳ này bước vào giai đoạn cực thịnh của thời Pháp thuộc, nhiều công trình công cộng và tôn giáo tiếp tục xuất hiện, các ngôi chùa Linh Sơn, Linh Quang với nét kiến trúc Á Đông làm phong phú thêm kiến trúc cảnh quan của thành phố. Nhằm ổn định cho một bộ phận di dân đang xuất hiện ngày càng đông, những ấp nông nghiệp mới như Thánh Mẫu, Tùng Lâm, Thái Phiên, Đa Thiện... đã được hình thành. Trong khi chờ đợi thiết lập một đồ án quy hoạch mới, chính quyền tiếp tục áp dụng đồ án của Jacques Lagisquet cùng một "Chương trình địa dịch", nghiên cứu biên soạn lại phù hợp với điều kiện thực tế để giải quyết nhu cầu xây dựng và đảm bảo tính liên tục của quyền tư hữu đất đai, bất động sản. Việc xây dựng các công trình công cộng, các sơ sở tôn giáo, quân sự... được tính toán dựa trên những phần đất công sản còn lại. Tuy vậy, bên cạnh các công trình quân sự, Đà Lạt thời kỳ này cũng có thêm một vài công trình mới cùng các nhà hàng, khách sạn mọc lên ở trung tâm thành phố. Vào năm 1967, vấn đề môi sinh của Đà Lạt được các học giả đương thời lên tiếng báo động. Năm 1973, một đề án quy hoạch chỉnh trang Đà Lạt được thiết lập, trong đó nhấn mạnh đến các biện pháp bảo vệ môi sinh cho thành phố, đặc biệt ở khu vực lưu vực của hồ Xuân Hương. Cảnh quan đô thị Đà Lạt giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng xấu bởi nạn xây cất bất hợp pháp. Cùng với một số quan chức thế lực chiếm dụng đất, nhiều thương phế binh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng đòi quyền lợi, xây dựng những ngôi nhà tạm bợ ở ngay trung tâm thành phố, một số người khác chiếm đất làm vườn ở những khu vực như ấp Ánh Sáng, khu Thao Trường.
Giai đoạn từ 1975 đến ngày nay
Quang cảnh thành phố Đà Lạt năm 2009.
Sau năm 1975, thành phố Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng, có ranh giới hành chính mở rộng đến 417 km². Dân số thành phố cũng tăng lên mạnh mẽ, từ 85.833 người năm 1975 lên 160.663 người năm 1999. Tháng 3 năm 1985, kiến trúc sư Trần Ngọc Chính cùng Đoàn quy hoạch trung ương tới Đà Lạt, hợp tác cùng các cơ quan địa phương thiết lập "Luận chứng kinh tế kỹ thuật quy hoạch và cải tạo thành phố Đà Lạt". Cùng với khai thác rừng, việc mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp tiếp tục ảnh hưởng tới môi sinh và cảnh quan của thành phố. Cho tới đầu thập niên 1990, nhiều đồ án quy hoạch được thiết lập nhưng không một đồ án nào đủ thuyết phục để được áp dụng. Nhiều cụm rừng thông trong thành phố bị chặt phá để xây dựng hoặc phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Các hồ nước như hồ Xuân Hương, hồ Than Thở bị bồi lắng nghiêm trọng hơn, còn các khu vực bất kiến tạo bị chiếm dụng xây cất bất hợp pháp. Bố cục thành phố trở nên thiếu cân đối bởi sự tập trung quá mức vào khu trung tâm. Năm 2010, Bộ Xây dựng cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã điểu chỉnh cục bộ "Quy hoạch chung Thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2020" với nội dung chính: Di dời các cơ sở công nghiệp ô nhiễm và hoạt động kém hiệu quả ra ngoài trung tâm thành phố, chuyển vị trí một số cơ quan, công trình công cộng và chuyển chức năng một số khu vực để tạo quỹ đất xây dựng trung tâm hành chính tập trung, trung tâm văn hóa thanh thiếu niên, công trình công cộng, thương mại dịch vụ và dân cư đô thị. Cũng trong năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng thông báo ý định mời Viện Thiết kế quy hoạch đô thị Paris cùng một công ty thiết kế quy hoạch uy tín của Pháp quy hoạch lại thành phố Đà Lạt.
