✨Khoảng cách Mặt Trăng (thiên văn học)

Khoảng cách Mặt Trăng (thiên văn học)

Khoảng cách Trái Đất – Mặt Trăng tức thời, hay khoảng cách tới Mặt Trăng, là khoảng cách từ tâm của Trái Đất đến tâm của Mặt Trăng. Khoảng cách Mặt Trăng (ký hiệu: LD hay \Delta_{\oplus L}), hay khoảng cách đặc trưng Trái Đất – Mặt Trăng, là một đơn vị đo khoảng cách trong thiên văn học. Một cách chính xác hơn, nó bằng độ dài bán trục lớn của quỹ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Khoảng cách Mặt Trăng xấp xỉ 400.000 km, bằng khoảng một phần tư của một triệu dặm hay 1,28 giây ánh sáng, và khoảng 30 lần đường kính Trái Đất. Một đơn vị thiên văn ít hơn một chút so với 400 lần khoảng cách Mặt Trăng.

Bán trục lớn có giá trị độ dài bằng . Khoảng cách trung bình theo thời gian giữa các tâm của Trái Đất và của Mặt Trăng là . Khoảng cách thực sự biến đổi trên suốt quỹ đạo của Mặt Trăng, từ tại điểm cận địa tới tại điểm viễn địa, dẫn đến khoảng chênh lệch .

Khoảng cách Mặt Trăng thường được sử dụng để mô tả khoảng cách tới các thiên thể gần Trái Đất. Bán trục lớn của quỹ đạo Mặt Trăng là một dữ liệu thiên văn quan trọng; đo khoảng chính xác tới từng milimet sẽ xác định được bán trục lớn chính xác tới cỡ một vài decimet; nó có những hệ quả ứng dụng để kiểm tra các lý thuyết hấp dẫn như thuyết tương đối rộng, và để tinh chỉnh các giá trị thiên văn khác như khối lượng Trái Đất, bán kính Trái Đất, và chu kỳ tự quay của Trái Đất. Phép đo đạc cũng có những ứng dụng trong việc đặc trưng hóa bán kính Mặt Trăng, khối lượng của Mặt Trời và khoảng cách tới Mặt Trời.

Các phép đo chính xác tới cỡ milimet của khoảng cách Mặt Trăng được thực hiện bằng cách đo thời gian để ánh sáng truyền từ trạm phát trên Trái Đất tới các hệ thống phản xạ ngược đặt trên Mặt Trăng. Mặt Trăng đang di chuyển ngày càng xa dần Trái Đất với tốc độ trung bình mỗi năm, điều này được phát hiện bởi Thí nghiệm đo khoảng cách đến Mặt Trăng bằng tia laser.

Giá trị

phải|nhỏ|upright=4|Khoảng cách giữa [[Trái Đất và Mặt Trăng (giá trị bình quân) – kích cỡ và khoảng cách vẽ theo tỉ lệ.]] phải|nhỏ|upright=4|Bức ảnh [[Trái Đất và Mặt Trăng, chụp bởi tàu thăm dò OSIRIS-REx]]

  • Một AU, hay đơn vị thiên văn bằng khoảng cách Mặt Trăng.
  • Một năm ánh sáng bằng 24.611.700 LD.
  • Quỹ đạo địa tĩnh (GEO) ở khoảng cách tính từ tâm Trái Đất, hay LD LD

Sự biến thiên

Khoảng cách Mặt Trăng tức thời đang liên tục thay đổi. Trên thực tế, khoảng cách thực sự giữa Mặt Trăng và Trái Đất có thể thay đổi nhanh đến , hay hơn trong 6 giờ, do quỹ đạo không tròn của nó. Có nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến khoảng cách Mặt Trăng, một số được mô tả trong phần này.

