✨Ngô Viết Thụ

Ngô Viết Thụ

Ngô Viết Thụ (17 tháng 9 năm 19269 tháng 3 năm 2000) là một kiến trúc sư người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến như Nhà thờ Phủ Cam, Dinh Độc Lập, Chợ Đà Lạt, Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Y khoa Sài Gòn.

Tiểu sử

Thân thế

Ông sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại làng Lang Xá, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955.

Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt (tên cũ của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở tại Thành phố Đà Lạt). Ông bà có tám người con, trong đó có một người con, tiến sĩ Ngô Viết Nam Sơn, cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia và hiện đang làm công tác tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Việt Nam, Á Châu, và Bắc Mỹ.

Hoạt động ở Âu châu

Trong giai đoạn 1950–1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Viện Kiến trúc Hoa Kỳ. Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Rôma (hay giải thưởng Khôi Nguyên La Mã) về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955–1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Các triển lãm kiến trúc, quy hoạch, và hội họa hàng năm của ông và các bạn khôi nguyên La mã trong suốt ba năm, đều được vinh dự có tổng thống Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành.

Hoạt động thời Việt Nam Cộng hòa

nhỏ|phải|Bảng đồng ở Dinh Độc Lập, một trong những công trình kiến trúc quy mô nhất của Ngô Viết Thụ Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam Cộng Hòa làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền và dư luận lúc ấy rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính quốc gia mới. Rất tiếc là vì lý do thời điểm và ngân sách, dự án này không được thực hiện.

Ông mở văn phòng tư vấn kiến trúc và chỉnh trang lãnh thổ tại 104 Nguyễn Du và số 8 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ông thiết kế nhiều đồ án quy hoạch có giá trị khác như Quy hoạch Làng Đại học Thủ Đức (1962), Quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh năm 1961 cùng với nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thế, Quy hoạch Hội chợ Quốc tế và thiết kế kiến trúc khu nhà triển lãm chính của Việt Nam tại Thủ Đức (hoàn tất thiết kế nhưng không xây dựng do thời cuộc, 1963), đồ án quy hoạch cho khoảng chừng 30 đô thị, tỉnh lỵ, và thị xã mới tại miền Nam Việt Nam (trong đó có Quảng Tín, Vị Thanh, Cheo Reo).

Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955 và thành viên Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958. Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin. Sau năm 1975, Ông là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam, và cũng là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ I, II, III, và IV. Ông là thành viên tổ chuyên gia tư vấn kiến trúc cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thời gian đương nhiệm của ông Kiệt.

Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật là Dinh Độc Lập (1961–1966), Viện Đại học Huế (1961–1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962–1965), Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (1963), Xây dựng mở rộng Khu Hội nghị Quốc tế tầng trên cùng của Khách sạn Majestic, Thương xá Tam Đa (Crystal Palace), trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975) (nay là Đại Học Nông Lâm Tp.HCM).

Ngoài ra ông còn là tác giả của các công trình Tòa Đại sứ của Việt Nam tại Anh (1959), Biệt thự góc Nguyễn Thị Minh Khai và Phạm Ngọc Thạch (trước là tư gia của ông bà Ưng Thi, nay là Tòa Lãnh Sự Trung Quốc), Chung cư Pháp góc đường Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, Tháp Tiêu Năng Khu cửa ngõ vào Trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh từ đường Điện Biên Phủ, Trung tâm Innotech (1975), Quần thể Việt Nam Quốc Tự (chỉ xây dựng được khoảng 1/8 vì lý do thời cuộc), Quy hoạch Kiến trúc Khu Thánh địa La Vang (với điêu khắc của điêu khắc sư Nguyễn Văn Thế), và Câu lạc bộ Thủy Thủ Quảng Ninh.

Đáng tiếc là một số công trình quan trọng của ông đã bị thay đổi thiết kế nguyên bản vì lý do kinh phí hay lý do khác, do đó chỉ giữ được phần nào quy mô chứ không còn thể hiện đúng phong cách thiết kế của ông, như Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long (1963), Trụ sở Hàng không Việt Nam (1972), Nhà thờ Bảo Lộc (1995).

Ông cộng tác với nhiều kiến trúc sư khác trong các công trình trường Đại học Y khoa Sài Gòn (trưởng nhóm kiến trúc sư Việt Nam, cộng tác với nhóm kiến trúc sư Mỹ Smith Hinchman & Grylls từ Michigan), Cung Nghệ thuật Quốc tế tại Paris (cộng tác với các kiến trúc sư Oliver Clément Cacoub và Paul Tournon), và Chợ Đà Lạt (chỉnh sửa lại mặt tiền và tổng thể thiết kế trước đó của kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức, bổ sung thêm thiết kế cầu nổi, khách sạn, và các khu phố lầu bao quanh chợ, quy hoạch mới tổng thể chợ với công viên và đại lộ chính đi vào chợ, 1958–1962).

Hoạt động sau năm 1975

Sau năm 1975 Ngô Viết Thụ ở lại Việt Nam và thiết kế Ty Thủy lợi Đắc Lắc (1976), Bệnh viện Sông Bé 500 Giường (1985), Khách sạn Century Huế (1990), phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt (sau này do một nhóm kiến trúc sư Lâm Đồng tiếp tục thực hiện phần khai triển chi tiết và thi công). Trên quy mô rộng hơn, ông cộng tác trong Quy hoạch Tổng Mặt Bằng của Hà Nội (đến năm 2000), và Quy hoạch Hải Phòng. Ông là thành viên ban giám khảo quốc tế trong cuộc thi thiết kế quy hoạch Nam Sài Gòn (1993).

Qua đời

Ông đột ngột qua đời ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại nhà riêng số 22 Trương Định, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh do đột quỵ.

Đóng góp nghệ thuật

nhỏ|Bức tranh Sơn hà cẩm tú thái bình thảo mộc của Ngô Viết Thụ trưng bày tại Dinh Độc Lập, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với các bức tranh nổi tiếng Thần tốc, Hội chợ, Bến Thuyền, và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong Dinh Độc Lập, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô chính (1960), tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến trúc Philippines ở Manila (1963), triển lãm lưu động tại Viện Smithsonian và một số thành phố khác tại châu Âu (hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris 1956, 1957, 1958) và tại Mỹ (1963).

Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và thành thạo các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.

Một số công trình

Hình:HCMC_Reunification_Palace.jpg|Dinh Độc Lập (Hội trường Thống Nhất) Hình:Cồn_Hến.jpg|Trường ĐHSP Huế nhìn từ trên cao, hai tòa nhà chữ Y, một là Đại học Sư phạm Huế, tòa thứ hai là Trung học Kiểu Mẫu Huế. Hình:Hoi truong B.jpg|Hội trường B Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô Viết Thụ** (17 tháng 9 năm 19269 tháng 3 năm 2000) là một kiến trúc sư người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến
Thời [[nhà Hậu Lương (907-923) ]] **Ngô Việt** (tiếng Trung phồn thể: 吳越國; giản thể: 吴越国, bính âm: Wúyuè Guó), 907-978, là một vương quốc nhỏ độc lập, nằm ven biển, được thành lập trong
**Việt Nam Quốc Tự** (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Thích Tâm Giác - viện trưởng Viện
**_Ngô Việt Xuân Thu_** () là một bộ tạp sử do Triệu Diệp (赵晔) thời Đông Hán biên soạn và Hoàng Phủ Tuân thời Đường san định. Sách gồm mười quyển, kể lại những biến
**Ngô Việt Trung** (sinh ngày 08/05/1953) là một nhà Toán học người Việt Nam. Ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ 2007 tới 2013, là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học
**Ngô Hoài Thu** là nữ tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Bà hiện là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trưởng ban
**Anh Việt Thu** (tên thật **Huỳnh Hữu Kim Sang**, 1939-1975) là nhạc sĩ người Việt Nam nổi tiếng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều ca khúc
**Ngô Xuân Thứ** (sinh 1955) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 1 (2011–2014). ## Thân thế và sự nghiệp
**Ngô Thành Thư** là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần ## Thân thế binh nghiệp Năm 2009,
**Viết thư Quốc tế UPU** hay **Viết thư Quốc tế dành cho giới trẻ** (Tiếng Anh: **_International Letter-Writing Competition for Young People**;_ Tiếng Pháp: _**Concours International De Compositions Épistolaires Pour Les Jeunes**_) là cuộc thi
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Tiền Thục** (29 tháng 9 năm 929 - 7 tháng 10 năm 988, biểu tự là **Văn Đức**), được biết đến với tên **Tiền Hoằng Thục** trước năm 960, là vị vua cuối cùng của
**Dinh Độc Lập** là một tòa dinh thự tại Thành phố Hồ Chí Minh, từng là nơi ở và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa trước Sự kiện 30 tháng 4 năm
Ngô Việt Xuân Thu là một bộ tạp sử ghi chép những biến cố xảy ra ở hai nước Ngô, Việt thời Xuân Thu, tác giả là Triệu Diệp. Triệu Diệp - sống dưới thời
**Nhà thờ chính tòa Phủ Cam** (đôi khi cũng được viết và gọi là **Phú Cam**, tên chính thức là **Nhà thờ chính tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ**; ) là nhà thờ chính
**_Bình Ngô đại cáo_** là một tác phẩm hội họa bằng sơn mài được họa sĩ Nguyễn Văn Minh thực hiện vào năm 1966, với chủ đề lấy cảm hứng từ văn kiện lịch sử
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Việt Nam 2000**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Diễn ra trong năm *Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong 2000 ### Thể thao *Việt Nam
nhỏ|Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt **Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt** là một cơ quan nghiên cứu thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nằm tại số 1 đường Nguyên Tử
**Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Atomic Energy Institute_, viết tắt VINATOM, tiền thân là Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt) là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Tết Đoan Ngọ** hoặc **Tết Đoan Dương** (Hán Việt: 端午節 - Đoan Ngọ Tiết, 端陽節 - Đoan Dương Tiết) (ngày mùng 5 tháng 5 theo âm lịch) là một ngày Tết truyền thống tại một
**Nhà Ngô** (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: _Ngô triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài
**Vũ Thu Minh** (sinh ngày 22 tháng 9 năm 1977), thường được biết đến với nghệ danh **Thu Minh**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Được mệnh danh là "nữ hoàng nhạc dance"
**Ngô** (Phồn thể: 吳國; giản thể: 吴国), còn gọi là **Câu Ngô** (句吴) hay **Công Ngô** (工吴; 攻吾), là các tên gọi của một nước chư hầu của nhà Chu từ khi triều đại này
nhỏ|291x291px|Một hộp pa tê hiệu Minh Chay do công ty Lối Sống Mới sản xuất Từ ngày 13 tháng 7 đến 18 tháng 8 năm 2020, tại các tỉnh thành Việt Nam đã xuất hiện
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
thumb|right|Bản đồ Xuân Thu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên **Xuân Thu** (chữ Trung Quốc: 春秋时代; Hán Việt: _Xuân Thu thời đại_, bính âm: _Chūnqiū Shídài_) là một giai đoạn lịch sử từ 771
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Dương Văn Ngộ** (3 tháng 3 năm 1930 – 1 tháng 8 năm 2023) là một nhân viên của Bưu điện trung tâm Sài Gòn. Với sự nghiệp kéo dài hơn 70 năm, ông đã
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 1960-1965 trong lịch sử Miền Nam Việt Nam là một
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
**Việt** (), hoặc **Bách Việt** (, _bǎik wyuèt_), là các nhóm dân cư thuộc Ngữ hệ Nam Á và Ngữ hệ Kra-Dai định cư và sinh sống ở tại vùng đất phía Nam Trường Giang
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Ngô Đức Kế** (chữ Hán: 吳德繼; 1878 - 1929) tên thật là **Ngô Bình Viên**, hiệu **Tập Xuyên** (集川); là chí sĩ, và là nhà thơ, nhà báo Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
**Ngô Xương Ngập** (chữ Hán: 吳昌岌; ? - 954) là một vị vua nhà Ngô, trị vì từ 951 đến 954 cùng với em trai là Ngô Xương Văn. Sử gọi chung đó là thời
**Ngô Thế Lân** (吳世鄰, ? - ?), tự: _Hoàn Phác_(完璞); hiệu:_ Ái Trúc Trai_; là một dật sĩ xứ Thuận Hóa thời Lê mạt và Tây Sơn (Việt Nam). ## Cuộc đời Ngô Thế Lân
**_Bách Việt tiên hiền chí_** () là cuốn sách thuộc loại sử bộ do Âu Đại Nhậm đời Minh biên soạn, tổng cộng bốn quyển. Nội dung tác phẩm ghi chép rõ về thời đại,
**Ngô Văn Tuấn** (sinh năm 1971) là một chính khách người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Ban Cán sự
**Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát** còn được gọi là **Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát** (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên