✨Mặt Trăng
Mặt Trăng hay Trăng, Nguyệt, Cung Hằng, Cung Trăng (tiếng Anh: Moon, chữ Hán: 月) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất. Với độ sáng ở bầu trời chỉ sau Mặt Trời,tr.120 Mặt Trăng đã được con người biết đến từ thời tiền sử.tr.223 với bán kính bằng khoảng 27% Trái Đất và khối lượng bằng khoảng 1,23% Trái Đất. Mặt Trăng được hình thành từ các vụn văng ra sau một vụ va chạm giữa Trái Đất và một thiên thể khác mang tên Theia cỡ Sao Hỏa.tr.12-13 Sau đó vào năm 1966, tàu Luna 9 đã đổ bộ an toàn lên Mặt Trăng.
Mặt Trăng hình thành khoảng hơn 4,5 tỷ năm trước.
Đa số các giả thuyết từ sớm về nguồn gốc hình thành Mặt Trăng theo một trong ba ý tưởng chính.
Để giải thích thỏa đáng nhiều bằng chứng thực nghiệm, một giả thuyết khác đã được xây dựng, gọi là giả thuyết va chạm lớn. Giả thuyết này cho rằng hệ Trái Đất – Mặt Trăng hình thành sau một vụ va chạm lớn, lệch tâm, giữa một thiên thể có kích thước cỡ Sao Hỏa, tên là Theia, với thiên thể tiền Trái Đất. Vào một hội nghị bàn về nguồn gốc Mặt Trăng năm 1984 ở Kona, Hawaii, giả thuyết va chạm lớn bắt đầu được đa số tán thành là hợp lý. Vụ va chạm đã giải phóng rất nhiều năng lượng, đủ để làm nóng chảy lớp vỏ Trái Đất và tạo nên đại dương magma. Tương tự, Mặt Trăng mới hình thành cũng có đại dương magma của nó.]]
Tuy giả thuyết va chạm lớn có thể giải thích được nhiều kết quả quan sát song vẫn còn những câu hỏi chưa được giải đáp, đa số liên quan đến thành phần của Mặt Trăng. Năm 2001, một nhóm nghiên cứu ở Viện Carnegie tại Washington báo cáo kết quả đo đạc đặc trưng đồng vị oxy trong đá Mặt Trăng có độ chính xác cao, cho thấy tính chất giống với đá ở Trái Đất. Các nghiên cứu khác sau đó cũng chỉ ra tỷ lệ đồng vị wolfram và titani ở vỏ Mặt Trăng giống hệt với Trái Đất. Đá Mặt Trăng thu được trong chương trình Apollo có đặc trưng đồng vị giống với đá trên Trái Đất và khác hầu hết các thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời. với xác suất tới 20%, dù có ước lượng trước đó chỉ là chưa đến 2%. Một số giả thuyết khác giải thích vỏ Trái Đất và Mặt Trăng đều được tạo ra từ cùng vật liệu được hòa trộn sau sự kiện va chạm lớn, dù có nhà nghiên cứu nghi ngờ về khả năng này. Trong mọi trường hợp, sự tương đồng hóa học chứng tỏ Mặt Trăng không hình thành ở xa và độc lập với Trái Đất. Một ý tưởng cho rằng vật liệu văng ra từ vụ va chạm lớn ban đầu hình thành nên hai thiên thể vệ tinh của Trái Đất. Sau đó, chúng nhập lại thành Mặt Trăng trong một va chạm ở tốc độ thấp.
Với khối lượng riêng trung bình 3,3 g/cm³, bằng 3/5 so với Trái Đất,
Lõi Mặt Trăng có ít nhất một phần nóng chảy, có độ dẫn điện cao và khối lượng riêng lớn hơn lớp phủ. Cấu trúc lớp phủ ở tầng trên được cho là đã hình thành theo cơ chế kết tinh từ một đại dương magma tồn tại ngay sau khi Mặt Trăng hình thành vào khoảng 4,5 tỷ năm trước. Quá trình đại dương magma kết tinh đã tạo ra lớp phủ ultramafic có mật độ cao, chứa nhiều olivin và pyroxen, nằm dưới một lớp vỏ plagiocla nhẹ nổi lên và bao phủ bề mặt toàn cầu. Đặc trưng nổi bật ở nam mặt xa là Bồn địa Nam cực - Aitken - vùng trũng gần tròn, tô màu xanh tím.]]