Nhiễu loạn hấp dẫn và độ lệch tâm

Khoảng cách tới Mặt Trăng có thể được đo với độ chính xác tới 2 mm trong khoảng thời gian lấy mẫu 1 giờ, dẫn đến độ bất định tổng thể vào cỡ một decimet đối với bán trục lớn. Tuy nhiên, do quỹ đạo hình elip của nó với độ lệch tâm thay đổi, khoảng cách tức thời thay đổi theo chu kỳ hàng tháng. Hơn nữa, khoảng cách chịu ảnh hưởng nhiễu loạn bởi các hiệu ứng hấp dẫn của các thiên thể khác nhau – đáng kể nhất là Mặt Trời và ít hơn là Sao Kim và Sao Mộc. Các loại lực khác gây ra nhiễu loạn nhỏ là: lực hấp dẫn đối với các hành tinh khác và các tiểu hành tinh trong Hệ Mặt Trời; các lực thủy triều; và các hiệu ứng tương đối tính. Ảnh hưởng của áp suất bức xạ từ Mặt Trời đóng góp một lượng ± 3,6 mm vào khoảng cách Mặt Trăng.

Mặc dù độ bất định tức thời chỉ vào cỡ vài milimet, khoảng cách Mặt Trăng đo được có thể thay đổi tới hơn so với giá trị trung bình trong suốt thời gian một tháng điển hình. Những yếu tố nhiễu loạn này đã được hiểu rõ và khoảng cách Mặt Trăng trong vài nghìn năm có thể được mô hình hóa chính xác.

trái|nhỏ|upright=3|Khoảng cách từ Mặt Trăng tới Trái Đất và các pha Mặt Trăng vào năm 2014.Các pha Mặt Trăng: 0 (1) – trăng non, 0,25 – bán nguyệt đầu tháng, 0,5 – [[trăng tròn, 0,75 – bán nguyệt cuối tháng.]]

phải|nhỏ|upright=1.28|Biến thiên của khoảng cách giữa tâm của Mặt Trăng và Trái Đất trong thời gian 700 ngày.

Tiêu tán thủy triều

Do tác động của các lực thủy triều, mô men động lượng của sự tự quay của Trái Đất được truyền từ từ tới quỹ đạo của Mặt Trăng. và quỹ đạo Mặt Trăng đang từ từ mở rộng. Tốc độ rời xa ở hiện tại là . Các chứng cứ địa chất cho thấy khoảng cách Mặt Trăng trung bình bằng (332.000 km) vào thời kỳ Tiền Cambri; 2500 triệu năm trước thời điểm hiện tại.

Giả thuyết vụ va chạm lớn, một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi, phát biểu rằng Mặt Trăng được tạo ra là kết quả của một vụ va chạm khốc liệt giữa Trái Đất sơ khai và một hành tinh khác, dẫn đến sự tích tụ lại các mảnh vỡ ở khoảng cách ban đầu (24.000 km). Trong giả thuyết này, vụ va chạm ban đầu được cho là đã xảy ra 4,5 tỉ năm về trước.

Lịch sử đo đạc

Cho đến cuối những năm 1950, tất cả các phép đo khoảng cách Mặt Trăng đều dựa trên phép đo góc quang học: phép đo chính xác sớm nhất là của Hipparchus vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên. Thời đại Không gian đánh dấu một bước ngoặt khi độ chính xác của giá trị này đã được cải thiện nhiều. Trong những thập niên 1950 và 1960, đã có các thí nghiệm sử dụng radar, laser và tàu vũ trụ, được tiến hành với ứng dụng của quá trình xử lý và mô hình hóa máy tính.

Phần này nhằm minh họa một số phương pháp xác định khoảng cách Mặt Trăng có ý nghĩa lịch sử hoặc thú vị, và không nhằm mục đích trở thành một danh sách đầy đủ hay triệt để.

Thị sai

Phương pháp cổ nhất để xác định khoảng cách Mặt Trăng liên quan đến việc đo góc giữa Mặt Trăng và một điểm tham chiếu đã chọn đồng thời từ nhiều địa điểm khác nhau, rồi dùng tính toán hình học để tìm ra khoảng cách. Sự đồng bộ hóa có thể được phối hợp bằng cách thực hiện phép đo vào một thời điểm đã thống nhất trước, hoặc trong khi diễn ra một sự kiện mà tất cả các bên đều quan sát được. Trước khi có các thời kế cơ học chính xác, sự kiện đồng bộ được sử dụng thường là một nguyệt thực, hoặc thời điểm Mặt Trăng đi qua đường kinh tuyến (nếu những người quan sát đều có chung kinh độ). Kỹ thuật đo đạc này được gọi là thị sai Mặt Trăng.

Để tăng độ chính xác, một vài sự hiệu chỉnh phải được thực hiện, ví dụ như điều chỉnh góc đo được để tính đến sự khúc xạ và sai lệch của ánh sáng khi truyền qua khí quyển.

Nguyệt thực

Những nỗ lực ban đầu để đo khoảng cách tới Mặt Trăng lợi dụng các quan sát về nguyệt thực, kết hợp với hiểu biết về bán kính Trái Đất, và hiểu biết rằng Mặt Trời ở xa hơn nhiều so với Mặt Trăng. Bằng cách quan sát vị trí hình học của một nguyệt thực, khoảng cách Mặt Trăng có thể tính được nhờ sử dụng lượng giác.

Các ghi chép sớm nhất về nỗ lực đo khoảng cách Mặt Trăng sử dụng kỹ thuật này là do nhà thiên văn và toán học Hy Lạp Aristarchus xứ Samos ở thế kỷ thứ 4 TCN và sau đó là Hipparchus, với các tính toán cho kết quả ( hay ). Phương pháp này sau đó được tìm thấy trong công trình của Ptolemy, ông đã tính ra kết quả là ( hay ) ở điểm xa nhất.

Quá cảnh kinh tuyến

Một cuộc viễn chinh của nhà thiên văn người Pháp A.C.D. Crommelin đã quan sát được sự quá cảnh kinh tuyến của Mặt Trăng trong cùng một đêm từ hai địa điểm khác nhau. Các phép đo chi tiết từ năm 1905 tới 1910 đã đo được góc cao vào thời điểm một hố trên Mặt Trăng cụ thể (Mösting A) cắt qua đường kinh tuyến trời địa phương, từ các trạm thiên văn tại Greenwich và tại Mũi Hảo Vọng. Khoảng cách được tính có độ bất định , và đây là giá trị chính xác nhất có thể trong nửa thế kỷ tiếp theo.

Sự che khuất

Bằng cách ghi lại thời điểm khi Mặt Trăng che lấp một ngôi sao phía sau, (hay bằng cách tương tự, đo góc giữa Mặt Trăng và một ngôi sao nền vào một thời điểm đã định trước) khoảng cách Mặt Trăng có thể được xác định, miễn là các đo đạc được thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau với khoảng cách đã biết.

Các nhà thiên văn O'Keefe và Anderson đã tính được khoảng cách Mặt Trăng băgf cách quan sát bốn sự che khuất tại chín địa điểm vào năm 1952. Họ đã tính được độ dài bán trục lớn là ( ± ). Giá trị này đã được tinh chỉnh vào năm 1962 bởi Irene Fischer, người đã kết hợp và cập nhật dữ liệu trắc địa để tính ra giá trị ( ± ).

Radar

Một thực nghiệm đã được tiến hành năm 1957 tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ sử dụng tín hiệu vọng từ sóng radar để xác định khoảng cách Trái Đất-Mặt Trăng. Các xung radar kéo dài đã được phát đi từ một đĩa radio đường kính . Sau khi sóng radio vọng từ bề mặt của Mặt Trăng, tín hiệu trở về được phát hiện và thời gian trễ được đo. Tuy nhiên, trên thực tế, tỉ số tín hiệu so với nhiễu là quá thấp tới mức không thể đưa ra một phép đo chính xác một cách đáng tin cậy.

