✨Phật giáo Bộ phái

Phật giáo Bộ phái

phải|nhỏ|305x305px|Bản đồ các trung tâm địa lý chính của các trường phái Phật học lớn ở Nam Á, vào khoảng thời gian [[Huyền Trang du hành đến vào thế kỷ VII.
Màu đỏ: trường phái Sarvāstivāda phi Pudgalavāda
Màu cam: các trường Vibhajyavāda phi Dharmaguptaka
Màu vàng: Mahāsāṃghika
Màu lục: Pudgalavāda
* Màu xám: Dharmaguptaka
Lưu ý: các trường phái màu đỏ và xám đã đưa ra một số ý tưởng ban đầu của Phật giáo Đại thừa và trường phái màu cam là nhánh Sri Lanka (xem Tamrashatiya), nguồn gốc của Phật giáo Nguyên thủy hiện đại.]]

Thời kỳ Bộ phái đề cập đến giai đoạn một số cộng đồng saṅgha tu sĩ Phật giáo tách ra sớm nhất trong lịch sử Phật giáo. Sự phân chia nay ban đầu là do sự khác biệt về các lý giải trong Luật tạng và sau đó cũng là do sự khác biệt về giáo lý và sự cách biệt về địa lý của các nhóm tu sĩ.

Những cộng đồng saṅgha tách ra thành các bộ phái (nikāya) sơ khai đầu tiên (thường được cho là Sthavira nikāya và Mahāsāṃghika) ở khoảng thời gian đáng kể sau khi Thích-ca Mâu-ni qua đời. Theo học giả Collett Cox "hầu hết các học giả sẽ đồng ý rằng mặc dù nguồn gốc của những bộ phái được công nhận sớm nhất có trước thời kỳ [hoàng đế] Aśoka, nhưng sự chia tách thực sự của họ đã không xảy ra cho đến sau khi ông qua đời."

Sau đó, những bộ phái ban đầu này tiếp tục chia thành nhiều bộ phái khác như Sarvāstivādin, Dharmaguptaka, và Vibhajyavāda, và cuối cùng, được ghi nhận có khoảng 18 hoặc 20 bộ phái khác nhau theo các tài liệu truyền thống Phật giáo. Trên thực tế, có một số ghi chép trùng lặp về các bộ phái trong các tài liệu truyền thống Phật giáo, rất có thể là do nhầm lẫn giữa các tên gọi thay thế của các bộ phái. Các học giả cho rằng các con số 18 truyền thống chỉ là mang tính quy ước.

Các tài liệu kinh văn được chia sẻ bởi các bộ phái sơ khai thường được gọi là kinh văn Phật giáo Sơ kỳ và đây là nguồn quan trọng để hiểu những điểm tương đồng và khác biệt về giáo lý của họ.

Lịch sử phát triển

Đại hội kết tập đầu tiên

Theo kinh điển (Cullavagga XI.1 ff), ba tháng sau khi Thích-ca Mâu-ni qua đời, Đại hội kết tập đầu tiên được tổ chức tại Rajagaha bởi một số đệ tử của ngài đã đắc quả A-la-hán. Về điểm này, truyền thống Theravāda cho rằng không có xung đột nào về những gì Đức Phật đã dạy xảy ra; các bài giảng được chia thành nhiều phần khác nhau và mỗi phần được giao cho một trưởng lão và các học trò của ông ấy ghi nhớ.

Tuy nhiên, không hẳn các nội dung kinh văn kết tập trong đại hội được một số trưởng lão trong tăng đoàn đồng thuận hoàn toàn. Trưởng lão Purāṇa được ghi nhận đã tuyên bố là chỉ thọ trì những gì mình trực tiếp nghe từ bậc Đạo sư. " [Luật tạng: Cullavagga XI:1:11]. Theo đó, Purāṇa tuyên bố có 8 điều giới luật mà ông thọ ký lại không có trong Luật tụng.

Một số học giả phủ nhận rằng hội đồng đầu tiên đã thực sự diễn ra.

Đại hội kết tập thứ hai

Đại hội kết tập lần thứ hai đã diễn ra khoảng một trăm năm sau Đức Phật nhập Niết bàn. Hầu như tất cả các học giả đều đồng ý rằng Đại hội kết tập thứ hai là một sự kiện lịch sử. Các tài liệu truyền thống mô tả liên quan đến Đại hội kết tập thứ hai khá là khó hiểu và mơ hồ, nhưng hầu hết học giả đều đồng ý rằng kết quả của nó là cuộc chia rẽ đầu tiên trong tăng đoàn, giữa Sthavira nikāya và Mahāsāṃghika, dù không có sự thống nhất về những nguyên nhân thực sự gây chia rẽ.

Thời kỳ giữa Đại hội thứ hai và thứ ba

Các nguồn văn bản đồng ý rằng sự chia rẽ đầu tiên là giữa Sthaviravāda và Mahāsāṃghika. Tuy nhiên, sau sự phân chia ban đầu này, nhiều sự phân tách tiếp tục diễn ra sau đó. Một số học giả hiện đại cho rằng sự chia rẽ đầu tiên xảy ra vào thời kỳ giao thoa giữa Đại hội thứ hai và thứ ba, và có lẽ là về giới luật. Tuy nhiên, chỉ có hai nguồn cổ (danh sách thứ ba của Dīpavaṃsa và Bhavya) đặt sự kiện này trước thời kỳ Aśoka, và không có nguồn nào cho rằng việc chia rẽ này là do tranh chấp về thực hành Luật tạng.

Đại hội thứ ba dưới thời Aśoka

Phần lớn tài liệu truyền thống Phật giáo cho rằng đã có 18 bộ phái được hình thành, nhưng các nguồn khác nhau lại đưa ra các danh sách khác nhau về chúng. Do đó, các học giả hiện đại kết luận rằng con số này chỉ mang tính quy ước.

Truyền thống Thượng tọa bộ cho rằng Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba đã được tổ chức vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, dưới sự bảo trợ của Aśoka. Tuy có những giả thuyết khác nhau về tính xác thực của Đại hội thứ ba này, nhưng các học giả hiện đại thường chấp nhận rằng một hoặc một số tranh chấp đã xảy ra dưới triều đại của Aśoka, liên quan đến cả vấn đề giáo pháp và giới luật (vinaya), dù những tranh chấp này có thể không quá quan trọng đến mức hình thành một đại hội kết tập. Vào thời Aśoka, bộ phái Sthavira đã chia rẽ thành ba bộ phái nhỏ hơn, có sự khác biệt về giáo pháp, nhưng chưa thực sự trở thành những tông phái Phật giáo riêng biệt như sau này.

Sự phân biệt liên quan đến sự tồn tại của các pháp (dhamma) trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Phiên bản kinh điển được thành lập tại hội đồng thứ ba, bao gồm Luật tạng, Kinh tạngLuận tạng (gọi chung là "Tam tạng"), đã được con trai của Hoàng đế Aśoka, Đại đức Mahinda, mang đến Sri Lanka. Tại đây, cuối cùng các kinh điển cũng lập thành văn tự bằng ngôn ngữ Pali. Bộ kinh điển Pāli vẫn là bộ kinh điển Nikāya hoàn chỉnh nhất còn sót lại, mặc dù phần lớn bộ kinh điển của Sarvāstivādin còn tồn tại trong bản dịch chữ Hán, một số phần khác tồn tại trong bản dịch tiếng Tạng, các đoạn còn sót lại trong các bản chép tay tiếng Phạn, trong khi các phần của các kinh điển khác nhau (đôi khi không được xác định), tồn tại bằng chữ Hán và các đoạn trong các phương ngữ Ấn Độ khác nhau.

Sự phát triển trong và sau Đại hội thứ ba

Dù sự thật đằng sau lời tường thuật của Theravādin là gì đi nữa, thì vào khoảng thời kỳ Aśoka, sự chia rẽ sâu sắc hơn bắt đầu xảy ra trong Phật giáo và một số bộ phái bổ sung đã xuất hiện, bao gồm Sarvāstivāda và Saṃmitīya. Tất cả các trường phái sơ khai của Phật giáo Nikāya cuối cùng được gọi chung là "mười tám bộ phái" trong các nguồn sau này. Ngoại trừ Theravāda, không có bộ phái nào trong số những trường phái đầu tiên này tồn tại sau thời kỳ cuối thời trung cổ, dù một số lượng đáng kể tài liệu kinh điển của chúng vẫn còn tồn tại, chủ yếu là qua các bản dịch chữ Hán. Hơn nữa, nguồn gốc của các học thuyết Mahāyāna cụ thể có thể được sáng tỏ trong giáo lý của một số trường phái sơ khai này, đặc biệt là trong Mahāsānghika và Sarvāstivāda.