Địa hình Mặt Trăng đã được đo bằng laser và xử lý ảnh stereo. Một đặc trưng địa hình nổi bật là bồn địa Nam cực - Aitken ở phía nam mặt xa Mặt Trăng. Đây là hố va chạm lớn nhất trong Hệ Mặt Trời với đường kính 2500 km. Các bồn địa nổi bật khác hình thành từ các vụ va chạm lớn trong thời kỳ đầu của Mặt Trăng gồm có biển Mưa, Trong Sáng, Khủng Hoảng ở mặt gần và Đông Phương ở ranh giới của hai mặttr.225 – chúng đều có phần trung tâm sâu và phần rìa cao. Trong hệ tọa độ này, hố va chạm nhỏ bé mang tên Mösting A có tọa độ 3,18°Nam, 5,16°Tây, cùng với một số đặc điểm địa hình khác, được dùng để đối chiếu vị trí vẽ bản đồ.
Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt Trăng năm 2010 đã phát hiện ra các vách đứt gãy chờm trên bề mặt Mặt Trăng, cho thấy rằng Mặt Trăng có thể đã co ngót lại trong thời kỳ địa chất gần đây. Các dấu hiệu co ngót tương tự cũng đã được quan sát trên Sao Thủy. Một nghiên cứu thực hiện với 12000 bức ảnh chụp được từ tàu quỹ đạo cho thấy biển Lạnh ở gần cực bắc, một bồn địa vốn được cho là đã ngừng tiến hóa về mặt địa chất giống như các biển Mặt Trăng khác, đang nứt và dịch chuyển. Mặt Trăng không có các mảng kiến tạo
Biển và vùng cao
thumb|left|Bản đồ địa chất mặt gần Mặt Trăng. Màu đỏ ở bản đồ ứng với các vùng [[bazan của biển Mặt Trăng.[http://ser.sese.asu.edu/GHM/ghm_14txt.pdf tr.277-278]]]
Các vùng trên bề mặt Mặt Trăng có màu sẫm và tương đối bằng phẳng như những đồng bằng, không có đặc điểm địa hình nổi bật, đủ lớn để có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ Trái Đất, được gọi là các biển Mặt Trăng vì trước đây đã có giả định rằng những vùng này có nước.[https://books.google.com.vn/books?id=TWtLIOlPwS4C&pg=RA2-PA10 tr.19-20]
Một số biển ở mặt gần chứa các vòm núi lửa mà có thể hình thành từ magma có độ nhớt cao hơn đáng kể. Bản đồ hóa địa chất Mặt Trăng, đo bởi phổ kế gamma của vệ tinh Lunar Prospector, cho thấy mặt gần Mặt Trăng có nồng độ cao hơn các nguyên tố hóa học có khả năng sinh nhiệt nằm bên dưới lớp vỏ, gợi ý về khả năng vùng nằm dưới lớp vỏ này đã từng nóng hơn và dễ phun trào dung nham hơn, giải thích cho việc mặt gần có nhiều biển hơn. Đa số bazan hình thành nên các biển nhỏ nằm xen kẽ giữa các vùng cao đã phun trào trong kỷ Mưa, 3,2–3,8 tỷ năm trước, còn riêng ở biển Mưa và Đại dương Bão, hoạt động phun trào đã kéo dài từ 4,2 đến khoảng 1 tỷ năm trước. Các trận động đất cùng hiện tượng thoát khí ra bề mặt cho thấy một số hoạt động địa chất của Mặt Trăng vẫn tiếp tục. Có khả năng lớp phủ của Mặt Trăng nóng hơn đã biết, ít nhất là ở mặt gần, tại những nơi có nhiều nguyên tố phóng xạ sinh nhiệt bên dưới lớp vỏ. Ở bồn địa Đông Phương, hoạt động núi lửa kéo dài chứng tỏ lớp phủ bên dưới vùng này ban đầu nóng và/hoặc có nhiều nguyên tố sinh nhiệt.
Các khu vực có màu sáng hơn trên Mặt Trăng được gọi là các vùng cao bởi chúng có độ cao lớn hơn hầu hết biển Mặt Trăng. Theo ước tính chỉ riêng mặt gần của Mặt Trăng đã có khoảng 300.000 hố rộng hơn 1 km. Lớp đất mặt của những bề mặt cổ tại vùng cao nhìn chung dày hơn, trung bình khoảng 10-15 mét; trong khi tại các bề mặt trẻ ở biển, đất mặt chỉ dày 4-5 mét.[https://www.lpi.usra.edu/publications/books/lunar_sourcebook/pdf/Chapter04.pdf tr.88,93],[https://www.lpi.usra.edu/publications/books/lunar_sourcebook/pdf/Chapter07.pdf 286] Bên dưới lớp đất mặt tán mịn là lớp các mảnh vỡ lớn văng ra từ các vụ va chạm và đá móng nứt gãy dày từ vài đến vài chục kilomet. mặc dù có nghi vấn về giả thuyết này.
Việc so sánh những hình ảnh do Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt Trăng chụp cho thấy tốc độ sản sinh hố hiện tại nhanh hơn đáng kể ước tính trước đây, đặc biệt là với các hố nhỏ có kích cỡ trên chục mét. Khi va chạm xảy ra, những mảnh vật liệu nóng chảy hoặc bốc hơi văng ra ngoại biên với góc nhỏ và tốc độ rất cao. Chúng có suất phản chiếu cao, có đặc điểm quang học của bề mặt mới hình thành gần đây và thường có các đường tối uốn lượn xen giữa những vùng sáng.]]
Nước lỏng không tồn tại trên bề mặt Mặt Trăng. Với điều kiện trên bề mặt, nước sẽ bị bức xạ cực tím từ Mặt Trời quang phân thành các chất khác. Ngay cả nước ngậm trong đất đá cũng bị giải hấp bởi tia cực tím của Mặt Trời. Môi trường tự nhiên của Mặt Trăng không hỗ trợ sự sống vì bức xạ Mặt Trời mạnh, gần như không có khí quyển, nhiệt độ cao vào ban ngày, cùng bức xạ ion hóa. Tổng lượng vi sinh vật mà các tàu vũ trụ đã mang lên Mặt Trăng trong các nhiệm vụ thám hiểm có tiếp xúc với bề mặt là khoảng 4,57×1010 tế bào hoặc bào tử, nhưng hầu hết được cho là không thể sống quá một ngày Mặt Trăng (29,5 ngày Trái Đất). Các kế hoạch định cư trên Mặt Trăng của con người phụ thuộc đáng kể vào lượng nước có sẵn tại đây khi mà phương án vận chuyển nước từ Trái Đất tỏ ra không khả thi. Dữ liệu cho thấy ánh sáng phản xạ đặc trưng của nước đá, khác hẳn so với ánh sáng từ hydroxyl, nước ở thể khác, hay các bề mặt phản xạ khác. Những khe hở nhỏ khuất tối trong đất đá, ở cả vùng đất được chiếu sáng với vĩ độ trên 80, được cho là chiếm tới khoảng 10–20% diện tích tối vĩnh cửu chứa nước đá của Mặt Trăng.
Trường hấp dẫn
thumb|right|Bản đồ trọng lực bề mặt Mặt Trăng của [[GRAIL. Vùng màu đỏ là trọng trường mạnh, màu xanh là trọng trường yếu hơn. Tàu Lunar Prospector đã vẽ bản đồ trọng trường của mặt gần vào những năm 1998-1999. Tuy vậy, một số vùng cực đại không nằm gần khu vực có bazan biển.
Gia tốc trọng trường trung bình trên bề mặt Mặt Trăng là 1,63 m/s2, bằng khoảng 1/6 gia tốc trọng trường Trái Đất. sẽ cảm thấy như chỉ khoảng 15 kg trên Mặt Trăng. Vận tốc cần để thoát khỏi Mặt Trăng (tốc độ vũ trụ cấp 2) là 2,38 km/s, thấp hơn nhiều so với Trái Đất là 11,2 km/s.]]
Mặt Trăng có một từ trường ngoài với cường độ nhìn chung dưới 0,2 nanotesla, chưa bằng một phần một trăm ngàn từ trường Trái Đất. Hiện tại Mặt Trăng không có từ trường lưỡng cực toàn cầu mà chỉ có lớp vỏ đã từ hóa, có thể do trước kia từng tồn tại một dynamo toàn cầu.
Khí quyển
Mặt Trăng có khí quyển rất loãng đến nỗi các hạt khí gần như không va chạm với nhau, giống tầng ngoài khí quyển hành tinh, đến khoảng 30 tấn. Khí quyển bao gồm các chất khí thoát ra từ đất đá Tổng mật độ của các nguyên tố trên vẫn còn nhỏ hơn nhiều mật độ khí quyển Mặt Trăng, do đó các nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm sự hiện diện của những phân tử và nguyên tử khác ở khí quyển, đặc biệt là các chất mà có thể được sinh ra từ lớp đất mặt.]]
Tồn tại một đám mây bụi bất đối xứng bao quanh Mặt Trăng được tạo ra bởi các hạt bụi sao chổi.
Các nhà du hành vũ trụ đặt chân lên Mặt Trăng trong chương trình Apollo đã chứng kiến những quầng sáng gần đường chân trời trước lúc bình minh, một hiện tượng cũng được quan sát bởi một số vệ tinh và tàu đổ bộ.
Chuyển động và mùa
Mặt Trăng tự quay quanh trục với chu kỳ phụ thuộc vào hệ quy chiếu: so với nền sao ở xa, chu kỳ này là chu kỳ sao, 27,3 ngày Trái Đất, Đối với quan sát viên đứng yên trên bề mặt Mặt Trăng, Mặt Trời mọc và lặn theo chu kỳ đúng bằng chu kỳ giao hội. khiến cho chu kỳ sao của chuyển động tự quay của Mặt Trăng đúng bằng chu kỳ quỹ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất, nhỏ hơn nhiều so với 23,5°Của Trái Đất. Các nghiên cứu sau này, từ 2005 đến 2013, cho rằng vùng rìa Peary có thể bị che khuất vào mùa đông, tuy nhiên xác nhận nhiều địa điểm ở vùng này và rìa hố va chạm khác gần hai cực có tỷ lệ nhận sáng từ 80% đến trên 90% trung bình năm, bao gồm rìa hố Shackleton gần cực nam. Tương tự, có nhiều khu vực nằm mãi mãi trong bóng tối ở đáy của những hố va chạm gần cực,[https://books.google.com.vn/books?id=w8PK2XFLLH8C&pg=PA308 tr.308-309]
Quỹ đạo
Hệ Mặt Trăng và Trái Đất quay quanh khối tâm nằm ở dưới bề mặt Trái Đất khoảng 1.700 km (khoảng một phần tư bán kính Trái Đất), theo các quỹ đạo gần giống hình elip có độ lệch tâm nhỏ.
Quỹ đạo của Mặt Trăng bị gây nhiễu bởi Mặt Trời, Trái Đất, và ở mức độ ít hơn là các hành tinh, khiến cho tất cả các thông số của quỹ đạo, như độ nghiêng, độ lệch tâm, bán trục lớn, điểm nút, củng điểm ... đều biến động nhỏ một cách tuần hoàn và phức tạp. Ví dụ, mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng tiến động theo chu kỳ 18,6 năm, và ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của chuyển động, thể hiện ở các công thức toán học trong các định luật Cassini. Khoảng cách tới củng điểm quỹ đạo thay đổi theo độ lệch tâm quỹ đạo; với cận điểm gần nhất ở khoảng 356.400 km, xa nhất ở khoảng 370.400 km; viễn điểm gần nhất khoảng 404.000 km, xa nhất khoảng 406.700 km. với tốc độ bằng 1/81 Mặt Trăng hay khoảng 12,5 m/s.[https://openstax.org/books/university-physics-volume-1/pages/9-6-center-of-mass tr.444-445] Vào năm 2016, các nhà khoa học hành tinh sử dụng dữ liệu thu thập bởi vệ tinh Lunar Prospector từ năm 1998 và phát hiện hai vùng giàu hydro (khả năng năng cao từng là các vùng có nước đá) trên hai mặt đối diện của Mặt Trăng.
thumb|right|Thành phần gây bởi Mặt Trăng của sóng thủy triều trên toàn cầu biến đổi theo chu kỳ khoảng 12,42 giờ; phần màu xanh là triều dâng, màu nâu là triều hạ.tr.239tr.8 Lực trủy triều và chuyển động quay của Trái Đất tạo ra những sóng thủy triều với [[bước sóng hàng nghìn cây số, đỉnh sóng ứng với triều dâng và đáy sóng ứng với triều hạ. Ma sát trong các khối đại dương chuyển động dưới lực thủy triều, và ở mức độ nhỏ hơn là ma sát trong chuyển động dẻo của lõi đất đá, làm tiêu tán dần năng lượng tự quay của Trái Đất, khiến ngày Trái Đất dài thêm khoảng 0,002 giây sau mỗi thế kỷ. Do bảo toàn mô men động lượng trong hệ Trái Đất – Mặt Trăng, phần mô men động lượng mất đi ở chuyển động tự quay của Trái Đất được chuyển hóa sang mô men động lượng của Mặt Trăng, làm quỹ đạo Mặt Trăng tăng dần độ cao với tốc độ quỹ đạo giảm dần.tr.2
thumb|right|Ngày nay, hiện tượng [[bình động của Mặt Trăng gây ra chênh lệch lực hấp dẫn từ Trái Đất, tạo hiệu ứng thủy triều bởi Trái Đất cho Mặt Trăng.[https://books.google.com.vn/books?id=aU6vcy5L8GAC&pg=PA166 tr.166-170]
Hiện tại, Mặt Trăng vẫn chịu tác động nhỏ của lực thủy triều gây ra bởi Trái Đất và Mặt Trời. Phạm vi thủy triều trên Mặt Trăng là 10 cm và biến đổi chủ yếu theo chu kỳ 27 ngày, với hai thành phần: thành phần theo phương hướng đến Trái Đất và gây ra bởi Trái Đất, vì Mặt Trăng đã bị khóa thủy triều trong quỹ đạo đồng bộ, và thành phần nhỏ hơn gây bởi Mặt Trời. Động đất Mặt Trăng ít xảy ra hơn, có cường độ yếu hơn so với động đất trên Trái Đất, nhưng có thể kéo dài hàng giờ, do không có thủy quyển hấp thụ.]]