Thực nghiệm đã được tiến hành một lần nữa vào năm 1958 tại Cơ sở Radar Hoàng gia, ở Anh. Các xung radar kéo dài đã được phát với công suất cực đại 2 megawatt, với tốc độ lặp 260 xung mỗi giây. Thời gian trễ của tín hiệu vọng đã được đo. Nhiều tín hiệu được tổng hợp để thu được tín hiệu đáng tin cậy bằng cách chồng chập các đường của máy ghi dao động trên tấm phim ảnh. Từ các phép đo này, khoảng cách được tính ra với độ bất định .

Những thực nghiệm ban đầu được dự định chỉ là chứng minh khái niệm và chỉ kéo dài trong một ngày. Các thực nghiệm tiếp theo trong một tháng đã tính ra độ dài bán trục lớn ( ± ), con số đo khoảng cách Mặt Trăng chính xác nhất thời bấy giờ.

Đo khoảng cách bằng laser

nhỏ|Thí nghiệm đo khoảng cách đến Mặt Trăng bằng tia laser trong nhiệm vụ Apollo 11Một thí nghiệm đo thời gian truyền khứ hồi của các xung laser được phát từ Trái Đất và phản xạ trở về từ bề mặt Mặt Trăng đã được tiến hành năm 1962, bởi một nhóm nghiên cứu từ Viện Công nghệ Massachusetts, và một nhóm nghiên cứu Liên Xô tại Trạm quan trắc Vật lý thiên văn Crimea.

Trong các nhiệm vụ Apollo năm 1969, các phi hành gia đã đặt các bộ phản xạ ngược trên bề mặt của Mặt Trăng nhằm mục đích tinh chỉnh độ chính xác và độ tập trung phép đo của kỹ thuật này. Các phép đo vẫn đang được tiến hành và liên quan đến nhiều trạm laser. Độ tập trung phép đo tức thời của các thí nghiệm đo khoảng cách Mặt Trăng bằng tia laser có thể đạt tới độ phân giải cỡ vài millimet, và là phương pháp xác định khoảng cách Mặt Trăng đáng tin cậy nhất tới bây giờ. Giá trị bán trục lớn đã được xác định bằng 384,399.0 km.

Thiên văn nghiệp dư

Thời hiện đại, với khả năng tiếp cận tới các thiết bị đo thời gian chính xác, camera kỹ thuật số với độ phân giải cao, bộ thu GPS, máy tính mạnh mẽ và phương tiện truyền thông gần như tức thời, các nhà thiên văn nghiệp dư ngày nay có thể thực hiện các phép đo khoảng cách Mặt Trăng với độ chính xác cao.

Ngày 23 tháng 10 năm 2007, các bức ảnh về Mặt Trăng trong khi gần che khuất sao Regulus đã được chụp từ hai địa điểm, ở Hy Lạp và Anh. Bằng cách đo góc thị sai giữa Mặt Trăng và ngôi sao nền đã chọn này, khoảng cách Mặt Trăng đã được tính.

Một dự án đầy tham vọng hơn với tên gọi "Chiến dịch Aristarchus" đã được tiến hành vào lúc nguyệt thực ngày 15 tháng 4 năm 2014. Trong sự kiện này, những người tham gia được mời đến để chụp lại một chuỗi năm bức ảnh kỹ thuật số từ khi trăng mới mọc tới lúc đỉnh điểm (thời điểm với cao độ lớn nhất).

Phương pháp này tận dụng thực tế là Mặt Trăng là gần nhất với một người quan sát khi nó ở vị trí cao nhất trên bầu trời, so với khi nó đang ở trên đường chân trời. Mặc dù trông có vẻ như Mặt Trăng là to nhất khi nó gần đường chân trời, điều ngược lại mới đúng. Hiện tượng này được biết với tên gọi ảo giác Mặt Trăng. Lý do của sự khác biệt về khoảng cách là do khoảng cách giữa tâm của Mặt Trăng và tâm của Trái Đất là gần như không đổi trong suốt ban đêm, nhưng một người quan sát đứng trên bề mặt Trái Đất thực ra đang cách tâm Trái Đất một khoảng 1 bán kính Trái Đất. Do sự chênh lệch này, người quan sát là gần nhất với Mặt Trăng khi nó ở trên đỉnh đầu.

Các camera hiện đại bây giờ đã đạt đến mức độ phân giải có khả năng chụp ảnh Mặt Trăng với độ chuẩn xác đủ để nhận biết và quan trọng hơn là đo được sự thay đổi nhỏ này trong kích cỡ. Kết quả của thí nghiệm này được tính ra bằng LD = . Giá trị được chấp nhận trong đêm đó là , dẫn đến độ chính xác . Phương pháp này có lợi thế là dụng cụ đo cần thiết duy nhất là một máy ảnh kỹ thuật số hiện đại (được trang bị thêm một đồng hồ chính xác, và một bộ thu GPS).

Một số phương pháp thực nghiệm khác để đo khoảng cách Mặt Trăng có thể thực hiện bởi các nhà thiên văn nghiệp dư liên quan tới:

  • Chụp các bức ảnh của Mặt Trăng trước lúc nó đi vào vùng bóng nửa tối và sau khi nó đang bị che khuất hoàn toàn lúc nguyệt thực.
  • Đo một cách chuẩn xác nhất có thể thời gian tiếp xúc bóng tối trong lúc nguyệt thực.
  • Chụp các bức ảnh tốt nhất của nguyệt thực một phần khi hình dạng và kích cỡ của bóng của Trái Đất thấy được rõ nét nhất.
  • Chụp một bức ảnh của Mặt Trăng cùng với các thiên thể nền ở trong cùng tầm nhìn, chẳng hạn Spica và Hỏa Tinh – từ nhiều nơi khác nhau.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khoảng cách Trái Đất – Mặt Trăng** tức thời, hay **khoảng cách tới Mặt Trăng**, là khoảng cách từ tâm của Trái Đất đến tâm của Mặt Trăng. **Khoảng cách Mặt Trăng** (ký hiệu: **LD**
|} Mặt Trăng quay quanh Trái Đất theo hướng cùng chiều với chiều quay Trái Đất và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khi so sánh với các ngôi sao cố định trong khoảng
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Thiên văn học Maya** là những nghiên cứu về Mặt Trăng, hành tinh, Ngân Hà, Mặt Trời và những sự xuất hiện thiên văn khác được thực hiện bởi văn minh Maya. Đặc biệt là
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_;  TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
**Chiêm tinh học và thiên văn học** được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: _astrologia_) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17
thumb|Một trang từ [[lịch Hindu vào năm 1871-1872.]] **Thiên văn học Ấn Độ** có một lịch sử kéo dài từ thời tiền sử cho đến thời hiện đại. Một vài nguồn gốc sớm nhất của
thumb|Lần giao hội của [[Sao Thủy và Sao Kim xuất hiện phía trên Mặt Trăng, nhìn từ Đài quan sát Paranal miền bắc Chile.]] Trong thiên văn học, **giao hội** xuất hiện khi hai hoặc
thế=An angle ε is drawn between two straight lines from Earth to the Sun, and from Earth to the planet. This is demonstrated for different positions along circular orbits, both for planets closer to the
nhỏ|Video về các [[pha Mặt Trăng và sự bình động trong năm 2019 ở Bắc Bán Cầu theo các khoảng giờ, với nhạc nền, chú thích, và đồ họa bổ sung.]] Trong thiên văn học
phải|Sao Mộc có ảnh hưởng lớn đến nhiễu loạn hấp dẫn đối với các sao chổi. **Nhiễu loạn hấp dẫn** là các thay đổi nhỏ trong chuyển động của thiên thể, trên quỹ đạo quanh