Kiến trúc cảnh quan
Thành phố Đà Lạt được xây dựng trên một vùng cao nguyên với cảnh quan tươi đẹp và khí hậu ôn hòa. Trên khung nền thiên nhiên, các công trình của con người in dấu tạo nên một khung cảnh đô thị đặc sắc và độc đáo. Địa hình nhấp nhô mềm mại của cao nguyên, không gian mặt nước của các suối hồ, không gian kiến trúc và di sản kiến trúc Pháp cùng màu xanh của các rừng thông, thảm cỏ là những yếu tố chính tạo nên cảnh quan đặc thù của thành phố. Địa hình Đà Lạt chia cắt không gian một cách mạnh mẽ thành những mảng riêng biệt, rõ nét và tạo nên những lớp cảnh quan đa dạng. Khi kiến thiết thành phố, các kiến trúc sư đã tôn trọng nguyên tắc bảo vệ địa hình tự nhiên, không san lấp để tạo những không gian bằng phẳng mà dựa vào địa hình để xây dựng lên các công trình kiến trúc. Những ngọn đồi cao, tầm nhìn đẹp được lựa chọn để xây dựng các dinh thự, công trình tôn giáo mang dáng vẻ uy nghiêm, trang trọng. Với khuôn viện rộng lớn bao trọn cả ngọn đồi, các công trình kiến trúc này là những quần thể kiến trúc quy mô nằm nép mình vào thiên nhiên, ẩn hiện trong màu xanh của rừng thông, tạo nét chấm phá trong bức tranh toàn cảnh. Tương tự, các ngôi biệt thự kiến trúc Pháp được sắp xếp theo sát những đường đồng mức để bám lấy địa hình, xuất hiện với mật độ rất thấp và có khuôn viên rộng rãi, hòa nhập vào thiên nhiên.
Trong những thung lũng xen giữa các ngọn đồi của Đà Lạt, rất nhiều những dòng suối nhỏ chảy qua và quan trọng nhất trong số đó là suối Cam Ly. Từ những bản quy hoạch đầu tiên cho tới ngày nay, việc sắp xếp bố cục thành phố được thực hiện phần lớn dọc theo hai bờ của con suối này. Vào năm 1919, hồ Xuân Hương hình thành nhờ một đập nước được xây dựng trên dòng suối Cam Ly và đến năm 1935, hồ hoàn chỉnh như ngày nay sau khi xây xong đập Cầu Ông Đạo. Kiến trúc sư Ernest Hébrard đã tạo tiền đề quan trọng cho cảnh quan thành phố khi đề xuất xây dựng một chuỗi hồ nhân tạo trong đồ án quy hoạch năm 1923. Từ thời kỳ đó cho tới ngày nay, việc tạo lập các hồ nước vẫn được tiến hành đều đặn và gắn liền với lịch sử phát triển của thành phố. Các công trình hồ nhân tạo không chỉ đem lại nguồn nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất nông nghiệp, mà còn tô điểm cho cảnh hoang sơ và là những trung tâm bố cục để sắp xếp các phân khu chức năng. Thành phố Đà Lạt được ví như một bảo tàng về kiến trúc châu Âu với những công trình kiến trúc phong phú và độc đáo. Ngoài trừ hai điểm nhấn chủ yếu Nhà thờ chính tòa và Trường Cao đẳng Sư phạm, các công trình kiến trúc của thành phố có độ cao vừa phải, hòa hợp với thiên nhiên, tạo nên bức tranh đô thị hài hòa và độc đáo.
Công trình kiến trúc
Kiến trúc công cộng
[[Viện Sinh học Tây Nguyên, trước kia là tu viện Dòng Chúa cứu thế, xây dựng từ năm 1948 đến năm 1952.]] Từ khi ra đời, Đà Lạt đã sớm trở thành một thành phố du lịch danh tiếng và cũng từng có những khoảng thời gian giữ vai trò hành chính quan trọng. Vì thế, trong thành phố ngày nay có thể thấy không ít những công trình công cộng và công sở mang kiến trúc giá trị, phần nhiều được xây dựng dưới thời thuộc địa. Trong số đó, nổi bật hơn cả là các công trình: ga Đà Lạt, Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt, Viện Sinh học Tây Nguyên và chợ Đà Lạt. Một điểm khác biệt với những thành phố khác, nhiều cơ quan hành chính của Đà Lạt cũng như tỉnh Lâm Đồng được đặt trong các ngôi biệt thự Pháp xinh đẹp, vốn xuất hiện rất nhiều trong khắp thành phố.
