✨Chiêm tinh học và thiên văn học

Chiêm tinh học và thiên văn học

Chiêm tinh học và thiên văn học được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: astrologia) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17 (Thời đại Lý tính) với sự phủ nhận dành cho chiêm tinh học. Trong suốt hậu kỳ thời kỳ Trung Cổ, thiên văn học có thể dựa vào nền tảng mà chiêm tinh học tạo ra.

Từ thế kỷ 18, các nhà khoa học bắt đầu củng cố việc tách hai lĩnh vực này thành hai môn nghiên cứu riêng biệt. Trong khi thiên văn học là môn nghiên cứu về các vật thể và các hiện tượng bên ngoài Trái Đất và là một môn khoa học và là một môn được nghiên cứu rộng rãi thì chiêm tinh học sử dụng những vị trí tạm thời của các vật thể đẻ đưa ra những dự đoán về các sự kiện trong tương lai, chỉ là một thứ dự đoán và là một thứ giả khoa học với không có giá trị khoa học nào.

Tổng quan

upright|nhỏ|trái|Khoa học lúc đầu, đặc biệt là [[hình học và thiên văn học/chiêm tinh học (astronomia), được liên kết với thần học cho hầu hết học giả thời trung cổ. The đường vòng trong bản viết vào thế kỷ 13 này là biểu tượng của hành động của chúa về sáng thế sáng thế, và nhiều người tin rằng nó là thần học về bản chất hay một cách hoàn hảo nó có thể được tìm thấy trong các đường tròn.]]

Babylon

Tại Babylonia, không có vai trò tách biệt cho các nhà thiên văn học với vai trò nhà tiên tri về các hiện tượng vũ trụ. Những nha chiêm tinh lại đóng vai trò diễn giải. Những chức năng khác nhau được thực hiện bởi cùng một người. Nhưng điều đó không có nghĩa là chiêm tinh học và thiên văn học là một trong mọi lúc.

Đối với tử vi Babylon các từ được sử dụng là apotelesmakatarche. Sau đó cả hai từ này được gộp vào thành một từ của Aristotle: astrologia

Hy Lạp cổ đại

Ở Hy Lạp cổ đại, những nhà tư tưởng thời Tiền Socrates như là Anaximander, Xenophanes, Anaximenes, Heraclides suy đoán về tự nhiên và thực chất của các vì sao và hành tinh. Các nhà thiên văn học như Eudoxus (người cùng thời với Plato) quan sát chuyển động và quỹ đạo của các hành tinh và thiết kế một mô hình vũ trụ địa tâm sau được chấp nhận bởi Aristotle. Mô hình đó còn duy trì đến thời Ptolemy, người thêm các ngoại luân đê giải thích chuyển động của Hỏa tinh (giật lùi so với Trái Đất nếu quan sát từ Trái Đất). Trong khoảng năm 250 TCN, Aristarchus xứ Samos đã đề xuất một lý thuyết nhật tâm, thứ không được xét đến trong gần hai nghìn năm cho đến thời của Nikolaus Copernicus, trong khi đó mô hình của Aristotle còn được chấp nhận). Trường phái Plato ủng hộ việc nghiên cứu thiên văn học như là một phần của triết học bởi vì chuyển động của các thiên đường thể hiện một vũ trụ trật tự và hài hòa. Trong thế kỷ 3 TCN, chiêm tinh Babylon bắt đầu kết thúc sự tồn tại của nó tại Hy Lạp.

Plato đã dạy về astronomia và cho rằng các hiện tượng hành tinh nên được mô tả bằng một mô hình hình học. Giải pháp đầu tiên được đề xuất bởi Eudoxus. Trong khi đó, Aristotle lại ưa cách tiếp cận vật lý hơn và chấp nhận từ astrologia. Tâm sai và ngoại luân được nghĩ tớ như là điều tưởng tượng hữu dụng. Để có sự công khai tổng quát hơn, nguyên lý phân loại đã không được cho là hiển nhiên và cả hai từ đều được chấp nhận.

Thời kỳ Hy Lạp hóa

Chiêm tinh học đã bị chỉ trích bởi các nhà triết học Hy Lạp hóa như Carneades, nhà triết học của chủ nghĩa hoài nghi, và Panaetius, nhà triết học của chủ nghĩa khắc kỷ. Tuy nhiên, những ghi chép về Năm Vĩ đại (khi tất cả các hành tinh đều hoàn thành quỹ đạo của mình và trở lại vị trí cân xứng của mình) và sự trở lại thường xuyên là các học thuyết khắc kỷ tạo nên định mệnh một cách có thể.

Trong thế giới Hy Lạp hóa, các từ tiếng Hy Lạp astrologiaastronomia được sử dụng có thể thay thế cho nhau. nhưng chúng là những quan niệm khá nhac chứ không phải mô tả cho cùng một thứ.

Thời kỳ Trung Cổ

Trong tác phẩm mang tính tổng hợp Etymologiae, Isidore xứ Sevilla đã lưu ý rõ ràng sự khác biệt giữa hai thuật ngữ thiên văn học và chiêm tinh học (Etymologiae, quyển III, chương xxvii). Và sự phân biệt đã xuất hiện sau đó trong các tác phẩm viết bằng tiếng Ả Rập. Isodore đã xác định hai hai thành phần vướng vào trong chuyên môn thiên văn học và gọi chúng là astrologia naturalisastrologia superstitiosa

Chiêm tinh học đã được chấp nhận rộng rãi trong châu Âu Trung Cổ như là một lĩnh vực thiên văn từ các nhà chiêm tinh Hy Lạp và Ả Rập. Trong hậu kỳ thời kỳ Trung Cổ, chấp nhận hay phủ nhận điều đó phụ thuộc sự thu nhận trong các công quốc hoàng gia tại châu Âu.

Những khoảng thời gian tiếp theo

Phải dến thời Francis Bacon, chiêm tinh học bị phủ nhận như là một phần của siêu hình học kinh viện hơn là quan sát thực nghiệm.

Một sự phân chia rõ ràng hơn giữa thiên văn học và chiêm tinh học trong thế giới phương Tây dần dần tìm dược chỗ đứng trong thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Vào lúc này, chiêm tinh học được nghĩ đến như là một môn học huyền bí hay là sự mê tín của giới tinh hoa.

Bởi vì lịch sử dài dằng dặc của hai lĩnh vực này, tỉnh thoảng chúng bị nhầm lẫn với nhau. Nhưng, nhiều nhà chiêm tinh học đương thời lại không tuyên bố nó là một môn khoa học mà cho đó là một hình thức của sự tiên đoán giống như Kinh Dịch, một thứ nghệ thuật, hoặc là một phần của một hệ thống niềm tin tinh thần (chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tân Platon, Tân tà giáo, thuyết thần trí và Ấn Độ giáo).

Những đặc tính phân biệt

nhỏ|phải|Nhà thiên văn-nhà chiêm tinh [[Richard of Wallingford đang đo đạc equatorium với một cặp đường. Tranh thế kỷ 14]]

Phương pháp làm việc

Mục tiêu cơ sở của thiên văn học là để hiểu vật lý của vũ trụ. Các nhà chiêm tinh học sử dụng các tính toán của thiên văn cho vị trí của các vật thể vũ trụ như trong nguyệt thực và cố gắng liên tưởng đến các hiện tượng thiên văn (khía cạnh thiên văn, vị trí chỉ dấu) với các sự kiện và vụ việc của con người trên Trái Đất. Các nhà thiên văn học kiên định sử dụng phương pháp khoa học, giả định hợp với tự nhiên và lý lẽ toán học trừu tượng để điều tra hay giải thích hiện tượng trong vũ trụ. Các nhà chiêm tinh học sử dụng lý lẽ tôn giáo hay huyền bí cũng như văn học dân gian, chủ nghĩa tượng trưng và mê tín gắn với những tiên đoán toán học để giải thích các hiện tượng trong vũ trụ. Các phương pháp toán học không được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh học một cách kiên định.