**Đơn vị thiên văn** (ký hiệu: au) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi
**Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu** (tiếng Anh: _European Southern Observatory_ (ESO), tiếng Pháp: _Observatoire européen austral_), tên chính thức là **Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu**
phải|[[Siêu tân tinh Kepler]] **Vật lý thiên văn** là một phần của ngành thiên văn học có quan hệ với vật lý ở trong vũ trụ, bao gồm các tính chất vật lý (cường độ
nhỏ|220x220px|Các pha mặt trăng và sự [[Bình động (thiên văn học)|bình động vào năm 2022 nhìn từ Bắc Bán cầu theo giờ, âm nhạc, tiêu đề, và đồ họa bổ sung.]] nhỏ|220x220px|Các pha mặt trăng
Trong thiên văn học, **hệ tọa độ thiên văn** là một hệ tọa độ mặt cầu dùng để xác định vị trí biểu kiến của thiên thể trên thiên cầu. Trong tọa độ Descartes, một
**Saros** là một khoảng thời gian khoảng 223 tháng giao hội (khoảng 6.585,3211 ngày hay 18 năm 11 ngày 8 giờ), có thể được sử dụng để dự đoán thiên thực của Mặt Trời và
nhỏ|234x234px| Trong [[Pha Mặt Trăng|pha lưỡi liềm, phần tối hơn của Mặt Trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời gián tiếp phản xạ từ Trái Đất, trong khi phần kia phản chiếu ánh sáng mặt
**Mặt Trăng** hay **Trăng**, **Nguyệt**, **Cung Hằng**, **Cung Trăng** (tiếng Anh: _Moon_, chữ Hán: 月) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất. Với độ sáng ở bầu trời chỉ sau Mặt Trời,tr.120
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Kính thiên văn Không gian James Webb** (**JWST**), trước đó gọi là **Kính thiên văn không gian thế hệ tiếp theo** (**NGST**), là một kính viễn vọng không gian đã được chế tạo và đã
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
350x350px|thumb|Logo chính thức của Kính thiên văn Chân trời sự kiện **Kính thiên văn Chân trời sự kiện** (tiếng Anh: **E**vent **H**orizon **T**elescope, **EHT**) là một dự án và là chương trình quan sát thiên
thumb|right|Vị trí của hố Tycho được nhìn từ [[Bắc Bán cầu]] **Tycho** () là một hố Mặt Trăng (hố va chạm) nằm ở vùng cao phía nam của Mặt Trăng, được đặt tên theo sau
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
nhỏ|phải|Tượng thờ _[[Ngọc hoàng Thượng đế_ (Xích Đế) tại chùa Long Thạnh, biểu hiện cho tín ngưỡng thờ Thiên (thờ Trời) của chúng sinh]] **Thờ thiên thể** hay **thờ cúng các thiên thể** (_Worship of
nhỏ| Một trong hai chiếc đồng hồ góc theo sao còn sót lại được biết đến trên thế giới. Nó được làm cho Ngài George Shuckburgh-Evelyn. Nó được trưng bày trong [[Đài thiên văn Hoàng
thumb **Tọa độ trên Mặt Trăng** được dùng để chỉ vị trí trên bề mặt Mặt Trăng của Trái Đất. Bất kỳ vị trí nào trên bề mặt Mặt Trăng được thể hiện bằng hai
**Mặt Trời** hay **Thái Dương** (chữ Hán: 太陽), hay **Nhật** (chữ Hán: 日), là ngôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các
thumb|[[Thiên hà Chong Chóng, một thiên hà xoắn ốc điển hình trong chòm sao Đại Hùng, có đường kính khoảng 170.000 năm ánh sáng và cách Trái Đất xấp xỉ 27 triệu năm ánh sáng.]]