Nằm trên một ngọn đồi cao phía bắc thành phố, Viện Sinh học Tây Nguyên vốn là tu viện Dòng Chúa cứu thế, xây dựng từ năm 1948 và hoàn thành năm 1952. Con đường chính dẫn vào viện dài hơn 500 mét, từ phía đường Dankia xuyên qua rừng thông, chạy dọc phía sau công trình rồi vòng tới khoảng sân trước. Viện Sinh học Tây Nguyên mang phong cách kiến trúc hiện đại nhưng vẫn có bố cục hình khối đối xứng kinh điển. Quy mô của tòa nhà tương đối đồ sộ, gồm bốn tầng và một tầng hầm nằm ở phía sườn đồi thấp. Mặt ngoài công trình phần lớn được ốp đá, đem lại một cảm giác rất kiên cố và bề thế. Toàn bộ công trình gồm ba tầng: Tầng hầm dùng làm kho bản đồ, tầng trệt dành cho các phòng hành chính và tầng hai là các phòng kỹ thuật. Ngoài ra, còn một tầng áp mái được dùng làm kho phụ. Mặt bằng tòa nhà ảnh hưởng bởi kiến trúc cổ điển với hai trục đối xứng và tổ hợp theo kiểu hành lang giữa. Ở tầng trệt, tiền sảnh và phòng tiếp khách chiếm vị trí trung tâm, kế đó tới hai dãy phòng hành chính nằm hai bên hành lang, kết thúc bởi hai khối cầu thang bố trí đối xứng hai đầu. Trên tầng hai, các phòng kỹ thuật chiếm một không gian rộng lớn, được trang trí hệ vòm cuốn tại các bước nhịp theo phong cách kiến trúc Roman. Trên mặt đứng của công trình, những phân vị ngang được thể hiện rõ nét. Dưới tầng trệt, mảng tường lớn chính giữa được xây bằng gạch đất nung với năm cửa sổ vòm kích thước lớn.
[[Ga Đà Lạt|Nhà ga xe lửa Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, ngày nay trở thành một địa điểm du lịch.]] Nhà ga xe lửa Đà Lạt được khởi công xây dựng năm 1932 và hoàn thành vào năm 1938, là nhà ga cuối của tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt. Công trình do kiến trúc sư Revéron thiết kế với khái niệm sáng tác theo hình thức kiến trúc Anglo-Norman mới, chịu nhiều ảnh hưởng từ trào lưu kiến trúc hiện đại. Kiến trúc sư Moncet, người giám sát công trình, sau đó đã hoàn chỉnh thêm một số chi tiết của hồ sơ thiết kế. Ga Đà Lạt có chiều dài 66 mét, chiều rộng 11,5 mét và chiều cao đại sảnh 11 mét, nằm trên một khu vực bằng phẳng, rộng rãi cạnh đường Quang Trung. Mặt bằng công trình được tổ chức trên nguyên tắc đối xứng qua một trục vuông góc với mặt tiền, gồm một sảnh lớn 10 x 37 mét chính giữa và các phòng phụ nối dài sang hai bên. Nhìn bề ngoài, chi tiết gây ấn tượng nhất của nhà ga là hệ thống mái với ba chóp mái tiếp nối liền nhau chạy suốt từ đỉnh xuống bờ mái đón ở lối vào sảnh chính. Vuông góc với ba mái ngang này là hai mái chạy dọc về hai phía, bẻ góc ở phần rìa mái. Một hệ thống diềm mái bao quanh công trình, nối liền với hai mái đón phía trước. Tương ứng với ba chóp mái là ba cửa sổ với nhiều ô kính nhỏ, riêng chóp mái giữa còn trang trí một đồng hồ và dòng chữ DALAT khá lớn. Kiến trúc, kích thước và cách bố trí của ga Đà Lạt có nhiều điểm tương đồng với nhà ga thành phố Deauville, vùng Normandie, miền Bắc nước Pháp. Do cuộc chiến tranh Việt Nam, tuyến đường sắt Tháp Chàm–Đà Lạt ngừng hoạt động vào năm 1972. Tuy vậy, từ năm 1991, nhà ga cùng với đoạn đường sắt Đà Lạt–Trại Mát được khôi phục để phục vụ hoạt động du lịch. Ga Đà Lạt được xem như một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất của thành phố, và cũng nằm trong số những nhà ga đẹp nhất Việt Nam.
Kiến trúc tôn giáo
Đà Lạt vốn là một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hầu hết những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Dù tuổi đời chỉ hơn một thế kỷ, nhưng Đà Lạt đã xây dựng được cho mình hàng trăm ngôi chùa, thiền viện, nhà thờ và tu viện nằm rải rác khắp thành phố. Nhìn chung, kiến trúc các cơ sở tôn giáo tại Đà Lạt không có sự khác biệt lớn so với những vùng miền khác. Tuy vậy các công trình ở đây vẫn có được nét riêng thông qua việc tổ chức không gian kiến trúc và sự phối trí hài hòa giữa thiên nhiên với công trình nhân tạo. [[Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, một quần thể kiến trúc Phật giáo nằm bên hồ Tuyền Lâm, khánh thành năm 1994.]] Một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng nhất của Đà Lạt là chùa Linh Sơn, nằm ở số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi. Ngôi chùa này là một quần thể kiến trúc bao gồm nhiều hạng mục lớn nhỏ phân bố trong một khoảng không gian chừng 4 hecta, trên một ngọn đồi cao không xa trung tâm thành phố. Chùa Linh Sơn có hai lối vào, một lối từ phía ngã ba đường Bùi Thị Xuân, một lối gồm những bậc thang nhỏ dẫn từ chân đồi lên tới khoảng sân tiền điện. Tòa chính điện gồm hai ngôi nhà nối liền nhau theo hình chữ Đinh. Không xa bên phải là một tòa bảo tháp hình bát giác, phía sau là Tổ đường thờ Bồ Đề Đạt Ma, cùng chư hương linh tăng sỹ và Phật tử. Hai bên lối vào tiền sảnh trang trí hai tượng rồng nằm uốn khúc, há miệng. Bốn trụ lớn trước chính điện tạo thành ba cửa vào, phía trên là một mảng trang trí hoa văn hình chữ Vạn cách điệu. Bên phải tiền sảnh đặt tượng Hộ pháp Vi Đà, bên trái đặt tượng Tiêu Diện Đại Sỹ. Nằm trên núi Phụng Hoàng cạnh hồ Tuyền Lâm, Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt được Hòa thượng Thích Thanh Tứ khởi lập vào năm 1993 và hoàn thành vào năm 1994. Công trình là một quần thể kiến trúc rộng lớn, tọa lạc trên một khoảng không gian 24 hecta, được chia làm bốn khu vực: Khu ngoại viện, khu tịnh thất hòa thượng, khu nội viện tăng và khu nội viện ni. Từ phía hồ Tuyền Lâm, một con đường dốc quanh co giữa rừng thông, qua ba cổng với 140 bậc thang đá dẫn đến chính điện. Tòa chính điện là một công trình kiến trúc trang nhã, rộng 192 mét vuông, mái kép, lợp ngói men vàng. Không như những ngôi chùa khác, phần nóc mái chỉ trang trí một biểu tượng bánh xe chuyển pháp luân, còn các đầu đao cong vút lên mềm mại, hoàn toàn vắng bóng những trang trí long, lân, quy, phượng. Bên trong, giữa điện thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni cao 2 mét, tay phải cầm cành hoa sen. Chung quanh phía trên chính điện là những bức phù điêu chạm khắc tám tướng thị hiện của đức Phật và các bao lam, án thờ bằng gỗ được chạm khắc công phu. Bao quanh tòa chính điện là những công trình tham vấn đường, phòng trưng bày, nhà khách, thư viện, nhà tổ và các lầu chuông, gác trống, xen giữa bởi những lối đi nhỏ rợp bóng mát. Trong khuôn viên khu ngoại viện còn có hồ Tĩnh Tâm, đồi Thanh Lương, nhà khách nữ vãng lai và phía sau là điểm tới của hệ thống Cáp treo Đà Lạt. Tuy vậy, phải đợi đến những thập niên từ 1930 tới 1960, các nhà thờ và tu viện có kiến trúc quy mô mới bắt đầu xuất hiện. Nhà thờ chính tòa Đà Lạt được khởi công xây dựng vào năm 1931, tới ngày 25 tháng 1 năm 1942 mới chính thức được khánh thành. Công trình mang kiến trúc nhà thờ miền Bắc nước Pháp với quy mô khá đồ sộ, chiều dài 65 mét, nơi rộng nhất 14 mét và tòa tháp chuông cao 47 mét. Được xây dựng