✨Phật giáo Nam truyền

Phật giáo Nam truyền

[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông
Đỏ:Hướng truyền giáo của Phật giáo Bắc truyền vào Đông Á.
Xanh:Hướng truyền giáo của Phật giáo Nam truyền vào Đông Nam Á.]]

Phật giáo Nam truyền (zh.南傳佛教) hay Phật giáo Nam tông, Truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, là một thuật ngữ học thuật được dùng để chỉ một trong ba trường phái truyền thống Phật giáo lớn trên thế giới phân loại theo địa lý. Theo đó, Phật giáo Nam truyền dùng để chỉ truyền thống Phật giáo chủ yếu được truyền bá từ Ấn Độ theo hướng Sri Lanka, lan rộng ở Đông Nam Á và Tây Song Bản Nạp (Trung Quốc). Trong khi đó, truyền thống Phật giáo Bắc truyền cũng được truyền bá từ gốc Ấn Độ, nhưng qua Trung Á, phổ biến ở Trung Quốc, lan rộng ở khu vực Đông Bắc Á và một phần ở Đông Nam Á.

Khái quát

thumb|Các truyền thống Phật giáo chính:
Xanh dương (Mật tông)
Vàng (Bắc truyền)
Đỏ (Nam truyền) Phật giáo Nam truyền được truyền bá từ Ấn Độ đến Sri Lanka và các nước trong lục địa Đông Nam Á, đặc biệt là Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Nam Bộ Việt Nam. Đặc điểm chung của hệ Phật giáo Nam truyền là sử dụng hệ kinh điển Pali làm tiêu chuẩn trong thực hành tu tập. Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền, kinh văn Pali là những văn bản ghi lại nguyên vẹn những lời giảng của Đức Phật trong suốt cuộc đời truyền bá giáo pháp của mình. Do sự suy tàn của Phật giáo Ấn Độ, nguồn kinh văn Pali chủ yếu được bảo tồn ở Sri Lanka và được phân phối lại cho các vùng lãnh thổ còn lại. Tuy tồn tại những bản dịch bằng ngôn ngữ bản địa để phục vụ cho việc tìm hiểu giáo pháp, nhưng các tu sĩ Nam truyền vẫn sử dụng nguyên ngữ Pali trong quá trình tu tập.

Tuy có nguồn gốc tập hợp từ nhiều bộ phái khác nhau, ngày nay, chỉ còn duy nhất hệ phái Thượng tọa bộ (Theravāda) là đại biểu cho hệ Phật giáo Nam truyền. Theo các nhà nghiên cứu, trước thế kỷ XIII, cả hai nhánh Phật giáo Bắc truyền lẫn Nam truyền đều đã được truyền bá ở Đông Nam Á. Điều này được chứng minh bởi một số quan niệm của Đại thừa xuất hiện phổ biến trong Phật giáo Đông Nam Á (chẳng hạn như việc thờ cúng Quán Thế Âm) phản ánh sự hiện diện sớm của hệ tư tưởng Đại thừa trong truyền thống Phật giáo Nam truyền. Sự tiếp xúc liên tục giữa Đông Nam Á và Ấn Độ cũng cung cấp thêm nhiều yếu tố của các trường phái Đại thừa và Kim cương thừa, cũng như của các bộ phái sơ kỳ khác vào Đông Nam Á. Chỉ sau khi Phật giáo ở Ấn Độ suy tàn, với cơ sở truyền giáo từ Sri Lanka, hệ phái Thượng tọa bộ trở thành hệ phái có ảnh hưởng gần như tuyệt đối trong truyền thống Phật giáo Nam truyền.

Trong lịch sử, từng có nhiều học giả phái Đại thừa đã dùng thuật ngữ Tiểu thừa (zh. 小乘, sa. hīnayāna, bo. theg dman) để chỉ Phật giáo Nam truyền. Trong một thời gian dài, thuật ngữ này đã bị hiểu sai như là một định danh của Phật giáo Nam truyền mà cụ thể là chỉ phái Thượng tọa bộ. Ngày nay, thuật ngữ này đã lỗi thời và không còn được sử dụng nữa.

Phật giáo Nam truyền từng có ảnh hưởng nhất định trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, với biểu hiện rõ rệt nhất qua sự tồn tại của hệ kinh văn A-hàm Hán ngữ. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của Đại thừa ở Trung Quốc, ảnh hưởng của Phật giáo Nam truyền bị thu hẹp, chỉ truyền bá được ở Vân Nam. Ngày nay, chỉ còn Việt Nam đại diện cho một trường hợp thú vị của một quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng giao thoa của cả hai trường phái Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|**Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông**:
**Đỏ**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Bắc truyền** vào Đông Á.
**Xanh**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Nam truyền** vào Đông
[[Tập tin:MahayanaMapchinese.GIF|thumb|**Lộ trình Phật giáo truyền bá về phương Đông**:
**Đỏ**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Bắc truyền** vào Đông Á.
**Xanh**:Hướng truyền giáo của **Phật giáo Nam truyền** vào Đông
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
nhỏ|phải|Bánh xe Pháp luân **Biểu tượng Phật giáo** (_Buddhist symbolism_) là việc sử dụng các biểu tượng (_pratīka_) như một phương pháp thể hiện nghệ thuật nhằm trình bày các phương diện triết lý Phật
An Cư Kiết Hạ là một truyền thống lâu đời và quan trọng trong Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền. Đây là thời kỳ chư Tăng Ni tạm dừng
**Phật giáo tại Trung Quốc** () chỉ lịch sử phát triển và ảnh hưởng của Phật giáo tại Trung Quốc. Ngày nay, Phật giáo là tôn giáo được thể chế hóa lớn nhất ở Cộng
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
nhỏ|phải|Một ấn phẩm Phật giáo tại Lào, có chú thích bằng tiếng Anh **Phật giáo hiện đại** (_Buddhist modernism_ hay _Neo-Buddhism_) là những phong trào Phật giáo tân thời dựa trên sự diễn giải lại
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Phật giáo Trung Hoa** (), còn gọi là **Phật giáo Trung Quốc**, hay chính xác hơn là **Phật giáo Hán truyền** (tiếng Trung giản thể :汉传佛教; tiếng Trung phồn thể :漢傳佛教; bính âm: _Hànchuán Fójiào_),
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Biến cố Phật giáo 1963**, còn được gọi là **sự kiện đàn áp Phật giáo 1963, pháp nạn Phật giáo Việt Nam 1963 **hay gọi đơn giản là **phong trào Phật giáo 1963 **là một
nhỏ|224x224px|Các mộc bản [[Bát vạn Đại tạng kinh, mộc bản in kinh văn Phật giáo Hán ngữ lâu đời nhất còn được bảo tồn nguyên vẹn tại Chùa Haeinsa, Hàn Quốc.]] **Phật giáo Đông Á**
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các cộng đồng Tăng đoàn (_Sangha_) đã nhóm họp định kỳ để giải quyết các tranh chấp về giáo lý và kỷ luật cũng như sửa đổi và chỉnh
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
nhỏ|phải|Một món ăn chay miến xào mộc nhĩ nhỏ|phải|Một dĩa đồ chay **Ẩm thực Phật giáo** (_Buddhist cuisine_) là một phần của ẩm thực châu Á được các tu sĩ, tăng lữ Phật giáo (Bhikkhu/Tỳ
**Phật giáo** chiếm khoảng 0,9% dân số Bangladesh. Khoảng 1,5 triệu người ở Bangladesh tuân thủ theo Phật giáo tại Bangladesh. Hơn 65% dân số theo đạo Phật tập trung ở khu vực Chittagong, nơi
nhỏ|phải|Bức tượng Đức Phật Thích Ca (Kim thân Phật tổ) tại Chùa Giác Ân ở Thành phố Hồ Chí Minh **Đạo đức Phật giáo** (_Buddhist ethics_) hay **đạo đức nhà Phật** là đạo đức, lẽ
**Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất** là đại hội được thực hiện vào mùa hạ sau khi tổ chức lễ trà tỳ (hỏa táng) cho Phật Thích-ca Mâu-ni, mục đích
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
phải|nhỏ|305x305px|Bản đồ các trung tâm địa lý chính của các trường phái Phật học lớn ở Nam Á, vào khoảng thời gian [[Huyền Trang du hành đến vào thế kỷ VII.
* Màu đỏ: trường
**Phật Đản** (chữ Hán: 佛誕 - nghĩa là _ngày sinh của đức Phật_) hay là **Vesak** (, Devanagari: वैशाख, Sinhala: වෙසක් පෝය) là ngày kỷ niệm Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni năm
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
thumb|Tháp Phước Duyên thuộc [[chùa Thiên Mụ - biểu tượng đặc trưng ở Thừa Thiên Huế]] **Tháp** (chữ Hán: 塔) còn được gọi là **bảo tháp** (bửu tháp), **Phật tháp** hay **tháp chùa** là công
Phật giáo, từng được coi là một tôn giáo bí ẩn từ phương Đông giờ đã trở nên rất phổ biến ở phương Tây, bao gồm cả Hoa Kỳ. Vì Phật giáo không yêu cầu
thumb|[[Zoketsu Norman Fischer Thiền sư Phật giáo người Do Thái đang luyện công]] **Người Do Thái theo Phật giáo** là những người Do Thái thực hành đức tin của Phật Giáo và những lời dạy,
nhỏ|phải|Kiến trúc lầu chuông ở [[Tu viện Vĩnh Nghiêm tại Quận 12]] nhỏ|phải|[[Chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức]] nhỏ|phải|Chùa Pisesaram ở Trà Vinh **Kiến trúc Phật giáo** (_Buddhist architecture_) được hình thành, phát triển ở
nhỏ|Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo nhỏ|phải|Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo [[Huỳnh Phú Sổ]] **Phật giáo Hòa Hảo** là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939,
**Chấn hưng Phật giáo** hay **Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam** là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát
nhỏ|phải|Một thiền sư thế tục **Phật giáo thế tục** (_Secular Buddhism_) hay **Phật giáo thực dụng** (_Pragmatic Buddhism_) là một thuật ngữ nghĩa rộng chỉ về một loại hình Phật giáo ngày nay dựa trên
là tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Trung Quốc, đóng vai trò là cơ quan quản lý Phật giáo chính thức tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trụ sở chính của hiệp hội
**Phật giáo** là tôn giáo lớn nhất ở Singapore, với xấp xỉ 31,1% dân số vào năm 2020. Trong một khảo sát trên 3.276.190 người vào năm 2015, có 1.087.995 người được hỏi (chiếm 33,21%)
**Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam** bắt nguồn từ một loại âm nhạc cổ đại Ấn Độ. Phật giáo Việt Nam thời kỳ mới du nhập, các vị sư truyền giáo lấy âm nhạc làm
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
nhỏ|phải|Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni tại chùa Phật Cô đơn (Thanh Tâm tự) ở Bình Chánh nhỏ|phải|Tượng Phật tại chùa Long Hương ở Đồng Nai **Văn hóa Phật giáo** (_Culture of Buddhism_) là một
thumb|[[Tháp Mahabodhi, một Di sản thế giới của UNESCO, là một trong 4 thánh tích của Phật Thích-ca, nơi ông đã chứng đạo. Bảo tháp được vua Ấn Độ Ashoka xây vào thế kỷ thứ
Thuật ngữ **Phật giáo sơ kỳ** có thể đề cập đến hai thời kỳ riêng biệt trong Lịch sử Phật giáo, mà cả hai có thể được định nghĩa riêng rẽ hoặc gộp chung vào
**Phật giáo tại Campuchia** (, ), còn gọi là **Phật giáo Khmer**, đã tồn tại từ ít nhất là vào thế kỷ thứ 5. Ở thời kỳ mới du nhập, nó là một hình thức
**Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai** (hay còn gọi là đại hội Phật giáo lần thứ 2) diễn ra sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt khoảng hơn 100 năm
right|thumb|Bức tranh _Đức Kitô và Đức Phật_ của họa sĩ [[Paul Ranson|Paul-Élie Ranson (1880)]] Từng có sự liên hệ giữa Phật giáo và thế giới Địa Trung Hải vào thời kỳ tiền Kitô giáo. Có