Một [[đĩa tiền hành tinh đang được hình thành ở tinh vân Orion.]] Trong quan niệm của nghệ sĩ này, về một hành tinh quay qua một khoảng trống trong đĩa hình thành hành tinh
nhỏ|Hình ảnh chụp vào [[Tháng bảy|tháng 7 năm 1997 cho thấy sao sáng Aldebaran vừa xuất hiện trở lại ở phần bóng tối của trăng lưỡi liềm sau khi bị che khuất vào vài phút
nhỏ|Các giao điểm Mặt Trăng là các điểm trong đó đường di chuyển của Mặt Trăng (bạch đạo) trên bầu trời cắt hoàng đạo, đường chuyển động của Mặt Trời trên bầu trời. Các **giao
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Văn học Mỹ** trong bài viết này có ý nói đến những tác phẩm văn học được sáng tác trong lãnh thổ Hoa Kỳ và nước Mỹ thời thuộc địa. Để bàn luận chi tiết
thumb|Minh họa các pha về "meteoroid" vào khí quyển thành "meteor" nhìn thấy được, và là "meteorite" khi chạm bề mặt Trái Đất. nhỏ|Willamette Meteorite là thiên thạch to nhất được tìm thấy ở Hoa
Trong Thủy thủ Mặt Trăng, mỗi Chiến binh thủy thủ đều có những món phụ kiện và vũ khí đặc biệt để chiến đấu với kẻ xấu. Có rất nhiều những phụ kiện góp phần
phải|nhỏ|Hình động mô phỏng Trái Đất đang xoay quanh trục với thiên cầu tưởng tượng bao quanh (đường kính thiên cầu là không cố định và có độ lớn tùy biến) phải|Thiên cầu được chia
Hiện tượng thiên thực trên Sao Diêm Vương khi [[Charon (vệ tinh)|Vệ tinh Charon phủ bóng lên nó]] **Thiên thực** là một sự kiện thiên văn học khi một thiên thể chuyển động vào bóng
nhỏ|400x400px|Cấu trúc bên trong của Mặt Trăng nhỏ|350x350px|Mẫu [[bazan olivin thu thập bởi Apollo 15.]] Với mật độ khối lượng bình quân 3346,4 kg/m³, Mặt Trăng là một thiên thể phân dị, về mặt địa hóa
thumb|Ví dụ về kích thước và khối lượng của những ngôi sao lớn: trên ảnh, từ trái sang phải, [[sao Pistol (27,5 MTập tin:Sun symbol.svg) màu lam, sao Rho Cassiopeiae [http://www.solstation.com/x-objects/rho-cas.htm] (14-30 MTập tin:Sun symbol.svg)
phải|nhỏ|200x200px| [[Mặt Trăng|Mặt trăng khi nhìn từ Trái Đất ]] Mặt Trăng là vệ tinh tự nhiên lớn nhất và là vật thể thiên văn lớn gần nhất với Trái Đất. Mặt Trăng có thể
thumb|right|Hình phối cảnh quỹ đạo chuyển tiếp Mặt Trăng. TLI xảy ra tại chấm đỏ gần Trái Đất. **Phóng chuyển tiếp Mặt Trăng** (tiếng Anh: **trans-lunar injection**, **TLI**) một thuật ngữ kỹ thuật để chỉ
**Từ** (, đôi khi cũng được viết là 辭 hay 辞) là một thể loại văn học, hình thành vào đời Đường, và phát triển mạnh vào đời Tống ở Trung Quốc. ## Nguồn gốc
nhỏ| Vào thời gian [[Mặt Trời mọc và lặn trên Mặt Trăng, nhiều phi hành đoàn Apollo đã nhìn thấy ánh sáng và tia sáng. Bản phác thảo của Apollo 17 này mô tả các
**Nhật thực** () xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn
**Sao Thiên Lang** hay **Thiên Lang tinh** là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm với cấp sao biểu kiến là -1,46. Tên gọi theo định danh Bayer của sao Thiên Lang là **α
Hình ảnh mô phỏng của một đám mây bụi tiền hành tinh. **Sự hình thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời** bắt đầu từ cách đây khoảng 4,6 tỷ năm với sự suy sụp