trên một chỏm đồi thấp nên nền đất gian cung Thánh của nhà thờ cao hơn phần nền đất phía tháp chuông, vì thế lối vào cửa được tạo bởi những bậc thang bộ ở chính giữa và hai đường vòng lên đối xứng hai bên. Tháp chuông được xây phía trên chính lối vào, đỉnh mái mang hình cây thánh giá, phía trên gắn một mũi tên gió hình con gà bằng đồng. Trên tầng áp mái của gian cung Thánh, các cửa sổ trang trí bởi 70 tấm kính màu. Tường nhà thờ còn được gắn các bức phù điêu với kích thước 1 x 0,8 mét do nhà điêu khắc Xuân Thi thể hiện. Lối vào thánh đường được che phủ bởi một mái phụ, hai lối đi lên từ hai phía với những bậc thang gợi đến nét kiến trúc nhà sàn của người Thượng. Tường nhà thờ trang trí nhiều cửa sổ nhỏ sâu vào bên trong, phần chân tường cho tới bệ cửa xây bằng đá chẻ theo phong cách kiến trúc Normandie. Các cửa sổ cũng như cửa sổ mái tạo bởi những tấm kính màu, giúp không gian bên trong cung Thánh lung linh và huyền ảo. Phía sau nhà thờ còn ba dãy nhà ba tầng của tu viện Dòng nữ tu Bắc Ái. Những ngôi trường xây dựng giai đoạn sau do các kiến trúc sư người Việt thiết kế thường có đường nét thanh mảnh hơn và mang dáng dấp hiện đại. Trường Trung học Yersin có kiến trúc độc đáo hiếm thấy, ảnh hưởng bởi hình thức kiến trúc tân cổ điển. Ở mặt đứng tầng trệt, cứ mỗi bước cột lại có một vòm cung tròn xây bằng gạch đất nung với tỷ lệ hài hòa, trong khi đó các tầng lầu được trang trí bởi hàng cột trắng ghép từng đôi, tất cả tạo nên vẻ đẹp thanh thoát cho toàn khối nhà. Những nét cách tân còn thể hiện ở phần mái dốc, đuôi mái được bẻ góc cùng hệ thống cửa sổ mái. Công trình được thiết kế theo hình thức kiến trúc kết hợp, có thể tìm thấy những nét kiến trúc cổ điển xen lẫn những nét kiến trúc hiện đại. Khối nhà lớp học được thiết kế hai tầng, tổ hợp theo kiểu hành lang bên, nằm trải dài song song với đường Huyền Trân Công Chúa. Tường ngoài tầng trệt của một khối được ốp đá với những cửa sổ hình cung gãy, các tầng trên có tường xây gạch và cửa sổ ô vuông. Sự kết hợp giữa nét thô giáp bên dưới và vẻ tinh tế phía trên này là một đặc trưng của kiến trúc Phục Hưng. Trước đây, Couvent des Oiseaux là một ngôi trường dành cho con gái những gia đình giàu có không chỉ ở Việt Nam mà cả Liên bang Đông Dương. Trong chương trình chỉnh trang, kiến trúc sư Nguyễn Mỹ Lộc đã dựa trên quan niệm mới về thiết kế trường đại học của Hoa Kỳ, bố trí các công trình chức năng nằm phân tán trong không gian xanh yên tĩnh, kết nối bởi những con đường đầy bóng mát. Hơn 40 công trình, đa số theo kiến trúc mới với mặt tường ốp đá, tạo nên một quần thể kiến trúc rộng lớn, nổi bật bởi nguyện đường Năng Tĩnh với tháp chuông hình khối tam giác vững chãi cao 38 mét. Sau năm 1975, Trường Đại học Đà Lạt ra đời dựa trên cơ sở Viện Đại học cũ, giữ vai trò một Trường Đại học Tổng hợp của vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Với nhu cầu mở rộng. những giảng đường, thư viện và nhà thể thao tiếp tục mọc lên trong những thập niên gần đây. Một vài công trình trong số này mang hình thức kiến trúc hoàn toàn khác biệt so với những kiến trúc cũ đã hiện hữu, vì vậy đã tạo nên hiện tượng tổng thể bị chia cắt đột ngột. Kiến trúc sư Tô Công Văn đã giải quyết bài toán bằng những khối nhà bốn tầng bố trí giật cấp theo địa hình sườn đồi và các phần phụ tận dụng khéo léo ở tầng hầm. Toàn bộ diện tích còn lại, hơn 80% là công viên cây xanh, sân thể thao, đường giao thông và đường đi dạo. Ngày nay, công trình này là Trung tâm Đào tạo của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nằm ở Số 13, đường Đinh Tiên Hoàng. Năm 1916, với ý định trang bị cho thành phố một nơi đón tiếp du khách sang trọng và đầy đủ tiện nghi, Toàn quyền Ernest Roume cho xây dựng một đại khách sạn và Langbian Palace đã ra đời và được khai trương vào năm 1922. Một hệ thống bậc thang trải dài theo sườn đồi từ phía hồ Xuân Hương lên tới tận lối vào chính khiến công trình thêm phần uy nghi và duyên dáng. Khách sạn Dalat Palace mang hình thức kiến trúc hiện đại kết hợp trường phái cổ điển, gồm 3 tầng và phần tầng trệt nhô cao hơn mặt sân để tạo thêm một tầng hầm và lối vào với những bậc thang sang trọng. Công trình có mặt ngoài đối xứng hoàn hảo, phát triển theo chiều dài, trong đó khối chính giữa nhô cao 3 tầng với hệ mái bằng, hai khối hai bên thấp hơn và mái lợp ngói. Những yếu tố hiện đại của mặt bằng lại được đặt trong hệ kết cấu bao che với những trang trí theo hình thức cổ điển. Mặt đứng được tô điểm bởi nhiều họa tiết trang trí trau chuốt trên khung cửa sổ, đặc biệt là phần sát mái. Khác với các khách sạn khác, Dalat Palace không có hệ thống ban công hay lô gia như vẫn thường gặp ở kiến trúc khách sạn.
Nằm trên đường Trần Phú, không xa Dalat Palace, khách sạn Dalat Hotel Du Parc được xây dựng vào năm 1922 theo phong cách kiến trúc hiện đại. Công trình gồm bốn tầng, lợp mái đỏ, nằm dọc theo con phố. Mặt bằng khách sạn có bố cục hợp khối hình chữ nhật, theo kiểu thức bố trí khách sạn kinh điển: hành lang ở giữa, hai dãy phòng hai bên hưởng đầy đủ ánh sáng và khí trời. Khách sạn Du lịch Công đoàn nằm bên đường Yersin, trên một ngọn đồi cạnh hồ Xuân Hương có diện tích hơn 15 hecta. Khác với Dalat Palace hay Dalat Hotel Du Parc, công trình này vốn là biệt thự của bác sĩ Lemoine xây dựng từ năm 1936, về sau trở thành một dưỡng đường tư. Kiến trúc tòa nhà mang dáng dấp của vùng Bretagne với hệ thống mái ngói đỏ dốc và các khối tường đầu hồi tam giác vững chãi và mạnh mẽ. Khá giống với Dalat Palace, Khách sạn Du lịch Công đoàn cũng được đặt trong một khuôn viên rộng nhiều cây xanh với tầm nhìn xuống hồ Xuân Hương, nhưng về hướng trung tâm thành phố. Đến năm 1956, nơi đây trở thành dinh thự dành riêng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, tiếp tục được tu sửa và trang bị thêm một đường hầm thoát hiểm. Dinh I nằm giữa một rừng thông xanh, lối vào trải nhựa với hai hàng cây tràm thân trắng hai bên. Cuối con đường, một đảo hoa hình ô van chia lối đi làm hai ngả và gặp lại nơi sảnh đón chính của công trình. Dinh được xây dựng kiên cố, gồm một tầng hầm, một tầng trệt và một tầng lầu, trong đó nửa dưới của tầng trệt xây bằng đá chẻ. Tầng trệt bao gồm một sảnh lớn, phòng tiếp khách, phòng họp... còn lầu trên, các phòng ngủ bao quanh một hành lang giữa. Chung quanh công trình chính còn một vài hạng mục kiến trúc khác như nhà dành cho ngự lâm quân, nhân viên phục vụ và một hệ thống sân vườn, đài phun nước, lối đi dạo... tạo thành một quần thể kiến trúc đẹp, sang trọng và hoàn chỉnh. Sự cách tân kiến trúc thể hiện ở các mái bằng đồ sộ, bố cục hình khối lớn theo dạng cân bằng không đối xứng. Mặt bằng cũng mặt đứng của công trình đều được giải phóng khỏi thế đối xứng nghiêm nghị của trường phái cổ điển, đi vào khai thác các bố cục hình khối tự do. Dinh III, cũng thường được gọi Dinh Bảo Đại, xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến năm 1938, do hai kiến trúc sư Paul Veysseyre và Huỳnh Tấn Phát thiết kế. Về hình thức kiến trúc, Dinh III có nhiều nét tương đồng với Dinh II, đều chịu ảnh hưởng bởi trào lưu cách tân kiến trúc ở châu Âu. Công trình đồ sộ với hệ thống mái bằng, các mảng - khối được bố cục cân đối. Phía trước sảnh chính cũng có một mái hiên hình vòng cung vươn ra đón khách khi xe đỗ. Tầng trệt được bố trí phòng khách, các phòng làm việc, văn phòng của vua Bảo Đại, thư viện, các phòng giải trí và một phòng ăn lớn. Tầng lầu được dành toàn bộ cho sinh hoạt gia đình với các phòng ngủ của vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương, các công chúa và hoàng tử cùng những phòng sinh hoạt. Những ngôi biệt thự xây dựng từ năm 1940 trở về trước hầu hết đều do người Pháp thiết kế. Từ sau năm 1940, cùng với các kiến trúc sư người Pháp, một số kiến trúc sư người Việt được đào tạo ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cũng tham gia thiết kế xây dựng nhiều công trình. Để bảo vệ cảnh quan thành phố, các kiến trúc sư người Pháp đã đưa ra những nguyên tắc chung cho việc thiết kế và xây dựng biệt thự. Các ngôi biệt thự được xây dựng bám theo dạng địa hình, nằm trên những đường đồng mức, có khuôn viên cây xanh, có tầm nhìn đẹp và không được quá gần nhau. Những biệt thự hạng trung bình có diện tích phân lô nhỏ hơn 1.000 mét vuông và các ngôi nhà biệt lập có sân vườn được dành cho tầng lớp trung lưu và công chức, phổ biến tại trung tâm thành phố, trên các con đường như Hai Bà Trưng, Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Yết Kiêu hay Bùi Thị Xuân.
Về hình thức kiến trúc, các biệt thự xây dựng trước năm 1954 chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc địa phương Pháp. Những chủ nhân người Pháp sống xa quê hương đã xây dựng những ngôi nhà này để gợi lại hình bóng quê hương của họ. Biệt thự số 20 đường Trần Hưng Đạo, mang phong cách Normandie, một ví dụ điển hình cho kiến trúc biệt thự của Đà Lạt. Những biệt thự phong cách kiến trúc Normandie có một hoặc hai tầng, khung sườn nhà bằng gỗ tốt, xây chèn gạch, phần tường dưới bệ cửa sổ đôi khi được xây bằng đá chẻ hoặc bằng gạch nhỏ để trần không tô trát. Khung sườn ngôi nhà có tỷ lệ cân xứng dựa trên mặt bằng hình chữ nhật đơn giản. Những nét đặc trưng của phong cách kiến trúc Normandie có thể thấy ở những biệt thự số 22 đường Nguyễn Viết Xuân hay số 14, 18 và 20 đường Trần Hưng Đạo. Các biệt thự kiến trúc vùng Bretagne thường có hình khối nằm ngang, đầy vững trãi. Vật liệu xây dựng được lấy ở chính địa phương, mái mặt bên sử dụng ngói thạch bản, cửa chính và cửa sổ thường có khung viền chất liệu đá chẻ kích thước lớn. Các sống mái đều được bẻ góc với nhiều kiểu cách đa dạng, một ống khói vươn cao giúp hệ mái có được nét duyên dáng hoàn hảo. Những buôn làng người Lạch thường quần tụ ven bờ suối, dưới chân núi, dọc theo những thung lũng nhỏ hoặc nằm rải rác trên các sườn đồi hẻo lánh. Khu đất lập buôn được khai hoang sạch sẽ, trống trải, chỉ chừa lại những cây lớn. Ở trong buôn, các ngôi nhà được dựng lên tùy tiện, thường không tuân theo một nguyên tắc chung nào. Có những bộ tộc xoay hướng nhà của họ về phía nhà vị già làng hoặc về phía đường lớn hay dòng suối chảy ngang qua. Đặc điểm của buôn người Lạch là không có nhà rông, thay vào đó, nhà của vị già làng sẽ là nơi hội họp, tiếp khách. Những không gian trống còn lại trong làng là nơi sinh hoạt, vui chơi, cũng là nơi thả gà, lợn. Xung quanh buôn làng có hàng rào với cổng vào đơn sơ. Khoảng cách giữa các buôn tùy thuộc vào điều kiện địa hình, địa vật và nơi canh tác của dân cư, thường vào khoảng 2 đến 3 km.
Những ngôi nhà sàn là phản ứng tự nhiên của con người trước hoàn cảnh thiên nhiên, giải pháp tốt nhất về kiến trúc giúp họ có thể sinh sống an toàn, khắc phục những hạn chế về khí hậu ẩm ướt, địa hình làm nhà không bằng phẳng và có thể chống lại sự phá hoại của các loài thú dữ. Những ngôi nhà sàn của người Lạch được phân thành hai loại chính: nhà cho từng hộ gia đình riêng lẻ và nhà dài cho nhiều hộ gia đình trong một gia tộc. Trong những ngôi nhà nhỏ dành cho một hộ gia đình thường có một hoặc hai bếp. Nhưng đối với các ngôi nhà dài dành cho nhiều gia đình, có thể có đến 10 bếp lửa xếp thành dãy ở giữa và dọc theo chiều dài ngôi nhà, mỗi bếp dành cho một hộ gia đình. Khoảng không gian dọc theo mặt vách từ đầu nhà đến cuối ngôi nhà là chỗ ngủ, được chia thành từng ô cho mỗi gia đình. Những cánh rừng thông bên cạnh các thắng cảnh, dinh thự như Dinh I, Dinh III, Thung lũng Tình Yêu, đèo Prenn... dần bị thu hẹp. Ngoài ngoại ô, nhiều khu rừng bị đốn hàng loạt để khai thác nhựa hoặc đục thân cây thông lấy ngo dầu. Những dự án xây dựng bên hồ Tuyền Lâm cũng khiến hàng trăm ngàn cây thông nơi đây bị đốn chặt. khiến thành phố phải đối mặt với vấn đề thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô. Cảnh quan kiến trúc của Đà Lạt cũng bị biến dạng bởi sự phát triển thiếu quy hoạch. Nhiều ngôi nhà ống, nhà hộp mọc lên dày đặc trong khu vực trung tâm và hầu hết kiến trúc nhà ở của người dân chắp vá và không đồng bộ. Bên cạnh đó, những công trình quy mô lớn cũng làm phá vỡ cảnh quan của thành phố. Cho tới năm 2010, Đà Lạt vẫn không có một bản quy hoạch chi tiết, dù đã được quy hoạch chung nhiều lần. Tương tự, khuôn viên di tích kiến trúc nhà ga Đà Lạt cũng trở thành bãi tập kết gốm sứ, cây cảnh và là nơi những người nông dân trồng rau bắp cải. Khu lăng tẩm Nguyễn Hữu Hào từng bị bỏ quên một thời gian và trở thành nơi tập trung của những người nghiện ma túy cùng các hoạt động mại dâm. Trên khắp thành phố, nhiều ngôi biệt thự cổ bị bỏ hoang hoặc "chung cư hóa", một vài trong số đó còn bị gọi là những "biệt thự ma". Trong khoảng 1.900 ngôi biệt thự được xây dựng trước năm 1975, một nửa đã được thành phố cho các doanh nghiệp mua hoặc thuê lại để khai thác. Tuy vậy, phần lớn những ngôi biệt thự này vẫn rơi vào tình cảnh bỏ hoang, xuống cấp trầm trọng, còn một số khác nhường chỗ cho những nhà hàng, khách sạn mọc lên. Trong những nỗ lực bảo tồn di sản kiến trúc của Đà Lạt, một số đã tìm được thành công. Những ngôi biệt thự bên đường Trần Hưng Đạo và khu biệt thự Lê Lai được các công ty Cadasa và Ana Mandara trùng tu, giữ nguyên vẹn kiến trúc cũ, đưa vào khai thác và trở thành những khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp.