✨Bộ Quốc phòng (Việt Nam)

Bộ Quốc phòng (Việt Nam)

Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thường được gọi ngắn gọn hơn là Bộ Quốc phòng Việt Nam hay đơn giản là Bộ Quốc phòng (BQP), là cơ quan trực thuộc Chính phủ Việt Nam, tham mưu cho Nhà nước Việt Nam về đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ.

Lịch sử

Ngay sau khi nhận được tin Đế quốc Nhật Bản tuyên bố đầu hàng phe Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, các lãnh đạo Việt Minh đã tổ chức Quốc dân Đại hội tại Tân Trào, Tuyên Quang ngày 16 tháng 8, cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, lãnh đạo thực hiện Cách mạng Tháng Tám. Sau khi giành được chính quyền, ngày 27 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam được cải tổ thành Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo ngày 27 tháng 8, thành phần Chính phủ lâm thời có đồng chí Chu Văn Tấn giữ vai trò Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ra mắt toàn bộ thành viên Chính phủ lâm thời trước quốc dân, trong đó có cả tân Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chu Văn Tấn và Thứ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp.

Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan nội các vẫn chưa kịp thành lập, kể cả Bộ Quốc phòng. Các lực lượng vũ trang của người Việt đều do các đảng phái chính trị lãnh đạo riêng rẽ hoặc tổ chức tự phát. Trong đó, lực lượng vũ trang có thực lực nhất là Việt Nam Giải phóng quân, do Việt Minh lãnh đạo. Ngày 07 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Bộ Tham mưu nhằm chỉ huy, điều hành lực lượng vũ trang trong cả nước:

Cùng với chỉ thị này, ông Hoàng Văn Thái được chỉ định làm Tham mưu trưởng và được giao nhiệm vụ tổ chức Bộ Tham mưu. Một nhóm hạt nhân nòng cốt để xây dựng Bộ Tham mưu gồm 8 người là Hoàng Văn Thái, Hoàng Đạo Thúy, Hoàng Minh Đạo, Mai Hữu Thao, Nguyễn Văn Trang, Vũ Văn Thềm, Nghiêm Xuân Hoà, Đỗ Văn Sáng; hình thành cơ cấu tổ chức cơ quan tham mưu bước đầu bao gồm: Phòng Tác chiến - Đồ bản do Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng, trực tiếp làm Trưởng phòng; Phòng Tình báo do Hoàng Minh Đạo làm Trưởng phòng; Phòng Quân lực do Trần Văn Lư làm Trưởng phòng; Phòng Thông tin liên lạc do Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng và Văn phòng quản lý hành chính do Nguyễn Văn Trang phụ trách.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Ngày 15 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh phân chia toàn quốc thành 9 chiến khu. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh, liên lạc khó khăn do chiến sự đã lan đến địa bàn khu 6, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ mới bổ nhiệm các nhân sự của các chiến khu 1, 2, 3, 4. Các chiến khu 5, 6 đặt dưới quyền chỉ đạo của Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam; các chiến khu 7, 8, 9 được đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Cùng ngày, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập. Luật sư Phan Anh giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 2 tháng 3 năm 1946 Ủy ban Kháng chiến toàn quốc (còn gọi là Toàn quốc Kháng chiến Ủy viên Hội) ra đời. Chủ tịch là đại tướng Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh giữ chức Phó Chủ tịch.

Ngày 25 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34 về tổ chức Bộ Quốc phòng. Theo đó, Bộ Quốc phòng có Văn phòng và 10 cục chuyên môn: Chế tạo Quân nhu Cục, Chế tạo Quân giới Cục, Chính trị Cục, Tình báo Cục, Quân chính Cục, Quân huấn Cục, Công chính giao thông Cục, Quân pháp Cục, Quân nhu Cục, Quân y Cục. Cũng trong ngày hôm đó, một số nhân sự lãnh đạo các cơ quan chuyên môn của Bộ Quốc phòng cũng được bổ nhiệm. Ngày 6 tháng 5 năm 1946, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 60 đổi tên Ủy ban Kháng chiến toàn quốc thành Quân sự Ủy viên Hội, theo đó Quân sự Ủy viên Hội là một cơ quan tối cao quân sự đặt thẳng dưới quyền điều khiển của Chính phủ và có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc, đứng đầu là Chủ tịch và Phó Chủ tịch ngang hàng với Bộ trưởng và Thứ trưởng các Bộ; quy định tổ chức của Quân sự Ủy viên Hội gồm: Cục Tổng vụ, Cục Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Tổng Chỉ huy, Ủy ban Liên lạc và Kiểm soát quân sự Trung ương Việt - Pháp.

Ngày 29 tháng 6 năm 1946, thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô (sau là Cục Pháo Binh rồi Binh chủng Pháo binh). Ngày 7 tháng 7 năm 1946, thành lập Trường Võ bị Đà Lạt sau này là Học viện Lục quân (1981).

Từ ngày 28 tháng 10 đến ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội Việt Nam khóa I, kỳ họp thứ 2 đã quyết định sáp nhập Bộ Quốc phòng hợp với Quân sự Ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy. Ngày 30 tháng 11 năm 1946, theo Sắc lệnh số 229 thì "các cơ quan quân sự trên toàn cõi Việt Nam đều đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng". Cũng trong ngày 30 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 230 ủy quyền cho đại tướng Võ Nguyên Giáp, đang là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, làm Tổng Chỉ huy quân đội toàn quốc.

Ngày 5 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị công việc khẩn cấp cần làm. Ông nêu rõ: "Công việc khẩn cấp là kháng chiến và kiến quốc. Người dự đoán cuộc kháng chiến sẽ gay go, gian khổ, nhưng chúng ta kiên quyết chống chọi với các trận khủng bố của địch, thì ta sẽ thắng.". Trong tháng 11 năm 1946, cả nước chia thành 12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Uỷ ban Kháng chiến Khu phụ phụ trách hành chính, Khu trưởng phụ trách quân đội. Ngày 10 tháng 12 năm 1946, thành lập Khu 7, sau là Quân khu 7 (1975). Cùng ngày, thành lập Khu 9, sau là Quân khu 9 (1976).

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1946, trước tình hình căng thẳng tại Mặt trận Hà Nội, Các cơ quan trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và Bộ Tổng Chỉ huy di chuyển lên An toàn khu Việt Bắc giáp giới với Trung Quốc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63.000 nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.

Ngày 18 tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đòi tước khí giới của lực lượng tự vệ và giành kiểm soát Thủ đô Hà Nội. Ngay trong ngày, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại Hà Đông, hạ quyết tâm phát động toàn quốc kháng chiến. Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy chủ trưởng mở cuộc tiến công vào các vị trí quân Pháp ở Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vinh, Huế, Đà Nẵng... Ban Thường vụ Trung ương Đảng có dự đoán chắc chắn trong 24 giờ thực dân Pháp sẽ nổ súng và chỉ thị cho toàn quân và dân cả nước sẵn sàng chiến đấu. Đến chiều ngày 19 tháng 12 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang: "Giờ chiến đấu đã đến". Cơ quan cơ yếu mật mã Bộ Tổng tham mưu truyền đi bản mật lệnh: "Chuyến hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21-12. Hàng mang mã hiệu A cộng hai, B trừ hai. Chú ý theo dõi đón hàng đúng giờ". Theo đó, quy ước "chuyến hàng sẽ đến" có nghĩa là tổng giao chiến bắt đầu. A là giờ cộng thêm hai, B là ngày trừ đi hai. Có nghĩa là: "Cuộc tổng giao chiến bắt đầu lúc 20 giờ ngày 19 tháng 12".

Ngày 4 tháng 2 năm 1947, thành lập Cục Quân giới (nay phát triển thành Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng). Cục trưởng là Trần Đại Nghĩa.

Đầu tháng 3 năm 1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ, và thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội thuộc ủy ban kháng chiến các cấp.

Tháng 7 năm 1947, Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy tách ra thành Bộ Quốc phòngBộ Tổng Chỉ huy. Đứng đầu Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam là Tổng Chỉ huy ngang hàng với Bộ trưởng về quyền hạn và danh vị và là thành viên trong Hội đồng Liên bộ.

Ngày 25 tháng 1 năm 1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 120-SL thành lập các liên khu trong cả nước để tăng cường chỉ đạo chiến tranh. Theo Sắc lệnh này, Khu 1 và khu 12 hợp nhất thành Liên khu 1; Khu 2, 3, 11 hợp nhất thành Liên khu 3; Khu 10 và khu 14 hợp nhất thành Liên khu 10; Khu 4 đổi tên thành Liên khu 4; khu 7, 8, 9 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn hợp nhất thành Liên khu Nam Bộ.Tháng 10 năm 1948, hợp nhất Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam với Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy.

Ngày 9 tháng 3 năm 1949, thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sau là Ban Nghiên cứu Sân bay (năm 1955), Bộ Tư lệnh Phòng không (năm 1958), Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu (năm 1959), Quân chủng Phòng không-Không quân (năm 1963).

Ngày 10 tháng 3 năm 1949, thành lập Trường Quân y sĩ Việt Nam, sau là Đại học Quân y (năm 1966), Học viện Quân y (năm 1981).

Ngày 12 tháng 3 năm 1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14-SL, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam (hay còn gọi là Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh); các bộ chỉ huy Liên khu quân sự thành Bộ Tư lệnh Liên khu; Tổng chỉ huy gọi là Tổng Tư lệnh; Liên khu trưởng gọi là Tư lệnh Liên khu.

Ngày 18 tháng 6 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 50/SL về tổ chức Bộ Quốc phòng thì Bộ Quốc phòng có: Văn phòng; Các Nha: Nha Quân giới, Nha Quân nhu và Nha Quân dược; Các cơ quan: Bộ Tổng Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Dân quân Tự vệ, Cục Quân huấn, Cục Quân chính, Cục Quân pháp, Cục Tình báo, Cục Pháo binh, Cục Công binh, Cục Quân giới, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Thông tin liên lạc, Cục Vận tải. Đứng đầu các cục là Cục trưởng.

Trong Chiến tranh Đông Dương (1946 - 1954)

Ngày 11 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 121 thành lập Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp; quy định Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh gồm Bộ Tổng Tham mưu (gồm các Cục: Tác chiến, Quân báo, Dân quân, Quân huấn, Thông tin Liên lạc), Tổng cục Chính trị (gồm các Cục: Tổ chức, Tuyên huấn, Địch vận, Quân pháp, Nhà Xuất bản Vệ Quốc quân), Tổng cục Cung cấp (gồm các Cục: Quân lương, Quân y, Quân vụ, Quân giới, Quân trang, Vận tải), Đoàn Thanh tra và Văn phòng.

Ngày 13 tháng 7 năm 1950, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đã ra Thông tư số 47/TT-A giải thích về tổ chức mới của Bộ Tổng tư lệnh. Thông tư có đoạn viết: "Để sự chỉ đạo chiến tranh được tập trung hơn nữa, để việc huy động mọi khả năng, mọi lực lượng cho tiền tuyến được nhanh chóng và chu đáo hơn nữa, tổ chức lại Bộ Tổng tư lệnh, thành lập Bộ Tổng tham mưu, hai Tổng cục, đoàn Thanh tra, Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh....''. Ngày 15 tháng 6 năm 1951, thành lập Trường Sĩ quan Hậu cần, sau sáp nhập vào Học viện Hậu cần (1974). Ngày 25 tháng 10 năm 1951, thành lập Trường Chính trị Trung cấp, mãi sau này là Học viện Chính trị (2008).

Đầu năm 1955, cơ quan Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh được chấn chỉnh tổ chức và được gọi là cơ quan Tổng quân uỷ-Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh. Trong văn bản "Mấy điều giải thích về chấn chỉnh tổ chức cơ quan Tổng quân uỷ" đề ngày 1 tháng 4 năm 1955, có đoạn viết: "Bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng gọi là Tổng quân uỷ, về chính quyền vẫn gọi là Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh. Những cơ quan chính của Tổng quân uỷ vẫn có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Ngoài ra còn có một Văn phòng đồng thời là Văn phòng Tổng quân uỷ và Văn phòng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh...''. Ngày 7 tháng 5 năm 1955, thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, sau là Cục Hải quân (1959), Quân chủng Hải quân (1963).

Ngày 24 tháng 9 năm 1955, Tổng quân uỷ đã ra Nghị quyết số 10/VP-TQU về cải tiến cách làm việc, trong đó có đoạn xác định vị trí, nhiệm vụ của các cơ quan giúp việc: "Đứng về phía chỉ đạo của Đảng về quân sự mà nói thì cơ quan thống nhất chỉ đạo toàn quân là Tổng quân uỷ, các cơ quan giúp việc là Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần. Tổng quân uỷ thông qua các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần mà thực hiện sự lãnh đạo của mình; ngược lại sự chỉ đạo công tác của các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đối với đơn vị đều phải tập trung thống nhất vào chủ trương và kế hoạch chung của Tổng quân uỷ mà cơ quan giúp việc hàng ngày cho Tổng quân uỷ là Văn phòng Tổng quân uỷ....'' Tổng cục Quân huấn có nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh chỉ đạo công tác huấn luyện quân sự đối với cán bộ và chiến sĩ các binh chủng trong toàn quân, chỉ đạo công tác các nhà trường của quân đội và chỉ đạo công tác huấn luyện các lực lượng hậu bị. Cục Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác Khoa học-Công nghệ-Môi trường trong quân đội và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong toàn quân.  Ngày 17 tháng 3 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu ban hành Công văn số 173/BTTM, tổ chức các cơ quan trực thuộc Tổng cục Quân huấn trong đó có Phòng Hóa học - Nguyên tử nằm trong Cục Huấn luyện chiến đấu. Phòng Hóa học - Nguyên tử là cơ quan nghiệp vụ làm tham mưu cho Bộ, chỉ đạo huấn luyện Phòng Hóa học - Nguyên tử trong toàn quân; đồng thời phối hợp với các cơ quan, tổ chức, xây dựng một số cơ quan, đơn vị hóa học theo đề án đã được xác định. Ngày 19 tháng 11 năm 1958, thành lập Lực lượng Cảnh vệ gồm Cảnh vệ Biên phòng và Cảnh vệ Nội địa. chuyển Bộ đội biên phòng về trực thuộc Bộ Quốc phòng

Quân đội nhân dân Việt Nam đang hành quân trên đường Trường Sơn qua Lào. Ngày 19 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 559, sau là Bộ Tư lệnh Đoàn 559 (1965), Bộ Tư lệnh Trường Sơn (1970), Binh đoàn 12 (1977)

Ngày 12 tháng 10 năm 1960, thành lập Cục Nghiên cứu Kỹ thuật (Viện Kỹ thuật Quân sự), nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự.

Ngày 27 tháng 8 năm 1961, thành lập Trường Quân chính sơ cấp Quân Giải phóng miền Nam.  Ngày 10 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập Trường Sĩ quan Lục quân 2 trên cơ sở Trường Lục quân tổng hợp H28, trực thuộc Bộ Quốc phòng, sau là Trường Đại học Nguyễn Huệ (2010).

Bộ Chỉ huy Miền là một cấp chỉ huy lớn của quân đội, cơ quan chỉ huy cao nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở B2. Bộ Chỉ huy Miền đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Trung ương Cục và sự chỉ đạo chỉ huy của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh". Kể từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc nhiệm vụ, Bộ Chỉ huy Miền do các đồng chí sau đây làm Tư lệnh: Phạm Thái Bường (1961), Trần Nam Trung (1961 - 1962), Trần Văn Quang (1962 - 1964), Trần Văn Trà (1964 - 1967, 1973 - 1976), Hoàng Văn Thái (1967 - 1973); và Chính ủy là các đồng chí: Nguyễn Văn Linh (1961 - 1964), Nguyễn Chí Thanh (1964 - 1967), Phạm Hùng (1967 - 1976). sau đến ngày 4 tháng 9 năm 1989, đổi tên thành Cục Đối ngoại Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp là lãnh đạo, chỉ huy, xây dựng và quản lý các đơn vị xe tăng, thiết giáp dự bị của Bộ và làm tham mưu cho Bộ về Binh chủng TTG. thành lập Phân hiệu II Đại học Bách Khoa. Ngày 28 tháng 10 năm 1966, công bố quyết định thành lập Phân Hiệu II Đại học Bách Khoa đồng thời khai giảng khóa đào tạo 1.

Ngày 3 tháng 7 năm 1971, thành lập Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng

Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, tình thế mới đặt ra vấn đề xây dựng các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ngày 24 tháng 10 năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký quyết định số 142/QĐ-QP về việc thành lập Quân đoàn 1. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử kiêm Tư lệnh Quân đoàn; Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử kiêm Chính ủy Quân đoàn.

Ngày 17 tháng 5 năm 1974, Quân đoàn 2 được thành lập tại Ba Nang, Ba Lòng, Quảng Trị. Sự ra đời của Quân đoàn 2 thể hiện sinh động quy luật về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn là tham gia tổ chức các chiến dịch quy mô bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, thực hiện những đòn tiêu diệt lớn lực lượng địch, phối hợp với các lực lượng tại chỗ và phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngày 20 tháng 3 năm 1975, thành lập Cục Vật tư trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sau là Cục Kế hoạch và Đầu tư (1998)

Ngay sau khi chiếm được Tây Nguyên, ngày 26 tháng 3 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 54/QĐ-QĐ thành lập Quân đoàn 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Quân đoàn 3 được thành lập có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự ra đời của quân đoàn chủ lực cơ động thứ tư của Quân đội nhân dân Việt Nam., Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chính thức công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 tại chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông Nam Bộ. Với chức năng là quả đấm chủ lực mạnh, lực lượng cơ động của Bộ ở chiến trường B2, nhiệm vụ của Quân đoàn 4 là tiêu diệt quân địch, giải phóng nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang 3 thứ quân, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng, đảm nhận một hướng chiến lược, một khu vực chiến trường, mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Sài Gòn., trên cơ sở tiếp quản cơ sở vật chất, hạ tầng của Tổng y viện của chế độ Việt Nam Cộng hòa cũ và sáp nhập 3 bệnh viện: K116, K72, K59 và một số đội điều trị.

Ngày 29 tháng 8 năm 1975, Lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức trọng thể tại Hội trường Ba Đình, các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã vào Lăng viếng Bác. Hai chiến sĩ tiêu binh Nông Văn Thành người Tày và Nguyễn Văn Ri người Kinh được vinh dự làm nhiệm vụ trong phiên gác đầu tiên. Trước đây, thi hài Hồ Chí Minh được giữ gìn và bảo vệ trong một không gian hẹp, có điều kiện bảo đảm môi trường trong sạch, tinh khiết. Nay thi hài được giữ gìn trong một không gian rộng, hàng ngày có hàng nghìn lượt người đến viếng, rất khó khăn trong việc bảo đảm các thông số kỹ thuật, an ninh và công tác đón tiếp, tuyên truyền. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 28 tháng 12 năm 1975, Thường vụ Quân uỷ Trung ương ra Quyết định số 279/VP-QU thông qua việc thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 969. Ngày 14 tháng 5 năm 1976, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 109/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Thời kì thống nhất

Ngày 14 tháng 1 năm 1976, thành lập Trường Sĩ quan Chính trị, sau là Trường Sĩ quan Chính trị Quân sự (1981), Trường Đại học Chính trị (2010). Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam chấm dứt hoạt động. Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh đổi tên thành Bộ Quốc phòng và giữ tên đó cho đến ngày nay.

Ngày 21 tháng 2 năm 1976, thành lập Học viện Quân sự cao cấp, sau đổi thành Học viện Quân sự cấp cao (năm 1981), sau là Học viện Quốc phòng (năm 1994)

Ngày 5 tháng 4 năm 1976, thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế. Đến ngày 7 tháng 11 năm 1985 chuyển thành Tổng cục Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng).

Ngày 4 tháng 7 năm 1978, thành lập Bệnh viện Đông y Quân đội, sau là Viện Y học cổ truyền Quân đội

Ngày 7 tháng 3 năm 1979, thành lập Sư đoàn 319 trực thuộc Quân khu 3, sau là Tổng Công ty 319 trực thuộc Bộ Quốc phòng (2011)

Ngày 28 tháng 5 năm 1981, thành lập Viện Lịch sử Quân sự

Ngày 11 tháng 6 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 903/QP thành lập Binh đoàn 11 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau là Đoàn 11 (5/1988),

Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết số 51-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, ngoài cấp trưởng đứng đầu một đơn vị thì còn có Chính ủy, Chính trị viên (trước là cấp phó về chính trị). Theo đó ngày 21 tháng 11 năm 2011, Ban Bí thư ra Quy định số 50-QĐ/TW về Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm xác định đúng vai trò, chức năng và hoàn thiện cơ chế thực hiện theo Nghị quyết 51/2005/Bộ Chính trị.

Trong hòa bình, yếu tố chính sách càng trở nên quan trọng. Chính sách phải được hiểu một cách đầy đủ là chế độ chính sách và cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chính sách đó, bao gồm cả nguồn kinh phí bảo đảm thực hiện chính sách. Chính sách đúng cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng tốt mới tạo thành động lực đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vây, ngày 29 tháng 5 năm 2008 Bộ Quốc phòng đã thành lập cơ quan Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý toàn bộ việc tổ chức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong quân đội; đảm bảo các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang công tác trong quân đội và trước khi chuyển ra. Đây là việc làm theo đúng quan điểm của Đảng: coi mọi chính sách chính trị, kinh tế, xã hội đều lấy trung tâm là con người, vì con người và do con người phù hợp với sự phát triển mọi mặt của quân đội và đất nước trong giai đoạn mới.

Ngày 12 tháng 10 năm 2010, Bộ Quốc phòng tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất tại Hà Nội. Tham dự Hội nghị có Bộ trưởng Quốc phòng và Đại diện Bộ trưởng Quốc phòng 10 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và 7 nước đối tác đối thoại của ASEAN (dưới đây gọi tắt là các nước "Cộng"), bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ và Tổng thư ký ASEAN.

Đây là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ASEAN bởi ADMM+ là diễn đàn quốc phòng chính thức đầu tiên cấp bộ trưởng quốc phòng giữa ASEAN và các nước đối tác chủ chốt ngoài khu vực. Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của việc giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình ADMM+ và nhấn mạnh rằng hợp tác trong khuôn khổ ADMM+ cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của ASEAN là tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tham vấn, đồng thuận và với nhịp độ phù hợp với tất cả các nước thành viên. Hội nghị khẳng định ADMM+ là một bộ phận quan trọng của cấu trúc an ninh khu vực năng động, hiệu quả, mở và dung nạp. ADMM+ sẽ góp phần tăng cường hữu nghị, lòng tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại và hợp tác quốc phòng giữa các nước thành viên ADMM+.

Ngày 23 tháng 8 năm 2011, thành lập Tổng Công ty 36.

Ngày 4 tháng 6 năm 2012, trong buổi tiếp thân mật Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Edward Panetta, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đề nghị: "Nếu được dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, chúng tôi có nhu cầu mua một số loại vũ khí trang bị trước hết để sửa chữa, bảo quản, nâng cấp các loại vũ khí chúng tôi thu được trong chiến tranh. Sau đó, chúng tôi sẽ lựa chọn mua những loại trang bị vũ khí phù hợp yêu cầu hiện đại hóa quân đội của Việt Nam với giá cả cạnh tranh"

phải|Duyệt binh [[Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội|kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội năm 2010]] Ngày 19 tháng 12 năm 2013, Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức lễ ra mắt [http://mod.gov.vn Cổng Thông tin điện tử Bộ Quốc phòng] có 2 phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt.

Ngày 27 tháng 5 năm 2014, thành lập Trung tâm Gìn giữ Hòa bình Việt Nam. Đây là một việc làm thực tế để Quân đội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam chứng minh bằng hành động về những cam kết hội nhập quốc tế toàn diện mà Đảng đã đề ra.

Ngày 21 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội đã diễn ra Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2014. Hai bên trao đổi tình hình thế giới, khu vực cùng quan tâm và kiểm điểm lại kết quả đạt được trên 5 lĩnh vực được nêu trong Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương và thống nhất, trong thời gian qua, một số lĩnh vực có bước phát triển mới, nhất là các hoạt động hợp tác mang tính chất nhân đạo như tìm kiếm quân nhân mất tích (MIA); rà phá bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, tẩy rửa chất độc da cam/dioxin...

Ngày 16 tháng 1 năm 2015, tại thủ đô New Delhi (Ấn Độ) đã khai mạc Đối thoại chiến lược quốc phòng Ấn Độ - Việt Nam lần thứ 9. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự đối thoại. Hai bên đã trao đổi về tình hình quốc tế, khu vực và tiếp tục thống nhất rằng hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay, mọi tranh chấp, bất đồng cần được giải quyết thông qua đối thoại hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.  

Ngày 3 tháng 3 năm 2015, Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố, Việt Nam và Israel ký kết Bản Ghi nhớ Hợp tác Quốc phòng, nỗ lực thúc đẩy quan hệ song phương, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như hoạt động quân sự, chuyển nhượng công nghệ, hợp tác công nghiệp quân sự.

Ngày 18 tháng 3 năm 2015, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, đã kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 9 (ADMM-9) và dự khai mạc Triển lãm Hàng không-Hàng hải quốc tế Langkawi năm 2015 (LIMA 2015) tại Malaysia. Thông qua cơ chế ADMM, ASEAN muốn gửi đến cộng đồng quốc tế một hình ảnh ASEAN đoàn kết, đồng thuận và hợp tác có hiệu quả. Malaysia cam kết sẽ làm hết sức mình trong việc góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực theo các chuẩn mực quốc tế.

Ngày 27 tháng 3 năm 2015, [http://chinhsachquandoi.gov.vn Cổng Thông tin Điện tử Ngành Chính sách quân đội] chính thức đi vào hoạt động nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, hậu phương Quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động Công tác chính sách trong toàn quân; thực hiện từng bước các dịch vụ hành chính công trực tuyến nhằm công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, quy trình, trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thông tin kịp thời hơn về lĩnh vực Công tác chính sách. Đồng thời, đây là trang tin điện tử của Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia, là một trong những địa chỉ tiếp nhận, cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ phục vụ cho thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo của Ban chỉ đạo Quốc gia 1237.

Ngày 31 tháng 5 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter thăm chính thức Bộ Quốc phòng Việt Nam, Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân Nhân dân Việt Nam. Hai bên đã tiến hành hội đàm trên tinh thần hữu nghị, cởi mở, thẳng thắn và hiểu biết lẫn nhau. Hai bên đã trao đổi về quan hệ quốc phòng song phương và nhận thấy sự phát triển tích cực và ổn định trong quan hệ quốc phòng hai nước. Hoa Kỳ đã triển khai tương đối tích cực các chương trình khắc phục hậu quả chiến tranh, trao đổi đoàn; đối thoại, tham vấn; trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, khắc phục thiên tai, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, an ninh biển; đào tạo; quân y; tham vấn lẫn nhau trên các diễn đàn  đa phương, ADMM+ và các lĩnh vực khác mà hai bên có nhu cầu và khả năng.

Ngày 2 tháng 9 năm 2015, Bộ Quốc phòng đã tổ chức và phối hợp tốt với các cơ quan đơn vị của các ban ngành đoàn thể Trung ương tổ chức thành công Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2015) tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Với hơn 30.000 người tham gia trong suốt 3 tháng luyện tập, hợp luyện và tổng duyệt. Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng về tổ chức các hoạt động Kỷ niệm diễu binh, diễu hành do Thượng tướng Nguyễn Thành Cung làm Trưởng ban Chỉ đạo, Trung tướng Nguyễn Quốc Khánh làm Phó ban Chỉ đạo đã tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm đúng tiến độ đề ra và đảm bảo an toàn trong toàn buổi lễ.

Thực hiện Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, chiều ngày 8 tháng 1 năm 2018 tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng là đơn vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng, giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước Việt Nam về bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và công nghệ thông tin trong toàn quân.

Trong năm 2018 và năm 2019, Thực hiện Nghị quyết của Đảng về tinh giản biên chế, Bộ Quốc phòng đang tiến hành từng bước đổi mới, sắp xếp tổ chức các đơn vị quân đội. Theo đó, để cụ thể hóa công việc ở các lĩnh vực khác nhau, Bộ Quốc phòng đã xây dựng kế hoạch, đề án ở một số đơn vị để rút kinh nghiệm, sau đó triển khai trong toàn quân. Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo sắp xếp 88 doanh nghiệp quân đội còn 17, giảm 71 doanh nghiệp. Số lượng sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng phải giải quyết chế độ là 16.000 người, chưa tính số lao động hợp đồng của các đơn vị. Đối với các cơ quan chiến lược, chiến dịch, Bộ cũng đã rà soát, điều chỉnh tổ chức, hợp nhất các phòng, cục có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, phấn đấu đến năm 2021 giảm 10% quân số biên chế so với năm 2015. Bộ Quốc phòng cũng thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính đối với 25 bệnh viện trong quân đội, từ bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đến bệnh viện của các quân khu, quân đoàn, quân chủng. Với cách làm này, ngân sách nhà nước chi thường chuyên cho biên chế, tổ chức của bệnh viện quân đội sẽ giảm đáng kể. Bộ cũng giải thể 14 Lữ đoàn Công binh dự bị động viên thuộc bảy tổng công ty, gồm: 36, 319, Đông Bắc, Thái Sơn, xây dựng Lũng Lô, xây dựng Trường Sơn, Thành An; giải thể Ban Quản lý dự án 46, 47; sáu trung tâm dạy nghề - giới thiệu việc làm

Ngày 03 tháng 12 năm 2023, Bộ Quốc phòng tổ chức lễ công bố Quyết định số 6012/QĐ-BQP, ngày 21/11/2023 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc thành lập Quân đoàn 12 tại Ninh Bình.

Ngày 16 tháng 6 năm 2025, Bộ Quốc phòng tổ chức lễ công bố Quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc thành lập Binh đoàn Kinh tế biển (Binh đoàn 20) trên cơ sở Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Lực lượng Quốc phòng

Sách trắng không công bố con số lực lượng quốc phòng.

Theo [http://www.globalfirepower.com/ Global Firepower] - Bảng xếp hạng thực lực quân sự của các quốc gia trên thế giới thì tổng quân số lực lượng chính quy của Việt Nam tính đến năm 2013 là 412.000 người.

  • Lực lượng dự bị động viên cục bộ: 5.040.000 người.
  • Lực lượng dự bị động viên toàn quốc: 50.645.430 người.
  • Lực lượng phục vụ: 41.503.949 người.

Theo Cổng Thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng thì tổng quân số lực lượng chính quy khoảng 450.000 người. Lực lượng dự bị khoảng 5 triệu người.

Theo thống kê tương đối từng đơn vị cho thấy tổng quân số Lực lượng theo biên chế là khoảng 1 triệu người gồm:

  • Khối cơ quan đầu não (Bộ Tổng tham mưu, các Tổng cục): 84.000;
  • Khối Quân chủng: 185.000;
  • Khối Quân khu: 245.000;
  • Khối Quân đoàn: 130.000;
  • Khối Binh chủng: 58.000;
  • Khối Học viện Nhà trường: 46.000;
  • Khối cơ quan chuyên môn: 15.350;
  • Khối Viện Trung tâm Nghiên cứu: 15.500; *Khối Doanh nghiệp Quân đội: 214.500

Quân đội nhân dân Việt Nam có 3 quân chủng (riêng Quân chủng Lục quân không thành lập bộ tư lệnh quân chủng mà do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý) và 4 bộ tư lệnh độc lập gồm:

Ngân sách Quốc phòng

Bộ Quốc phòng Việt Nam không công bố con số chính xác về ngân sách quốc phòng. Bất cứ một quốc gia nào có chủ quyền cũng đều quan tâm xây dựng chiến lược quốc phòng. Việc phân bổ nguồn lực của đất nước cho lĩnh vực này là một tất yếu khách quan và tỷ lệ phân bổ giữa "súng và bơ" luôn là vấn đề được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng.

Ngân sách Quốc phòng của Việt Nam chủ yếu để bảo đảm đời sống bộ đội, bảo đảm hoạt động của công nghiệp quốc phòng, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân. Với khả năng kinh tế của Việt Nam còn thấp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao, đang ưu tiên đầu tư cho thực hiện chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo, nên ngân sách quốc phòng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và "cần, kiệm" vẫn là kim chỉ nam hành động.

Báo cáo của ICD Research cho biết, theo thống kê, ngân sách quốc phòng Việt Nam trong năm 2011 là 3 tỷ USD, dự kiến sẽ đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm 2015 (tăng 2 tỷ USD). Hiện tại là khoảng 19,13%, trong giai đoạn dự báo sẽ tăng trưởng ở tốc độ CAGR 14,32%. Sự tăng trưởng chi tiêu quốc phòng này là phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế "khá ổn định" của Việt Nam. Trong suốt giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã phân bổ 31% ngân sách quốc phòng cho đầu tư ngành công nghiệp – quốc phòng và 69% để mua các trang thiết bị vũ khí của nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời kỳ dự báo 2011-2016, tổng ngân sách quốc phòng được đầu tư trong nước sẽ tăng trung bình lên tới con số 35%, tức là Việt Nam sẽ chú trọng nhiều hơn cho ngành quốc phòng trong nước.

Sách trắng quốc phòng

Nhằm mục đích bày tỏ quan điểm của Việt Nam về những vấn đề an ninh mới của khu vực và thế giới, Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố sách trắng về quốc phòng của Việt Nam. Sách trắng lần thứ nhất mang tên "Việt Nam củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc" vào năm 1998. Gồm 3 phần: Vì hòa bình, độc lập và phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh.

Sách trắng lần hai vào ngày 9 tháng 12 năm 2004 với tên gọi là "Quốc phòng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XXI", được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh, gồm 3 phần chính: Chính sách quốc phòng Việt Nam, Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Với chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác theo những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực đối với nước khác. Ngoài ra Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông. Cột mốc biên giới số 102 giữa [[Việt Nam và Trung Quốc tại Cửa khẩu quốc tế Lào Cai]] Sách trắng lần thứ ba vào ngày 8 tháng 12 năm 2009 với tên gọi là "Sách trắng Quốc phòng năm 2009" được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh với chủ trương duy trì và phát triển quốc phòng đủ mạnh, kiên trì chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việt Nam xây dựng quân đội "của dân, do dân, vì dân", có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các tranh chấp lãnh thổ và các tranh chấp khác bằng các biện pháp hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Việc xuất bản Sách trắng năm 2009 thể hiện mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Hiệp định về Biên giới

  • Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc
  • Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

Dưới Quân ủy Trung ương là Đảng bộ các Tổng cục, Quân khu, Cục trực thuộc Bộ và các đơn vị tương đương Quân đoàn trực thuộc Bộ. Đứng đầu là Bí thư thường là Chính ủy đảm nhiệm; Phó Bí thư là cấp trưởng đơn vị đó đảm nhiệm. Tùy theo số lượng đơn vị và quân số mà phân chia thành Đảng bộ cấp 2, cấp 3 và cấp cơ sở. Và đơn vị trực thuộc cấp cơ sở (tương đương Đại đội) thường được gọi là Chi bộ, đó là cấp tổ chức Đảng nhỏ nhất trong Quân đội.

Về tổ chức gồm Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Tổng cục, Cục chức năng, quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn, Học viện nhà trường và các đơn vị kinh tế trực thuộc Bộ.

Sơ đồ tổ chức thế=|viền|giữa|938x938px|Tổ chức Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tổ chức chính quyền hiện nay

Tổ chức quốc tế tham gia

*Hội nghị Tư lệnh Lực lượng Quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM)

Khu Kinh tế Quốc phòng

Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh (QP-AN) vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội của Đảng. Trong quá trình xây dựng, mỗi lĩnh vực kinh tế, xã hội, QP-AN đều có mục tiêu riêng. Nhưng khi kết hợp với nhau thì cần phải có sự gắn kết hài hòa các mục tiêu cụ thể để phục vụ cho mục tiêu chung.

Qua đó, có thể khái quát mục tiêu kết hợp kinh tế với QP-AN trong thời kỳ Hội nhập quốc tế là: xây dựng kinh tế phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nắm vững mục tiêu chung đó là cơ sở để điều chỉnh đúng mức mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong quá trình thực hiện sự kết hợp. Hơn nữa, cần nhận rõ những yếu tố tác động mới đối với quá trình thực hiện kết hợp kinh tế với QP-AN. Đó là tác động của toàn cầu hóa dẫn đến ảnh hưởng ngày càng lớn của kinh tế thế giới đối với nền kinh tế nước ta; là mối quan hệ giữa cạnh tranh với hợp tác và phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; là tốc độ gia tăng đầu tư kinh tế, xâm nhập thị trường của các nước vào nước ta; là sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế trong nước liên quan đến đối tượng kết hợp; là tính chất đa dạng, đan xen của nhiệm vụ QP-AN, đối ngoại trong mối quan hệ kết hợp. Và cần phải kết hợp toàn diện, nhưng cần tập trung vào trọng điểm.

Tùy viên Quốc phòng

Tính đến tháng 3 năm 2009, có hơn 20 quốc gia mà Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng hoạt động tại đó cụ thể như sau:

Bộ trưởng qua các thời kỳ

  • Bài chi tiết: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)

Thứ trưởng qua các thời kỳ

  • Bài chi tiết: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** thường gọi tắt là **Bộ trưởng Bộ Quốc phòng** là thành viên của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ
**Bộ Quốc phòng** là một Cơ quan cấp cao trong Nội các Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chức năng của Bộ là tổ chức, xây dựng và quản lý với trọng trách Phòng vệ
**Binh đoàn 15** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một đơn vị kinh tế quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Binh đoàn có tên giao dịch kinh tế là **Tổng
**Thanh tra Bộ Quốc phòng** là cơ quan của Bộ Quốc phòng, giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra
**Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam** chịu trách nhiệm giúp việc cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam trong chỉ huy, điều hành, quản lý, xây dựng quân đội và các nhiệm vụ
**Văn phòng Quân ủy Trung ương - Văn phòng Bộ Quốc phòng** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng
**Tổng Công ty Thành An** Phiên hiệu quân sự là **Binh đoàn 11** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là đơn vị doanh nghiệp quân đội thi công xây lắp các công trình quốc
**Tổng Công ty 28** trực thuộc **Tổng cục Hậu cần**, Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong những doanh nghiệp hàng đầu ở Việt Nam đầu tư đồng bộ hệ thống khép kín từ
**Tổng Công ty 36** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong những doanh nghiệp xây dựng hàng đầu của Quân đội hiện nay, được thành lập ngày 23/8/2011 tiền thân là Công
**Binh đoàn 16** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một đơn vị kinh tế quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Binh đoàn có tên giao dịch kinh tế là **Tổng
**Cục Kế hoạch và Đầu tư** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là cơ quan tham mưu và đảm bảo đầu ngành toàn quân về trang bị vật tư cấp chiến lược, nâng cao
**Xí nghiệp Liên hợp Z751** trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng Việt Nam là một doanh nghiệp Quân đội có nhiệm vụ sửa chữa, sản xuất Ô tô, Cơ khí, Tăng thiết
**Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng** (**TCCNQP**), cũng được biết đến dưới tên thương mại tiếng Anh là **Vietnam Defence Industry** (**VDI**; ), là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập
**Học viện Quốc phòng **trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là Học viện huấn luyện và đào tạo tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, cán bộ khoa học nghệ thuật quân sự đầu ngành
**Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng**** **là cơ quan đầu ngành về lĩnh vực bảo hiểm xã hội trong quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị, đặt dưới sự quản lý trực tiếp
nhỏ|302x302px|Sách trắng quốc phòng Việt Nam năm 2019 **Sách trắng quốc phòng của Việt Nam** là cuốn sách do Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố với toàn thế giới về những vấn đề cơ
**Viện Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng** trực thuộc Bộ Quốc phòng là cơ quan nghiên cứu tình hình quốc phòng, an ninh của khu vực và quốc tế; tham mưu cho Bộ Quốc
**Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam**, trước đây là **Viện chiến lược Quân sự**, là một cơ quan nghiên cứu chiến lược quân sự của Việt Nam, có nhiệm vụ nghiên
**Kênh Truyền hình Quốc Phòng Việt Nam** (viết tắt là **QPVN**) là kênh truyền hình cập nhật thông tin về Quân đội nhân dân Việt Nam và một số thông tin quân sự, quốc phòng
**Viện Công nghệ thông tin** là đơn vị trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển về lĩnh vực công nghệ thông tin cho
**Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp Quốc phòng** (**GAET**; ) trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 3035/ QĐ- BQP ngày 23 tháng 8 năm
**Tổng Công ty 319** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực xây dựng dân dụng, công nghiệp; công trình giao thông thủy lợi, rà phá bom mìn;
**Viện Công nghệ Quốc phòng Việt Nam** (Viện Công nghệ) là một đơn vị nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Quân sự trực thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, thành lập vào ngày
**Trường Cao** **đẳng** **Nghề số 13** trực thuộc **Tổng cục Hậu cần** là trường Cao đẳng đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ: Cao đẳng, Trung cấp nghề và sơ cấp nghề theo quy
**Ban Công đoàn Quốc phòng** trực thuộc Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 6 tháng 3 năm 1949 là cơ quan Công đoàn đầu ngành của toàn quân. ##
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Bộ đội Biên phòng Việt Nam** (**BĐBP,** ), hay **Biên phòng Việt Nam**, là lực lượng vũ trang nhân dân và là một bộ phận cấu thành nên Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây
**Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại** là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt Nam, cơ quan giám sát pháp lệnh liên quan tới An ninh và Quốc phòng. Thành viên
**Quân khu 2 **trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong bảy quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Quân khu 3** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Quân khu 5 **trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam** ( viết tắt **VNDPKO**), trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là cơ quan chuyên môn tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc. ##
**Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam**, phiên hiệu quân sự **Binh đoàn 18**, tên thương mại là **Vietnam Helicopters** (**VNH**), là một doanh nghiệp quốc phòng, an ninh trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt
**Quân khu 7** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và
**Quân khu 4** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong bảy quân khu hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam. Địa bàn Quân khu 4 có vị trí hết sức
Các quân khu hiện tại của Việt Nam **Quân khu 1** là đơn vị quân sự cấp quân khu, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý
**Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là cơ quan đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội dưới sự lãnh
**Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam** (tên tiếng Anh: **Vietnam International Defence Expo**, viết tắt: **Vietnam Defence**) là loạt sự kiện triển lãm quốc phòng ở Việt Nam do Bộ Quốc phòng Việt
**Cục Tài chính ** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu, giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài
**Quân khu 9** (trước đây là Chiến khu 9) thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý,
**Binh chủng Công binh** là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc Quân chủng Lục quân Bộ Quốc phòng Việt Nam, có chức năng bảo đảm các
**Tổng cục Hậu cần** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập vào ngày 11 tháng 7 năm 1950 là cơ quan đầu ngành Hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có
**Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng** (viết tắt: **Bộ Tư lệnh 86**) là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà
**Cục Đối ngoại** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là cơ quan tham mưu chiến lược đầu ngành về công tác đối ngoại quốc phòng cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.
**Cục Điều tra Hình sự ** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là cơ quan tham mưu giúp Bộ Quốc phòng thực hiện công tác quản lý Nhà nước về công tác điều tra
**Cục Kinh tế** là cơ quan được Bộ Quốc phòng Việt Nam ủy nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội
**Vụ Pháp chế** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là cơ quan có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lí nhà nước bằng pháp luật về lĩnh