Trong và sau hội đồng kết tập thứ ba, các thành viên của nhóm Sthavira tự gọi mình là Vibhajjavādin. Một phần của nhóm này được truyền đến Sri Lanka và một số khu vực nhất định ở miền nam Ấn Độ, chẳng hạn như Vanavasi ở phía tây nam và vùng Kañci ở phía đông nam. Nhóm này sau đó không còn tự gọi mình cụ thể là "Vibhajjavādin", mà quay lại gọi mình là "Theriya", theo tên gọi của Thera (Sthavira) trước đó. Tuy nhiên sau đó, vào một thời điểm nào đó trước thời Dipavamsa (thế kỷ thứ 4), danh xưng Theravāda theo tiếng Pali đã được thông qua và được sử dụng kể từ đó cho nhóm này cho đến tận ngày nay.

Các Pudgalavādin còn được gọi là Vatsiputrīya theo tên người sáng lập giai thoại của họ. Sau đó nhóm được gọi là Sammitīya và tan rã vào khoảng thế kỷ 9 hoặc 10 CN. Tuy nhiên, trong phần lớn thời kỳ đầu thời trung cổ, trường phái Sammitīya về số lượng là nhóm Phật giáo lớn nhất ở Ấn Độ, với số lượng tín đồ nhiều hơn tất cả các bộ phái khác cộng lại. Trường phái Sarvāstivādin nổi bật nhất ở phía tây bắc Ấn Độ và cung cấp một số học thuyết sau này được Mahāyāna áp dụng. Một nhóm khác có liên hệ với Sarvāstivāda là trường phái Sautrāntika, chỉ thừa nhận thẩm quyền của kinh và bác bỏ pháp môn do cánh Vaibhāṣika của Sarvāstivāda truyền và giảng dạy. Dựa trên những cân nhắc về văn bản, người ta cho rằng các Sautrāntika thực sự là tín đồ của Mūlasarvāstivāda. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Sarvāstivāda và Mūlasarvāstivāda là không rõ ràng.

Etienne Lamotte chia các trường phái Phật giáo chính thống thành ba loại giáo lý chính:

Thuyết “Tự ngã”, như Pudgalavādin Vātsīputrīya và Saṃmittīya

Thuyết "Hiện thực", cụ thể là Theravāda tán thành Abhidharma và Sarvāstivāda Ābhidharmikas

Thuyết “Duy danh”, như Mahāsāṃghika Prajñaptivādin, và có thể là những Sthaviravadin không tán thành Abhidharma.

Giữa thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên và thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, các thuật ngữ "Mahāyāna" (Đại thừa) và "Hīnayāna" (Tiểu thừa) lần đầu tiên được sử dụng trong kinh văn, chẳng hạn như trong Kinh Pháp Hoa .

Đại thừa

Mặc dù các bộ phái sơ kỳ của Phật giáo đôi khi được phân loại một cách lỏng lẻo là "Hīnayāna" trong thời hiện đại, nhưng điều này không nhất thiết phải chính xác. Theo Jan Nattier, Mahāyāna không bao giờ đề cập đến một bộ phái Phật giáo riêng biệt (nikāya), mà là tập hợp các lý tưởng và học thuyết dành cho các vị bồ tát. Paul Williams cũng đã lưu ý rằng Đại thừa chưa bao giờ và cũng chưa bao giờ cố gắng có một dòng giới luật hay giới luật riêng biệt từ các trường phái Phật giáo sơ kỳ, và do đó, mỗi bhikṣu hoặc bhikṣuṇi trung thành với Đại thừa đều chính thức thuộc về một trường phái sơ kỳ.

Tư cách thành viên trong các nikāya này, hoặc các dòng truyền thừa, vẫn tiếp tục cho đến ngày nay với các truyền thống Dharmaguptaka (Pháp Tạng bộ) ở Đông Á, và Mūlasarvāstivāda (Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ) trong Phật giáo Tây Tạng. Do đó, Mahāyāna chưa bao giờ là một bộ phái đối địch riêng biệt của các trường phái sơ kỳ. Paul Harrison làm rõ rằng trong khi các tu sĩ Đại thừa thuộc về một nikāya, không phải tất cả các thành viên của một nikāya đều là những người theo Đại thừa. Theo ghi chép của các du tăng Trung Quốc từng đến Ấn Độ, chúng ta được biết rằng các tăng sĩ Đại thừa và không phải Đại thừa ở Ấn Độ thường sống trong cùng một tu viện cạnh nhau. Ngoài ra, Isabella Onians lưu ý rằng các tác phẩm Đại thừa hiếm khi sử dụng thuật ngữ Hīnayāna, thay vào đó thường sử dụng thuật ngữ Śrāvakayāna.