Cách nhìn nhận về vũ trụ

Các nhà chiêm tinh học sử dụng môn học của mình với vị thế của thuyết địa tâm và họ xét vũ trụ là một hệ hài hòa, không thay đổi và tĩnh. Trong khi đó các nhà thiên văn học sử dụng phương pháp khoa học để xác định rằng vũ trụ không có một trung tâm nào và năng động, bằng chứng cụ thể là thuýet Big Bang.

Suy nghĩ về các vì sao và hành tinh

Các nhà chiêm tinh học tin rằng vị trí của các vì sao và các hành tinh xác định tính cách và tương lai của một cá nhân. Các nhà thiên văn học nghiên cứu về các vì sao và hành tinh, nhưng không thấy bằng chứng ủng hộ lý thuyết của các nhà chiêm tinh. Các nhà tâm lý học nghiên cứu tính cách và khi có nhiều thuyết về tâm lý, không lý thuyết dòng chính nào liên quan đến các vì sao và các hành tinh. (Mô hình tính cách Myers-Briggs dựa trên những tác phẩm của Carl Jung có bốn yếu tố tương xứng với các yếu tố vũ trụ: lửa, không khí, đất và nước. Lý thuyết này được sử dụng bởi các nhân viên tư vấn và các giáo viên đời sống chứ không bởi các nhà tâm lý học).

Suy nghĩ về Trái Đất

Cả các nhà thiên văn học và chiêm tinh học đều nhìn nhận Trái Đất là một phần của vũ trụ, và cả hai có một mối liên hệ rộng lớn trong sự hài hòa. Tuy nhiên, những nhà chiêm tinh học mô tả bằng triết học và huyền bí rằng sự hài hòa có một tính chất siêu thiên nhiên, đa vật thể và tiên đoán, thứ có thể ảnh hưởng đến các sự kiện trên thế giới và cuộc sống cá nhân của mọi người. Các nhà thiên văn học, với vai trò là thành viên của khoa học, chẳng thể sử dụng trong những giải thích khoa học của mình một điều rằng những giải thích đó không bắt nguồn từ những điều kiện có thể sinh ra với kinh nghiệm, không liên quan đến sự kết luận của họ.

Quá trình phân loại trong lịch sử

phải|nhỏ|Một bức chạm bởi [[Albrecht Dürer kết hợp với Mashallah, từ trang tiêu đề của De scientia motus orbis (Phiên bản tiếng Latin với bản khắc, 1504). Cũng giống như nhiều sự minh họa thời trung cổ, the đường vòng ở đây là một biểu tượng của tôn giáo cũng như khoa học trong sự ám chỉ đến Chúa như là kiến trúc sư của tạo hóa]] Trong một thời gian dài, chiêm tinh học sử dụng những nghiên cứu thiên văn rồi từ chính những nghiên cứu đó để làm lịch thiên văn chính xác hơn để sử dụng trong chiêm tinh học. Trong châu Âu Trung Cổ, từ Astronomia thỉnh thoảng được sử dụng để nhấn mạnh cả thiên văn học và chiêm tinh học mà không có sự phân chia rõ ràng (đó chính là một trong những nguồn gốc của 7 môn nghệ thuật tự do. Vua và những người cai trị khác sử dụng các nhà chiêm tinh học để hỗ trợ họ trong các quyết định trong vương quốc của họ, vì thế đã hỗ trợ cho các nghiên cứu thiên văn. Các học sinh trường đại học thảo dược được dạy chiêm tinh học như để sử dụng môn học này trong nghiên cứu thảo dược.