Mặt Trăng có suất phản chiếu thấp khác thường, gần tương đương nhựa đường. Mặc dù vậy ở pha trăng tròn, Mặt Trăng là vật thể sáng thứ hai trên bầu trời sau Mặt Trời, Hiệu ứng xung đối, một đặc tính phản xạ của đất xốp và bề mặt gồ ghề, Mặt Trăng trông lớn hơn khi gần đường chân trời nhưng đây hoàn toàn là hiệu ứng tâm lý gọi là ảo ảnh Mặt Trăng được mô tả lần đầu vào thế kỷ 7 trước công nguyên. Trăng tròn trên bầu trời có đường kính góc trung bình khoảng hơn 31 phút cung và kích cỡ biểu kiến gần tương đương Mặt Trời.tr.99 Người ở bán cầu nam nhìn hình Mặt Trăng lộn ngược so với người ở bán cầu bắc của Trái Đất. Chu kỳ hằng ngày của ánh sáng Mặt Trăng dài hơn 24 giờ thông thường do Mặt Trăng quay cùng chiều với chiều quay của Trái Đất; điều này khiến cho, vào mỗi ngày, Mặt Trăng mọc muộn hơn ngày trước khoảng 0,8 giờ đồng hồ.tr.496]]
Khoảng cách giữa Mặt Trăng và Trái Đất thay đổi từ khoảng 356.400 km tại cận điểm gần nhất đến 406.700 km tại viễn điểm xa nhất, chênh nhau 14%. Siêu trăng sáng hơn 30% so với vi trăng, do có đường kính góc lớn hơn 14% và diện tích sáng gấp 1,142 ≈ 1,30. Như vậy, Mặt Trăng ở một pha tại cận điểm sẽ được cảm nhận sáng hơn so với Mặt Trăng ở cùng pha đó tại viễn điểm, nhưng độ sáng hơn cảm nhận được không nhiều đến mức 30%. Nhiều khẳng định như vậy bị cho là hão huyền và là kết quả từ việc quan sát dưới những điều kiện ánh sáng khác nhau, ảnh hưởng của khí quyển, hay những bản vẽ không phù hợp. Hiệu ứng quang học phổ biến là hào quang 22° hình thành khi ánh sáng Mặt Trăng khúc xạ qua những tinh thể băng trong những đám mây ti tầng cao và quầng sáng nhỏ hơn khi Mặt Trăng được quan sát qua mây mỏng.tr.496 Mỗi vùng trên Trái Đất có thể quan sát sự che khuất của các sao ở các thời điểm khác nhau và theo cách khác nhau, tương tự như với nhật thực, và hiện tượng che khuất từng được sử dụng để xác định vị trí của Mặt Trăng và tọa độ địa lý của người quan sát.
Khám phá
Trước thời du hành vũ trụ
Một trong các hình vẽ cổ của con người về Mặt Trăng có thể là hình khắc trên đá vào 5000 năm trước ở di sản văn hóa thế giới Knowth của Ireland.
Tìm hiểu về các chu kỳ liên quan đến Mặt Trăng là một phần của hoạt động thiên văn học thời kỳ đầu: vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, các nhà thiên văn Babylon đã ghi chép chu kỳ saros khoảng 18 năm của nguyệt thực và nhật thực, và các nhà thiên văn Ấn Độ đã mô tả cự giác hàng tháng của Mặt Trăng. Nhà thiên văn học Trung Quốc Thạch Thân, vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, đã hướng dẫn cách tiên đoán nhật thực.]] thumb|left|Bản đồ Mặt Trăng trong cuốn [[Selenographia, sive Lunae descriptio (1647), bởi Johannes Hevelius, một trong những bản đồ đầu tiên có thể hiện các vùng lộ ra bởi hiện tượng bình động.tr.132]]
Đầu thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Arístarkhos xứ Sámios đã sử dụng hình học và một số căn cứ quan sát để ước lượng kích thước Mặt Trăng.[https://books.google.com.vn/books?id=nS51_7qbEWsC&pg=PA70 tr.67-70] Arkhimídis, cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, đã thiết kế một mô hình vũ trụ có thể tính toán chuyển động của Mặt Trăng và các thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời. Vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sélefkos Seleukos đã nhận định thủy triều gây ra bởi sức hút của Mặt Trăng, và độ cao của thủy triều phụ thuộc vào vị trí Mặt Trăng so với Mặt Trời. Sang đến thế kỷ thứ 2, Claudius Ptolemaeus đã cải thiện các kết quả tính toán về khoảng cách đến Mặt Trăng, vào cỡ 59 lần bán kính Trái Đất, và đường kính Mặt Trăng, vào cỡ 0,292 đường kính Trái Đất, rất sát với các con số đã biết hiện nay, là 60 và 0,273. Nhà thiên văn học và vật lý học người Ả Rập Alhazen (965–1040), bên cạnh nhiều phát hiện liên quan đến Mặt Trăng, có nêu ra trong sách Ánh sáng Mặt Trăng rằng Mặt Trăng không phản xạ giống như một cái gương, mà phản xạ khuếch tán về mọi hướng. Nhà thiên văn Trầm Quát của nhà Tống đã viết vào năm 1086 về các pha trăng rằm và trăng tối, so sánh chúng với hình tượng quả cầu bạc có một nửa sơn bột trắng, sẽ có hình lưỡi liềm nếu nhìn từ bên cạnh, và giải thích rằng thiên thực không xảy ra thường xuyên do bạch đạo lệch với hoàng đạo. Quan điểm này được nhà địa chất thực nghiệm Grove Karl Gilbert đồng tình vào năm 1893, và tiếp tục được củng cố qua các nghiên cứu thực hiện từ các năm 1936 đến 1963, hình thành nên những hiểu biết về địa tầng học Mặt Trăng, một nhánh mới của địa chất thiên văn.tr.13-14]]
Sau ba nhiệm vụ không tên thất bại năm 1958, tàu không gian từ chương trình Luna của Liên Xô đã lần đầu tiên hoàn thành những mục tiêu sau: vật thể nhân tạo đầu tiên thoát khỏi trọng lực Trái Đất và đi qua gần Mặt Trăng là Luna 1, vật thể nhân tạo đầu tiên va chạm bề mặt Mặt Trăng là Luna 2, và những bức ảnh đầu tiên về mặt xa của Mặt Trăng mà bình thường ẩn dạng được chụp bởi Luna 3, tất cả đều vào năm 1959.tr.92 Cùng năm, NASA tiến hành các nhiệm vụ với mục tiêu đưa các tàu thăm dò không người lái lên Mặt Trăng.tr.55
Các tàu Apollo đã mang về 381,7 kg đất đá Mặt Trăng trong 2196 mẫu vật.[https://history.nasa.gov/SP-4029/Apollo_18-30_Extravehicular_Activity.htm tr.298] Các nhiệm vụ Apollo cũng đã lắp đặt 14 loại thiết bị thí nghiệm địa vật lý của Apollo Lunar Surface Experiments Package (ALSEP) tại các vị trí đổ bộ của Apollo 12, 14, 15, 16 và 17. Chúng hoạt động cho đến tháng 9 năm 1977.
Apollo 17 năm 1972 là chuyến bay cuối cùng của chương trình Apollo, trong đó có sự tham gia lần đầu của một nhà khoa học địa chất, Jack Schmitt, trong số các phi hành gia.]] thumb|left|Minh họa tàu đổ bộ [[Thường Nga 5 trên Mặt Trăng.tr.179 Con tàu này thả ra một đầu dò quỹ đạo mang tên Hagoromo, nhưng bộ phận truyền tín hiệu của đầu dò bị hỏng và nó đã không có đóng góp khoa học đáng kể nào.tr.291 Tàu đổ bộ này sau đó thả ra một xe tự hành Mặt Trăng có tên Ngọc Thố (玉兔). Thường Nga 5 đã hạ cánh trên Mặt Trăng ngày 1 tháng 12 năm 2020 và sau đó đã mang về Trái Đất 1,731 kg mẫu vật.
Từ tháng 10 năm 2007 đến ngày 10 tháng 6 năm 2009, tàu quỹ đạo Kaguya (かぐや) của Cơ quan Thám hiểm Hàng không Vũ trụ Nhật Bản cùng với 2 vệ tinh nhân tạo nhỏ đi kèm để trung chuyển tín hiệu, đã thu thập các dữ liệu địa vật lý và ghi lại video độ phân giải HD đầu tiên trên quỹ đạo Mặt Trăng.tr.259 Sau nhiều lần bị trì hoãn, tàu quỹ đạo Mặt Trăng Chandrayaan-2 (चन्द्रयान-२) đã được phóng vào tháng 7 năm 2019, mang theo tàu đổ bộ Vikram kèm xe tự hành Pragyan. Tàu quỹ đạo đã tách khỏi tàu đổ bộ vào ngày 2 tháng 9 năm 2019 và duy trì hoạt động quanh Mặt Trăng cho đến nay, trong khi Vikram bắt đầu quy trình hạ cánh đến khu vực gần nam cực của Mặt Trăng vào ngày 6 tháng 9 năm 2019, nhưng bị mất tín hiệu khi còn cách bề mặt 2,1 km.
Ngày 18 tháng 6 năm 2009, Hoa Kỳ phóng cùng lúc Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt Trăng và thiết bị va chạm LCROSS. Luna 25 dự kiến là tàu đổ bộ không người lái được phóng vào tháng 10 năm 2021 để hạ cánh đến hố Boguslawsky, còn Luna 27 và Luna 28 sẽ hạ cánh ở vùng cực nam Mặt Trăng, với Luna 28 dự kiến mang theo xe tự hành và thiết bị đưa mẫu vật trở lại Trái Đất, tất cả để chuẩn bị cho các chuyến thám hiểm Mặt Trăng của các nhà du hành vũ trụ sau đó. Pha 1 tập trung đưa người phụ nữ đầu tiên và người đàn ông tiếp theo lên vùng cực nam Mặt Trăng vào 2024.tr.160-184
Giải thưởng Mặt Trăng X của Google (XPRIZE), công bố vào 2007, trao thưởng 30 triệu đô la Mỹ cho bất cứ tư nhân nào đưa được xe tự hành lên thiên thể này theo một số tiêu chí trước tháng 3 năm 2018.tr.5 Một số công ty đã từng tham gia XPRIZE trước đây cũng tham gia lần này, và một số trong đó đã được lựa chọn, như Astrobotic.]]
Bề mặt Mặt Trăng đã có nhiều dấu ấn của hoạt động của con người. các thiết bị thí nghiệm như Gói Thí nghiệm Bề mặt Mặt Trăng Apollo (ALSEP),
Một số thiết bị vẫn còn đang trong quá trình sử dụng, như các tấm hồi phản trong thí nghiệm đo khoảng cách laser Mặt Trăng của ALSEP. Kính viễn vọng vô tuyến ở mặt xa của Mặt Trăng được che chắn khỏi nhiễu vô tuyến từ Trái Đất, và có thể quan sát được bước sóng dài hơn 20m, vốn không thể quan sát được từ Trái Đất do bị chắn bởi tầng điện li. Lớp đất Mặt Trăng mịn chứa nhiều silica có thể được dùng để chế tạo gương và các dụng cụ thủy tinh cho các đài quan sát. Bụi mịn có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe. Hiệp ước này cho phép các tổ chức và cá nhân khai thác và sở hữu tài nguyên trên Mặt Trăng, nhưng giới hạn việc khai thác vào mục đích hòa bình và không tàn phá môi trường.[https://books.google.com.vn/books?id=0Q85MpsFtEgC&pg=PA1 tr.1],[https://books.google.com.vn/books?id=0Q85MpsFtEgC&pg=PA20 20]
Văn hóa
Thần thoại
thumb|right|Một chiếc gương đồng thời [[nhà Đường ở Trung Quốc (618-907) có họa tiết Hằng Nga và thỏ ngọc trên cung trăng.]]
Các vùng tối sáng trên Mặt Trăng đã được con người tưởng tượng thành những hình ảnh khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau, như chú Cuội và cây đa trên cung trăng trong văn hóa dân gian Việt Nam, hay thỏ Mặt Trăng trong văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc hình người. Thần thoại Ấn Độ coi Chandra (Soma) là nam thần Mặt Trăng. Tôn giáo Lưỡng Hà, trong thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, tin Mặt Trăng là nam thần Sin (Nanna), cha của nữ thần Sao Kim Ishtar và thần Mặt Trời Shamash. Theo thần thoại Hy Lạp La Mã cổ đại, Mặt Trời là nam và Mặt Trăng là nữ, ứng với Helios (Sol) và Selene (Luna).
Việc quan sát các sự kiện thiên văn liên quan đến Mặt Trăng, Mặt Trời, các hành tinh và các sao cũng đã hình thành thuật chiêm tinh ở Trung Quốc, Ấn Độ và phương tây.[https://openstax.org/books/astronomy/pages/2-3-astrology-and-astronomy tr.50]
Lịch
thumb|right|Các pha Mặt Trăng trong một tờ lịch ở cuốn Địa chí Catalunya (1370-1380) của Abraham Cresques.
Chu kỳ lặp lại của pha Mặt Trăng được sử dụng như một công cụ đo thời gian tiện lợi, tạo thành cơ sở cho nhiều hệ thống lịch cổ.
Hầu hết các lịch đã xuất hiện trong lịch sử loài người đều dựa trên các chu kỳ chuyển động của Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời.
Ảnh hưởng tâm sinh lý
Trong một số nền văn hóa, Mặt Trăng có liên hệ với tính cách điên rồ hoặc phi lý. Một số học giả của Hy Lạp và La Mã cổ đại, như Aristoteles, Pliny cha, Lucius Mestrius Plutarchus hay Claudius Galenus, đã cho rằng pha của Mặt Trăng có mối liên hệ với chứng động kinh. Tuy vậy các ghi chép về mối liên hệ giữa chu kỳ thay đổi của pha Mặt Trăng với trạng thái tâm sinh lý của con người đều bị bác bỏ.]]
_Trăng vào cửa sổ đòi thơ,_Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.
Bản dịch bởi Huy Cận cho bài Báo Tiệp (報捷 1948) của Hồ Chí Minh
Mặt Trăng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ ở các thời đại và nền văn hóa khác nhau, với hàng trăm tác phẩm vịnh nguyệt được lưu lại trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên cho đến nay. Một vài ví dụ là bài Mặt Trăng, Trăng tròn của Sappho (610-570 trước công nguyên) ở Hy Lạp cổ đại, các bài thơ Đường Nguyệt hạ độc chước (月下獨酌), Nguyệt dạ (月夜) của Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (712-770) ở Trung Quốc, Dẫu gió thổi (吹けども 葺けども) của Izumi Shikibu (976-1030) ở Nhật Bản, Tới Mặt Trăng (Alla luna) của Giacomo Leopardi (1798–1837) ở Ý, Trăng lên (La luna asoma) của Federico García Lorca (1898–1936) ở Tây Ban Nha, ai mà biết Mặt Trăng có phải (who knows if the moon's) của E. E. Cummings (1894–1962) ở Mỹ, Huyền ảo của Hàn Mặc Tử (1912–1940) ở Việt Nam.[http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d&d=CdjlbdgGlQXwmgdI.1.4&e=-------vi-20--1--txt-txIN%7ctxME------# tr.4],[http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d&d=CdjlbdgGlQXwmgdI.1.62&e=-------vi-20--1--txt-txIN%7ctxME------ tr.62]
Mặt Trăng cũng là chủ đề của các tác phẩm văn học trong hai thiên niên kỷ qua. Một số ví dụ khác từ thời Phục Hưng đến nay, là Giấc mơ (Somnium, 1634) của Johannes Kepler, Người cung trăng (The Man in the Moone, 1638) của Francis Godwin, Tiếu sử về Đế chế Mặt Trăng (L'Autre monde ou les états et empires de la Lune, 1657) của Cyrano de Bergerac, Từ Trái Đất lên Mặt Trăng (De la Terre à la Lune, trajet direct en 97 heures 20 minutes, 1865) của Jules Verne, Khúc dạo đầu cho Không gian (Prelude to Space, 1951) của Arthur C. Clarke. Fly me to the Moon viết bởi Bart Howard và biểu diễn bởi Quincy Jones-Frank Sinatra (1964) – bài hát đầu tiên được phát trên Mặt Trăng trong nhiệm vụ Apollo 11, album The Dark Side of the Moon (1973) của Pink Floyd, Walking on the Moon (1979) của The Police.
Ở nghệ thuật tạo hình, Mặt Trăng xuất hiện trong mô típ lý ngư vọng nguyệt (鯉魚望月, cá chép trông trăng) ở tranh dân gian Việt Nam và Trung Hoa, trong các tác phẩm hội họa phương Đông và phương Tây như Cảnh đêm trăng với cây cầu (1648-1650) của Aert van der Neer, Ánh trăng (1833-1834) của Thomas Cole, Trăng thu trên sông Tama (1838) của Utagawa Hiroshige, Cỏ mùa thu dưới trăng (1872-1891) của Shibata Zeshin, và trong điện ảnh như Chuyến du hành tới Mặt Trăng (1902) của Georges Méliès, 2001: A Space Odyssey (1968) của Stanley Kubrick.
Biểu tượng lưỡi liềm đã được dùng để đại diện cho Mặt Trăng từ trước Công Nguyên trong tử vi Hy Lạp cổ đại, và biểu tượng sao và lưỡi liềm đã xuất hiện từ thời kỳ văn hóa Lưỡng Hà. Lưỡi liềm cũng được dùng trong văn hóa Lưỡng Hà để đại diện một số vị thần thánh. Trăng tròn xuất hiện trên cờ Lào và Palau.