Đại sư Nghĩa Tịnh đã viết về mối quan hệ giữa các "phương tiện" (yāna, thừa) khác nhau và các trường phái Phật giáo sơ kỳ ở Ấn Độ. Ông viết, "Ở Tây Thiên tồn tại nhiều phân khu của các trường có nguồn gốc khác nhau, nhưng chỉ có bốn trường chính có truyền thống liên tục." Những trường phái này là Mahāsāṃghika, Sthavira, Mūlasarvāstivāda và Saṃmitīya. Giải thích về sự liên kết giáo lý của họ, sau đó ông viết, "Trường phái nào trong bốn trường phái nên được nhóm lại với Đại thừa hay với Tiểu thừa vẫn chưa được xác định." Điều đó có nghĩa là, không có sự tương ứng đơn giản giữa một dòng tự viện Phật giáo, và liệu các thành viên của nó có học các giáo lý "Hīnayāna" hay "Mahāyāna" hay không.

Các du tăng Trung Quốc

Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các nhà sư từ Trung Quốc như Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh đã hành hương đến Ấn Độ và viết những câu chuyện về chuyến đi của họ khi họ trở về nhà. Những ghi chép du hành của Trung Quốc này tạo thành những nguồn thông tin vô cùng quý giá liên quan đến tình trạng của Phật giáo ở Ấn Độ trong thời kỳ đầu thời trung cổ.

Vào thời điểm các đại sư Huyền Trang và Nghĩa Tịnh đến thăm Ấn Độ, có năm trường phái Phật giáo sơ khai mà họ đề cập đến thường xuyên hơn nhiều so với những trường phái khác. Họ nhận xét rằng Sarvāstivāda/Mūlasarvāstivāda, Mahāsāṃghika, và Saṃmitīya là những trường phái Phật giáo nguyên thủy chính vẫn còn tồn tại ở Ấn Độ, cùng với bộ phái Sthavira. Dharmaguptakas tiếp tục được tìm thấy ở Gandhāra và Trung Á, dọc theo Con đường Tơ lụa.

Mười tám bộ phái

Các tài liệu thường đề cập đến 18 bộ phái Phật giáo trong thời kỳ này. Mặc dù vậy, vẫn chưa có sự chia rẽ về thể chế trong saṅgha. Đại sư Huyền Trang đã quan sát ngay cả khi Đại thừa bắt đầu xuất hiện từ thời đại này rằng các nhà sư của các bộ phái khác nhau vẫn sống cạnh nhau trong tự viện và tham dự các buổi thuyết giảng giống nhau. Chỉ có những cuốn sách mà họ đọc là khác nhau. Thứ hai, không có nguồn lịch sử nào có thể thống nhất tên của "18 bộ phái" này là gì. Do đó, nguồn gốc của thuật ngữ "18 bộ phái" này là không rõ ràng.

Dưới đây là danh xưng của các bộ phái, được đưa ra bởi các nguồn khác nhau.

Theo Dipavamsa

Danh sách này được lấy từ biên niên sử Sri Lanka, Dipavamsa (thế kỷ thứ 3–4 CN) và Mahavamsa (thế kỷ thứ 5 CN).

  • Sthaviravāda / Vibhajjavāda / Theravāda Mahīśāsaka – phân ly đầu tiên * Sarvāstivāda – phân ly thứ ba *** Kāśyapīya – phân ly thứ tư – phân ly thứ năm ** Sautrāntika – phân ly thứ sáu * Dharmaguptaka – phân ly thứ ba * Vatsīputrīya – phân ly đầu tiên – phân ly thứ hai Bhadrayānīya – phân ly thứ hai Sannāgarika – phân ly thứ hai *** Saṃmitīya – phân ly thứ hai
  • Gokulika – phân ly đầu tiên ** Prajñaptivāda – phân ly thứ hai Bahuśrutīya – phân ly thứ hai Ekavyahārikas – phân ly đầu tiên Caitika – phân ly thứ ba, theo Dipavamsa, nhưng trong Mahavamsa, nó được cho là phát sinh từ Pannati và Bahussutaka

Ngoài ra, Dipavamsa liệt kê sáu bộ phái sau đây mà không xác định các trường phái phát sinh từ đó:

  • Hemavatika (tiếng Phạn: Haimavata)
  • Rajagiriya
  • Siddhatthaka
  • Pubbaseliya
  • Aparaseliya (tiếng Phạn: Aparaśaila)
  • Aparajagirika

Theo Vasumitra

Danh sách này được lấy từ Samayabhedo Paracana Cakra, tác giả của nó là Vasumitra (mất năm 124 TCN), một tu sĩ của phái Nhất thiết hữu bộ.

  • Sthaviravāda – phân ly đầu tiên; được Sarvāstivādins gọi là "Trường phái Sthavira nguyên thủy", nhưng trường phái này chỉ có ảnh hưởng ở phía bắc Ấn Độ. Sarvāstivāda – phân ly đầu tiên * Vatsīputrīya – phân ly thứ hai – phân ly thứ ba Bhadrayānīya – phân ly thứ ba Saṃmitīya – phân ly thứ ba Sannāgarika – phân ly thứ ba * Mahīśāsaka – phân ly thứ tư ** Dharmaguptaka – phân ly thứ năm ** Kāśyapīya – phân ly thứ sáu Sautrāntika – phân ly thứ bảy
  • Ekavyahārikas – phân ly đầu tiên Lokottaravāda – phân ly đầu tiên Gokulika – phân ly đầu tiên Bahuśrutīya – phân ly thứ hai Prajñaptivāda – phân ly thứ ba Caitika – phân ly thứ tư Apara Śaila – phân ly thứ tư Uttara Śaila – phân ly thứ tư

Theo Vinitadeva

Vinitadeva (khoảng 645–715) là một tu sĩ Mūlasarvāstivādin .

  • Sthaviravāda Jetavaniya Abhayagirivasin ** Mahaviharavasin
  • Sammatiya Kaurukullaka Avantaka ** Vatsīputrīya
  • Sarvastivadin Mūlasarvāstivādin Kasyapiya Mahisasaka Dharmaguptaka Bahuśrutīya Tamrasatiya ** Vibhajyavadin
  • Purvasaila Aparasaila Haimavata Lottaravadin ** Prajñaptivāda

Theo Śāriputraparipṛcchā

Śāriputraparipṛcchā là một sử liệu của Mahāsāṃghikan .

  • Sthaviravāda Sarvāstivāda ** Mahisasaka Dharmaguptaka * Suvarsa Vatsīputrīya

    Bhadrayaniya Sammatiya * Sannagarika Kāśyapīya kinh vadin

  • Vyavahara Lokottaravāda gokulika Bahuśrutīya Prajñaptivāda Mahadeva Caitika Uttarashaila

Hai mươi bộ phái theo kinh điển Đại thừa Hán ngữ

Sthaviravāda () được chia thành 11 bộ phái. Đó là: Sarvāstivādin (), Haimavata (), Vatsīputrīya (), Dharmottara (), Bhadrayānīya (), Sammitīya (), Channagirika (), Mahisasaka (), Dharmaguptaka (), Kāśyapīya (), Sautrāntika ().

  • Sthaviravāda, sau này là Sarvāstivādin * Vatsīputrīya ** Dharmottara Bhadrayānīya Sammitīya *** Channagirika ( Sannāgarika ) Mahisasaka ** Dharmaguptaka ** Kāśyapīya Sautrāntika

Mahāsāṃghika () được chia thành 9 bộ phái. Có: Ekavyahārika (), Lokottaravāda (), Gokulika (), Bahuśrutīya (), Prajñaptivāda (), Caitika (), Aparaśaila () ), và Uttaraśaila ().

  • Ekavyahārika Caitika Lokottaravādin Aparaśaila gokulika Uttaraśaila Bahuśrutīya Prajñaptivāda

Danh sách kết hợp

  • Sthaviravāda ** Pudgalavāda (khoảng 280 TCN) *** Vatsīputrīya (thời Aśoka ) tên sau: Saṃmitīya

    Bhadrayānīya Sannagarika Vibhajjavāda (trước 240 TCN; dưới thời Aśoka ) ** Theravāda (khoảng 240 TCN) (Kāśyapīya (sau 232 TCN)) * (Mahīśāsaka (sau 232 TCN)) ** (Dharmaguptaka (sau 232 TCN)) Sarvāstivāda (c. 237 TCN) * (Kāśyapīya (sau 232 TCN)) * (Mahīśāsaka (sau 232 TCN)) *** (Dharmaguptaka (sau 232 TCN)) Sautrāntika (giữa 50 TCN và c. 100 CE) Mūlasarvāstivāda (thế kỷ thứ 3 và thứ 4) Vaibhāṣika

  • Ekavyahārika (thời Aśoka ) Lokottaravāda Gokulika (trong Aśoka ) Bahuśrutīya (cuối thế kỷ thứ ba TCN) * Prajñaptivāda (cuối thế kỷ thứ ba TCN) * Caitika (giữa thế kỷ thứ nhất TCN) Apara Śaila *** Uttara Śaila

Học giả Phật giáo Canada nổi tiếng AK Warder (Đại học Toronto) xác định 18 bộ phái Phật giáo đầu tiên sau đây (theo thứ tự thời gian gần đúng): Sthaviravada, Mahasamghika, Vatsiputriya, Ekavyavaharika, Gokulika (aka Kukkutika, v.v. ), Sarvastivada, Lokottaravāda, Dharmottariya, Bhadrayaniya, Sammitiya, Sannagarika, Bahusrutiya, Prajnaptivada, Mahisasaka, Haimavata (hay còn gọi là Kasyapiya ), Dharmaguptaka, Caitika, và Apara và Uttara (Purva) Saila. Warder nói rằng đây là những trường phái Phật giáo đầu tiên vào khoảng năm 50 trước Công nguyên, cùng khoảng thời gian mà Kinh điển Pali lần đầu tiên được cam kết viết và ngày bắt đầu giả định của giáo phái Nguyên thủy, mặc dù thuật ngữ 'Theravada' không được sử dụng trước thế kỷ thứ tư. thế kỷ CE (xem Ajahn Sucitto, [http://ajahnsucitto.org/articles/what-is-theravada-2012/ "What Is Theravada"] (2012); xem thêm AK Warder, Indian Buddhism, 3rd rev. ed. (Delhi: Motilal Banarsidass, 2000), chương 8 và 9).

Di sản

Trường phái Theravāda của Sri Lanka, Myanmar và Thái Lan là hậu duệ của trường phái Sthaviravādin và (cụ thể hơn) trường phái Vibhajjavāda. Nó đã trải qua hai lần thay đổi tên. Trong các tài liệu của Ấn Độ, đôi khi nó được gọi là "Tāmraparnīya" (dòng Sri Lanka), nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy điều này đề cập đến bất kỳ thay đổi nào trong giáo lý hoặc kinh sách, trong khi rất rõ ràng là nó đề cập đến vị trí địa lý. Vào một thời điểm nào đó trước khi tài liệu Dipavamsa ra đời (thế kỷ thứ 4), nó đã được đổi thành "Theravāda", có lẽ để nhấn mạnh lại mối quan hệ với nguyên bản "Sthaviravāda", là phiên bản tiếng Phạn của thuật ngữ Pāli "Theravāda".

Trường phái Theravāda là trường phái duy nhất còn lại gần như hoàn toàn phù hợp với quan điểm triết học của các bộ phái sơ khai. Tuy nhiên, người ta thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các cộng đồng Theravādin khác nhau, thường liên quan đến tính nghiêm ngặt của việc thực hành giới luật và thái độ đối với abhidhamma . Tuy nhiên, cả hai điều này đều là những khía cạnh tác động của các nhóm Vibhajjavādin đối với Tam tạng kinh điển, và sự khác biệt giữa các nhóm Theravāda hiện tại chủ yếu là sự nhấn mạnh về một khía cạnh nào đó, chứ không phải nội dung, của Tam tạng kinh điển hoặc các chú giải. Tipiṭaka của Theravāda và nội dung chính các bài luận của nó được cho là đến từ (hoặc bị ảnh hưởng nặng nề bởi) Sthaviravādin và đặc biệt là các nhánh Vibhajjavādin sau đó.

Di sản của các bộ phái sơ kỳ khác được bảo tồn trong các truyền thống Đại thừa khác nhau. Tất cả các trường phái của Phật giáo Tây Tạng đều sử dụng luật Mūlasarvāstivāda và nghiên cứu về luận pháp của Nhất thiết hữu bộ, được bổ sung bằng các văn bản Đại thừa và Kim cương thừa. Phật giáo Trung Quốc sử dụng Luật tạng của Dharmagupta, và cũng có các phiên bản của các bộ phái khác. Những mảnh rời rạc kinh văn từ các bộ phái này cũng tồn tại như Mahāvastu của Mahāsānghika.

Thảo luận về sự khác biệt trong quan điểm của họ bao gồm Kathāvatthu và bản dịch Hán ngữ hoặc Tạng ngữ của Samayabhedoparacanacakra (異部宗輪論, Dị bộ tông luân luận), Abhidharmamahāvibhāsā-śāstra (大毘婆沙論, Đại tỳ-bà-sa luận), Abhidharmakośa-śāstra (俱舍論, Câu-xá luận), Abhidharma-nyāyānusāra (順正理論, Thuận chính luận), Abhidharma-kośa-samaya-pradīpikā (顯宗論, Hiền tông luận)...

Niên đại

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|305x305px|Bản đồ các trung tâm địa lý chính của các trường phái Phật học lớn ở Nam Á, vào khoảng thời gian [[Huyền Trang du hành đến vào thế kỷ VII.
* Màu đỏ: trường
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
Thuật ngữ **Phật giáo sơ kỳ** có thể đề cập đến hai thời kỳ riêng biệt trong Lịch sử Phật giáo, mà cả hai có thể được định nghĩa riêng rẽ hoặc gộp chung vào
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Giới luật Phật giáo**, thường được dùng để chỉ đến khái niệm Tỳ-nại-da () trong Phật giáo. Dù vậy, theo nghĩa rộng, nó vẫn đề cập đến các khái niệm Phật giáo khác như Thi-la
**Thánh Thiên** (**_Āryadeva_**, 聖天, **_Ca-na-đề-bà_**, **_Đề-bà_**, thế kỷ VI sau công nguyên) là một luận sư Phật giáo nổi tiếng của Ấn Độ, đệ tử trực tiếp của luận sư Long Thụ, tổ thứ 15
**Biến cố Phật giáo 1963**, còn được gọi là **sự kiện đàn áp Phật giáo 1963, pháp nạn Phật giáo Việt Nam 1963 **hay gọi đơn giản là **phong trào Phật giáo 1963 **là một
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Phật giáo Thượng tọa bộ**, hay **Phật giáo Theravada**, là một trong 3 truyền thống lớn của Phật giáo hiện đại. Khởi nguồn từ Ấn Độ, Phật giáo Thượng tọa bộ được hình thành và
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
nhỏ|phải|Bánh xe Pháp luân **Biểu tượng Phật giáo** (_Buddhist symbolism_) là việc sử dụng các biểu tượng (_pratīka_) như một phương pháp thể hiện nghệ thuật nhằm trình bày các phương diện triết lý Phật
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|**Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông**:
**Đỏ**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Bắc truyền** vào Đông Á.
**Xanh**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Nam truyền** vào Đông
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các cộng đồng Tăng đoàn (_Sangha_) đã nhóm họp định kỳ để giải quyết các tranh chấp về giáo lý và kỷ luật cũng như sửa đổi và chỉnh
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau
nhỏ|phải|Một ấn phẩm Phật giáo tại Lào, có chú thích bằng tiếng Anh **Phật giáo hiện đại** (_Buddhist modernism_ hay _Neo-Buddhism_) là những phong trào Phật giáo tân thời dựa trên sự diễn giải lại
**Phật giáo Trung Hoa** (), còn gọi là **Phật giáo Trung Quốc**, hay chính xác hơn là **Phật giáo Hán truyền** (tiếng Trung giản thể :汉传佛教; tiếng Trung phồn thể :漢傳佛教; bính âm: _Hànchuán Fójiào_),
nhỏ|phải|Đức Pháp vương [[Gyalwang Drukpa được cho là hóa thân của Tùng Tán Can Bố]] **Hoá thân** (tiếng Phạn: _Nirmāṇa-kāya_; tiếng Tây Tạng: _Tulku_ སྤྲུལ་སྐུ་; tiếng Trung Quốc: _huàshēn_ 化身; tiếng Nhật: _keshin_), còn gọi
**Đại chúng bộ** (chữ Hán: 大眾部, tiếng Phạn: महासांघिक, **'; bo. ཕལ་ཆེན་པའི་སྡེ་པ་, phiên âm THL: _pel chen pé dé pa_), còn gọi là **Ma-ha-tăng-kỳ bộ** (摩訶僧祇部), giản lược thành **Tăng-kỳ bộ** (僧祇部), **Thánh đại chúng
nhỏ|phải|Chuỗi tràng hạt Phật giáo **Chuỗi tràng hạt** là một vật dụng trong việc tụng kinh Phật giáo gồm một vòng xâu hạt. Hạt có thể làm bằng hàng thảo mộc, bằng xương, bằng đá
nhỏ|phải|Một món ăn chay miến xào mộc nhĩ nhỏ|phải|Một dĩa đồ chay **Ẩm thực Phật giáo** (_Buddhist cuisine_) là một phần của ẩm thực châu Á được các tu sĩ, tăng lữ Phật giáo (Bhikkhu/Tỳ
thumb|Tháp Phước Duyên thuộc [[chùa Thiên Mụ - biểu tượng đặc trưng ở Thừa Thiên Huế]] **Tháp** (chữ Hán: 塔) còn được gọi là **bảo tháp** (bửu tháp), **Phật tháp** hay **tháp chùa** là công
nhỏ|224x224px|Các mộc bản [[Bát vạn Đại tạng kinh, mộc bản in kinh văn Phật giáo Hán ngữ lâu đời nhất còn được bảo tồn nguyên vẹn tại Chùa Haeinsa, Hàn Quốc.]] **Phật giáo Đông Á**
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura
**Phật giáo tại Campuchia** (, ), còn gọi là **Phật giáo Khmer**, đã tồn tại từ ít nhất là vào thế kỷ thứ 5. Ở thời kỳ mới du nhập, nó là một hình thức
:_Xem các nghĩa khác tại sen_ nhỏ|[[Sen|Hoa sen một trong những biểu tượng của Phật giáo]] Thai tạng giới Mạn-đà-la (sa. garbhadhātumaṇḍala) Sen được đặt bên cạnh tượng Phật Thích-ca tại Minh Nhật Hương Thôn,
nhỏ|phải|Một thiền sư thế tục **Phật giáo thế tục** (_Secular Buddhism_) hay **Phật giáo thực dụng** (_Pragmatic Buddhism_) là một thuật ngữ nghĩa rộng chỉ về một loại hình Phật giáo ngày nay dựa trên
_Bài này viết về một thuật ngữ trong Phật giáo, các nghĩa khác xem Giới (định hướng)_. Có hai thuật ngữ **Giới** đồng âm dị nghĩa trong Phật học. ## Giới (戒) **Giới(戒) là gì?**
**Thiên** (zh. 天, sa., pi. _deva_), còn gọi là **Thiên nhân**, **Thiên thần**; với nguyên nghĩa Phạn _deva_ là "người sáng rọi", "người phát quang", trong văn hóa Phật Giáo là một trong 8 loại
Những ngôi chùa của [[Wat Arun được xây dựng và sắp xếp để mô phỏng Vũ trụ Phật giáo]] **Vũ trụ học Phật giáo** là sự mô tả về hình dạng và sự tiến hóa
nhỏ|phải|Kiến trúc lầu chuông ở [[Tu viện Vĩnh Nghiêm tại Quận 12]] nhỏ|phải|[[Chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức]] nhỏ|phải|Chùa Pisesaram ở Trà Vinh **Kiến trúc Phật giáo** (_Buddhist architecture_) được hình thành, phát triển ở
nhỏ| Đại học và tu viện Phật giáo [[Nalanda là một trung tâm học tập lớn ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ thứ 12 SCN.]] **Triết học Phật giáo**
**Thập nhị bộ kinh** (chữ Hán: 十二部經), còn gọi là **Thập nhị phần giáo** (十二分教), **Thập nhị phần thánh giáo** (十二分聖教; tiếng Phạn:_dvādaśāṅga-dharma-pravacana_), **Thập nhị phần kinh** (十二分經), **Thập nhị Phật ngữ** (十二佛語; tiếng Phạn:
nhỏ|Tượng đá [[Phật Thích Ca tọa thiền với thế bán già và ấn thiền tại Chùa Gal Viharaya, Polonnaruwa, Sri Lanka.]] Trong Phật giáo, có nhiều phương pháp và kĩ thuật **thiền** khác nhau. Một
**Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai** (hay còn gọi là đại hội Phật giáo lần thứ 2) diễn ra sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt khoảng hơn 100 năm
thumb|[[Tháp Mahabodhi, một Di sản thế giới của UNESCO, là một trong 4 thánh tích của Phật Thích-ca, nơi ông đã chứng đạo. Bảo tháp được vua Ấn Độ Ashoka xây vào thế kỷ thứ
**Phật giáo Nichiren** (日蓮仏教, âm Hán-Việt: Nhật Liên Phật giáo) là một tông phái của Phật giáo Đại thừa dựa trên giáo huấn của Đại sư Nichiren (1222-1282), một vị cao tăng Nhật Bản của
nhỏ|Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo nhỏ|phải|Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo [[Huỳnh Phú Sổ]] **Phật giáo Hòa Hảo** là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939,
nhỏ|phải|Bức tượng Đức Phật Thích Ca (Kim thân Phật tổ) tại Chùa Giác Ân ở Thành phố Hồ Chí Minh **Đạo đức Phật giáo** (_Buddhist ethics_) hay **đạo đức nhà Phật** là đạo đức, lẽ