Chiêm tinh học và thiên văn học tách nhau ra từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Copernicus không nghiên cứu chiêm tinh học (Và cả thiên văn học kinh nghiệm, công việc của ông mang tính chất lý thuyết). Nhưng hầu hết các nhà thiên văn học quan trọng nhất trước thời Isaac Newton đều là các nhà chiêm tinh học có chuyên môn: Tycho Brahe, Johannes Kepler và Galileo Galilei.

Có sự thích đáng là sự phát triển của các thiết bị đo thời gian tốt hơn, lúc đầu để hỗ trợ cho hàng hải. Sau đó, có lẽ những thiết bị này được sử dụng để phục vụ cho những tiên đoán thiên văn học. Những tiên đoán này có thể đã được kiểm tra và đã được chứng minh một cách kiên định rằng chúng sai. Vào cuối thế kỷ 18, thiên văn học đã trở thành một trong những môn khoa học lớn của thời kỳ Khai sáng, sử dụng các phương pháp khoa học đã được mã hóa, và trở nên khác biệt với chiêm tinh học.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tính Cách - Tài Vận 12 Cung Hoàng Đạo Theo các nhà Chiêm tinh học và Thiên văn học thời cổ đại, 12 cung Hoàng Đạo tương ứng với 12 tháng trong năm. Các cung
Theo các nhà Chiêm tinh học và Thiên văn học thời cổ đại, 12 cung Hoàng Đạo tương ứng với 12 tháng trong năm. Các cung được phân chia làm bốn nhóm yếu tố Lửa,
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Siêu tân tinh** (chữ Hán: 超新星) hay **sao siêu mới** (; viết tắt là **SN** hay **SNe**) là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của
Một [[đĩa tiền hành tinh đang được hình thành ở tinh vân Orion.]] Trong quan niệm của nghệ sĩ này, về một hành tinh quay qua một khoảng trống trong đĩa hình thành hành tinh
Quasar [[3C 273 do kính thiên văn Hubble chụp.]] **Quasar**, (viết tắt của tên tiếng Anh: _quasi-stellar object_, có nghĩa là _vật thể giống sao_, trong tiếng Việt, quasar còn được gọi là **chuẩn tinh**)
**Olympic Khoa học Trái Đất Quốc tế** (tiếng Anh: **The International Earth Science Olympiad**, viết tắt: **IESO**) là một kỳ thi thường niên dành cho học sinh trung học. Đây là một trong 12 Olympic
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Chiêm tinh học và thiên văn học** được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: _astrologia_) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
nhỏ|phải|Tượng thờ _[[Ngọc hoàng Thượng đế_ (Xích Đế) tại chùa Long Thạnh, biểu hiện cho tín ngưỡng thờ Thiên (thờ Trời) của chúng sinh]] **Thờ thiên thể** hay **thờ cúng các thiên thể** (_Worship of
thumb| Một tấm Babylon ghi lại [[sao chổi Halley vào năm 164 TCN]] **Thiên văn học Babylon** là nền thiên văn học gồm các nghiên cứu hay ghi chép của các vật thể vũ trụ
Danh sách dưới đây liệt kê một số **nhà thiên văn học** nổi tiếng, sắp xếp theo năm sinh. *Aristarchus (vào khoảng 310-230 TCN) *Hipparchus (vào khoảng 190-120 TCN) *Claudius Ptolemaeus (vào khoảng 85-165 TCN)
**Bạch Dương** (tiếng Anh: Aries, ký hiệu: ♈︎), hay còn gọi là **Dương Cưu**, là cung hoàng đạo đầu tiên của vòng Hoàng Đạo, bắt nguồn từ chòm sao Dương Cưu và ở giữa độ
**_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
**Song Ngư** (tiếng Anh: Pisces ; _Ikhthyes_; ký hiệu: ♓︎) là cung hoàng đạo thứ mười hai và cuối cùng trong Hoàng Đạo, trải dài từ 330° đến 0°Của kinh độ thiên thể. Biểu tượng
thumb|Ảnh của Sao Hải Vương hình [[trăng lưỡi liềm (ở trên) và vệ tinh nhân tạo của nó Triton (ở giữa), được chụp bởi Voyager 2 trong chuyến bay quanh nó vào năm 1989]] **Định
Percival Lowell, người đưa ra giả thuyết về **Hành tinh X** **Hành tinh X** là một hành tinh giả thuyết lớn vận động theo một quỹ đạo nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương.
**Cơ học thiên thể** là một nhánh của thiên văn học giải quyết các vấn đề chuyển động và hiệu ứng hấp dẫn của các thiên thể. Lĩnh vực này vận dụng các nguyên lý
Hầu hết các hệ thống chiêm tinh học đều chia Vòng Hoàng Đạo thành 12 cung. Vòng 12 cung nhà hoàng đạo (khác với Vòng Tròn Hoàng Đạo) được sắp xếp khác nhau tùy thuộc
**Xử Nữ** (tiếng Anh: Virgo, ký hiệu: ), hay còn gọi là **Trinh Nữ** hoặc **Thất Nữ**, là cung hoàng đạo thứ sáu trong cung chiêm tinh chí tuyến của phương Tây (23 tháng 8
**Vẫn thạch** là phần còn lại của thiên thạch đến từ vùng không gian giữa các hành tinh bay vào khí quyển, bị cháy mất một phần và rơi xuống bề mặt Trái Đất. Vẫn
**Đoàn Văn Khâm** (chữ Hán: 段文欽 1020 - 1094) đỗ Thái học sinh thời nhà Lý, là nhà thơ, danh thần, Thượng thư Bộ Công đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128). ## Gia thế và
Minh họa phần trung tâm của tinh vân hành tinh Henize 2-428 trong [[Thiên Ưng (chòm sao)|Thiên Ưng gồm hai sao lùn trắng có khối lượng nhỏ hơn Mặt Trời ]] **Siêu tân tinh loại
Trong thiên văn học, **siêu tân tinh giàu calci** là một phân lớp siêu tân tinh có độ sáng mờ nhạt hơn các siêu tân tinh khác và tạo ra một lượng lớn calci bất
**Hành tinh carbon** là một dạng hành tinh trên lý thuyết có chứa nhiều carbon hơn oxy. Carbon là một thành phần phổ biến của các hệ hành tinh và là thành phần chủ yếu
**Bảo Bình** (tiếng Anh: Aquarius, Hy Lạp: Ύδροχόος _Hudrokhoös_, Latinh: Aquārius, ký hiệu: ♒︎), hay còn gọi là **Thủy Bình**, là cung hoàng đạo thứ mười một trong vòng tròn Hoàng Đạo, bắt nguồn từ
**Song Tử** (tiếng Anh: Gemini, ký hiệu: ), hay còn gọi là **Song Sinh** hoặc **Song Nam**, là cung hoàng đạo thứ ba trong vòng tròn Hoàng Đạo, kéo dài từ giữa độ thứ 60
**Bọ Cạp** (tiếng Anh: Scorpio /ˈskɔːrpiəʊ/; tiếng Hy Lạp cổ: Σκορπιός _skorpiós_; ký hiệu: ♏︎), hay còn gọi là **Thiên Hạt**, **Hổ Cáp** hoặc **Thiên Yết**, là cung hoàng đạo thứ tám trong vòng tròn
thumb|right|Bản đồ sao từ thế kỷ thứ 18 cho thấy chân của Ophiuchus vượt qua đường Hoàng đạo **Ophiuchus** (⛎) () đôi khi được sử dụng trong chiêm tinh học là dấu hiệu thứ mười
phải|nhỏ| Minh họa về Trái đất, quay quanh bởi [[mặt trăng thứ hai giả thuyết. ]] phải|nhỏ| [[31 Crateris, một hệ sao đôi che khuất có thể ban đầu bị nhầm lẫn với mặt trăng
**Trắc địa thiên văn học** hay **trắc địa thiên văn** là việc áp dụng các phương pháp thiên văn vào các mạng lưới và các dự án kỹ thuật của trắc địa. Các chủ đề
Hiện tượng thiên thực trên Sao Diêm Vương khi [[Charon (vệ tinh)|Vệ tinh Charon phủ bóng lên nó]] **Thiên thực** là một sự kiện thiên văn học khi một thiên thể chuyển động vào bóng
**Hệ đôi** trong thiên văn học là hai thiên thể gắn bó với nhau do tác động lực hấp dẫn lẫn nhau (thường là hai sao- sao đôi, hai hành tinh-hành tinh đôi hay hai
Danh sách các nhà thiên văn Đức nổi tiếng và một số nhà khoa học có tác động gần gũi đến thiên văn học. * Ernst Abbe (1840-1905), nhà vật lý và thiên văn *
thumb|Lần giao hội của [[Sao Thủy và Sao Kim xuất hiện phía trên Mặt Trăng, nhìn từ Đài quan sát Paranal miền bắc Chile.]] Trong thiên văn học, **giao hội** xuất hiện khi hai hoặc
thumb|Minh họa phương pháp [[giao thoa trong phạm vi bước sóng quang học để xác định chính xác vị trí các ngôi sao. _Ảnh của NASA/JPL-Caltech_]] **Trắc lượng học thiên thể** (hay **tinh trắc học**)
thumb|Các **điểm Troia** được đánh dấu [[điểm Lagrange|L4 và L5, màu đỏ, trên quỹ đạo của thiên thể xanh bay quanh thiên thể vàng. L4 và L5 là hai trong số 5 điểm Lagrange.]] Trong
**Deimos** (English hay ; tiếng Hy Lạp _Δείμος_: "Kinh hoàng"), là vệ tinh nhỏ hơn và ở xa hơn phía ngoài trong số hai vệ tinh của Sao Hoả, được đặt theo tên Deimos (con
**Bọ Cạp** (chữ Hán: 天蝎/天蠍 đọc đúng là **Thiên Hiết** hay còn gọi là **Thiên Hạt**, tiếng La Tinh: **_Scorpius_** để chỉ _con bọ cạp_) là một trong các chòm sao trong đường Hoàng Đạo.
**Vật chất** theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái
**Ma Kết** (tiếng Anh: Capricorn, ký hiệu: ), hay còn gọi là **Ngư Dương**, là cung hoàng đạo thứ mười của vòng tròn Hoàng Đạo, bắt nguồn từ chòm sao Ngư Dương và nằm ở
thumb|đồng hồ **Đồng hồ thiên văn Praha** ( ), nằm tại thủ đô của Cộng hòa Séc. Đồng hồ được lắp đặt lần đầu vào năm 1410, là đồng hồ thiên văn cổ thứ ba
**Lý tính** là một thuật ngữ dùng trong triết học và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một sự
Tập tin:2nd millennium montage.png|Từ trên cùng bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Vào năm 1492, Christopher Columbus đã phát hiện ra Bắc Mỹ, mở đầu cho thời đại **thực dân châu Âu tại châu
Trong thiên văn học, một **thiên thể bên ngoài sao Hải Vương cộng hưởng** là một thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương (TNO) có cộng hưởng quỹ đạo chuyển động trung bình với Sao
nhỏ|329x329px|Thứ tự của 8 hành tinh trong hệ Mặt Trời, gồm có cả [[Mặt Trời. Trái Đất ở vị trí thứ ba so với Mặt Trời, vì vậy so với Trái Đất, có 2 hành
**Thiên Miêu 天猫**, (tiếng La Tinh: **_Lynx_**) là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con linh mèo. Chòm sao này có diện tích 545 độ vuông, nằm trên thiên cầu bắc,