✨Thiên văn học Babylon

Thiên văn học Babylon

thumb| Một tấm Babylon ghi lại [[sao chổi Halley vào năm 164 TCN]]

Thiên văn học Babylon là nền thiên văn học gồm các nghiên cứu hay ghi chép của các vật thể vũ trụ trong thời kỳ đầu lịch sử của Mesopotamia. Những ghi chép này có thể tìm được trong các tấm đất sét của người Sumer được viết bằng chữ hình nêm có niên đại từ 3500 TCN đến 3200 TCN.

Trong sự kết hợp với huyền thoại, người Sumer đã phát triển hình thức của thiên văn học hay chiêm tinh học và hình thức này đã phát triển trong suốt nền văn hóa Babylon. Vì thế, các vị thần hành tinh đóng một vai trò quan trọng.

Nền thiên văn Babylon có vẻ đã tập trung nghiên cứu vào một nhóm các vì sao và chòm sao ví như sao Ziqpu. Những chòm sao này có thể được sưu tập từ một số nguồn sớm hơn. Sự phân loại mới nhất là phân loại Mỗi ba sao, nhắc đến các ngôi sao của Đế quốc Akkad, Amurru, Elam và những quốc gia khác.

Hệ thống đánh số dựa trên cơ số 60 đã được sử dụng. Hệ thống này đã đơn giản hóa việc tính toán và ghi chép các con số lớn và nhỏ không thường được dùng. Những thiết bị hiện đại đã chia hình tròn thành 360 độ và lấy 60 phút làm thước đo chính là xuất phát từ hệ đếm này của người Sumer.

Trong thế kỷ 8 TCN và thế kỷ 7 TCN, những nhà thiên văn học Babylon một cách tiếp cận đến thiên văn học bằng kinh nghiệm. Họ bắt đầu nghiên cứu và ghi chép hệ thống niềm tin của họ. Và các nhà thiên văn học đã quan tâm đến thiên nhiên ý tưởng của vũ trụ và bắt đầu dùng logic nội bộ với các hệ thống hành tinh được tiên đoán trước. Đây là một đóng góp quan trọng đối với thiên văn học và triết học của tự nhiên, vì thế vài học giả hiện đại đã đề cập cách tiếp cận như vậy là một cuộc cách mạng khoa học đầu tiên. Cách tiếp cận này đã được chấp nhận và phát triển trong thiên văn học Hy Lạp cổ đại cũng như thiên văn học Hy Lạp hóa. Những nguồn tiếng Latin và tiếng Hy Lạp kinh điển thường sử dụng thuật ngữ Chaldean để ám chỉ về các nhà thiên văn học của xứ Mesopotamia, những người được xét như là tu sĩ-thư lại chuyên môn hóa trong chiêm tinh học và những thể thức khác của tiên đoán.

Chỉ có các mảnh của thiên văn học Babylon còn tồn tại, bao gồm lượng lớn các mảnh đất sét gồm nhật ký thiên văn, lịch thiên văn và các thủ tục. vì thế sự hiểu biết hiện tại về hệ thống hành tinh Babylon là trong tình trạng chắp vá. Thế nhưng những mảnh còn tồn tại này chứng tỏ người Babylon có "nỗ lực thành công của việc tìm kiếm những ghi chép toán học của hiện tượng thiên văn" đầu tiên. Và "những biến thể đi sau của thiên văn học văn học, trong thế giới Hy Lạp hóa, Ấn Độ, Hồi giáo và phương Tây... dựa vào nền thiên văn học Babylon bằng những cách chính gốc và kiên quyết".

Những nguồn gốc của thiên văn học phương Tây có thể tìm thấy tại Mesopotamia và những nỗ lực của phương Tây trong các khoa học chính xác là sự kế tục trực tiếp của những nhà thiên văn học xuất hiện muộn hơn của Babylon. Sự hiểu biết hiện đại về nền thiên văn học của người Sumer là gián tiếp thông qua danh mục sao Babylon có niên đại từ 1200 TCN. Có một sự thật rằng tên của các ngôi sao xuất hiện trong tiếng Sumer đề xuất nên một cách tiếp cận liên tục đến đầu thời kỳ đồ đồng.

Thiên văn học Babylon thời kỳ đầu

Nền thiên văn học Babylon thời kỳ đầu trong và sau Triều đại Babylon Đệ nhất (khoảng 1830 TCN) và trước Đế quốc Babylon mới (khoảng 626 TCN).

Những người Babylon là những người đầu tiên công nhận hiện tượng thiên văn học có chu kỳ của riêng nó và áp dụng toán học để đưa ra những dự đoán của mình. Những tấm có niên đại vào Triều đại Babylon Đệ nhất đã ghi lại sự ứng dụng của toán học để thể hiện sự biến đổi của độ dài của ngày thông qua một năm mặt trời. Những thế kỷ mà người Babylon quan sát hiện tượng vũ trụ được ghi chép trong nhiều bản chữ nêm được biết đến là chuỗi Enûma Anu Enlil - văn bản thiên văn học đáng chú ý tồn tại lâu nhất mà chúng ta có là tấm 63 của chuỗi này, tấm về Kim tinh của Ammisaduqa liệt kê những lần mọc lần đầu và lần cuối của Kim tinh trong một giai đoạn khoảng 21 năm. Đó là bằng chứng sớm nhất rằng hiện tượng hành tinh được ghi nhận có chu kỳ.

Một vật thể đánh dấu lăng kính hình ngà voi đã được tu sửa từ sự phá hoại của Nineveh. Đầu tiên nó được cho là mô tả quy luật của một trò chơi, sau đó cách sử dụng của nó mới được giải mã là một đơn vị chuyển đổi cho tính toán chuyển động của các vật thể vũ trụ và chòm sao.

Các nhà thiên văn học Babylon phát triển các ký hiệu hoàng đạo. Các ký hiệu này được tạo ra nhờ sự phân chia bầu trời thành 3 phần, mỗi phần 9 độ và các chòm sao sẽ nằm trong những chỗ đó.

MUL.APIN bao gồm danh mục sao Babylon cũng như các sơ đồ cho sự mọc cùng Mặt Trời và vị trí của các hành tinh, và độ dài của ngày được đo bằng đồng hồ nước, cột đồng hồ mặt trời, bóng tối và sự xen vào. Văn bản GU của Babylon đã sắp xếp các ngôi sao thành chuỗi với những đường cầu có độ nghiêng xác định từ đó có đạc sự lên bên phải và khoảng nghỉ thời gian. Văn bản này cũng sử dụng các ngôi sao ở thiên đỉnh, những ngôi sao được chia bởi những sự khác biệt lên bên phải được tạo ra. Có hàng tá bản viết bằng chữ nêm của Babylon với sự quan sát thực các pha tối, nhất là ở Babylonia.

Lý thuyết hành tinh

Babylon là nền văn minh đầu tiên biết đến một lý thuyết chức năng về các hành tinh. Ghi chép về hành tinh còn tồn tại lâu nhất là bản ghi chép về Kim tinh của Ammisaduqa. Văn bản này có từ thế kỷ 7 TCN là một bản sao chép từ một bản ghi lại những quan sát về chuyển động của Kim tinh. Bản được sao lại này có lẽ có từ thiên niên kỷ 2 TCN. Các nhà chiêm tinh Babylon cũng đã xếp nền tảng cho chiêm tinh học phương Tây. Enuma anu enlil được viết trong thời Tân Assyria vào thế kỷ 7 TCN đã đưa ra danh sách gồm các điềm báo và mối quan hệ của chúng với một số hiện tượng thiên văn bao gồm chuyển động của các hành tinh.

Vũ trụ học

Trong sự tương phản về cách nhìn thế giới trong văn học Mesopotamia và văn học Assyria - Babylon, đặc biệt là trong thần thoại Mesopotamia và thần thoại Babylon có rất ít được biết đến về vũ trụ học và cách nhìn thế giới của các nhà chiêm tinh học Babylon. Chủ yếu là vì tình trạng manh mún hiện tại về lý thuyết hành tinh Babylonvà cũng bởi thiên văn học Babylon độc lập với vũ trụ học trong thời điểm đó. Tuy nhiên, những dấu vết về vũ trụ học có thể tìm thấy trong thần thoại và văn học Babylon.

Trong vũ trụ học Babylon, Trái Đất và thiên đường được miêu tà là "cả không gian, trong hình cầu" với sự ám chỉ "đường tròn của thiên đường và Trái Đất" và "toàn bộ thiên đường và Trái Đất". Cái nhìn thế giới này không hẳn là thuyết địa cầu. Ý tưởng thuyết địa cầu. nơi trung tâm Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, không hoàn toàn tồn tại trong vũ trụ học Babylon mà được xác định sau này trong tác phẩm Về các Thiên đường của Aristotle. Trong tương phản, vũ trụ học Babylon đề xuất rằng vũ trụ quay tròn với các thiên đường và Trái Đất được cân bằng và tham gia vào đó. Những người Babylon và tiếp nối là những người Sumer tin vào số lớn các thiên đường và Trái Đất. Bùa chú của người Sumer vào thiên niên kỷ 2 TCN đề cập rằng có 7 thiên đường và 7 Trái Đất, có lẽ liên hệ về niên đại của sự sáng tạo của 7 thế hệ của các vị thánh.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb| Một tấm Babylon ghi lại [[sao chổi Halley vào năm 164 TCN]] **Thiên văn học Babylon** là nền thiên văn học gồm các nghiên cứu hay ghi chép của các vật thể vũ trụ
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Chiêm tinh học và thiên văn học** được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: _astrologia_) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_;  TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
right|thumb|Biểu đồ từ [[trần thiên văn của lăng mộ Senemut|lăng mộ của Senemut, triều đại thứ 18]] **Thiên văn học Ai Cập** bắt đầu từ thời tiền sử, trong Ai Cập cổ đại. Vào thiên
**Cam Đức** (), hay còn được gọi là **Cam Công** (甘公), là một nhà thiên văn học và chiêm tinh học Trung Quốc cổ đại sinh ra ở nước Tề. Cùng với Thạch Thân, ông
nhỏ|phải|Tượng thờ _[[Ngọc hoàng Thượng đế_ (Xích Đế) tại chùa Long Thạnh, biểu hiện cho tín ngưỡng thờ Thiên (thờ Trời) của chúng sinh]] **Thờ thiên thể** hay **thờ cúng các thiên thể** (_Worship of
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
thumb|right|Tấm đất sét [[YBC 7289 với những lời chú giải. Nó thể hiện giá trị xấp xỉ của căn bậc hai của 2 trong 4 số hệ đếm sáu mươi, 1 24 51 10, chính
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
[[Lạp Hộ (Orion) là một chòm sao đáng chú ý, nó được nhìn thấy từ mọi nơi trên Trái Đất (nhưng không phải quanh năm).]] **Chòm sao** là một nhóm các ngôi sao được người
nhỏ|350x350px| Trái đất trong [[Chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời|quỹ đạo của nó quanh Mặt trời làm cho Mặt trời xuất hiện trên thiên cầu di chuyển dọc theo đường Hoàng Đạo (màu
phải|nhỏ|Asger Aaboe **Asger Hartvig Aaboe** (26 tháng 4 năm 1922 - 19 tháng 1 năm 2007) là một nhà sử học khoa học và nhà toán học, người được biết đến với những đóng góp
**Sao** (tiếng Anh: _star_), **Ngôi sao**, **Vì sao** hay **Hằng tinh** (chữ Hán: 恒星) là một thiên thể plasma sáng, có khối lượng lớn được giữ bởi lực hấp dẫn. Sao gần Trái Đất nhất
**Khoa học thư viện** hay **thư viện học** (tiếng Anh: _Library science_) là bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu quy luật phát triển sự nghiệp thư viện như một hiện tượng xã hội.
**Mặt Trời** hay **Thái Dương** (chữ Hán: 太陽), hay **Nhật** (chữ Hán: 日), là ngôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Sao Thủy** (tiếng Anh: **Mercury**) hay **Thủy Tinh** (chữ Hán: 水星) là hành tinh nhỏ nhất và gần Mặt Trời nhất trong tám hành tinh thuộc hệ Mặt Trời, với chu kỳ quỹ đạo bằng
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
thumb|Bảng các yếu tố trong hình học, trích từ cuốn _[[Cyclopaedia_ năm 1728.]] **Hình học** (geometry) bắt nguồn từ ; _geo-_ "đất", _-metron_ "đo đạc", nghĩa là đo đạc đất đai, là ngành toán học
Chuyển động tiến động của vật thể quay **Tiến động** hay **tuế sai**, là hiện tượng trong đó trục của vật thể quay (ví dụ một phần của con quay hồi chuyển) "lắc lư" khi
**Cơ học thiên thể** là một nhánh của thiên văn học giải quyết các vấn đề chuyển động và hiệu ứng hấp dẫn của các thiên thể. Lĩnh vực này vận dụng các nguyên lý
thumb|Một bản đồ sao từ thế kỷ 17, bởi họa sĩ Hà Lan Frederik de Wit thumb|_Farnese Atlas_ tại Bảo tàng địa chất Quốc gia Naples **Bản đồ sao** là một bản đồ mô phỏng
**Quang học** là một lĩnh vực vật lý học, chuyên nghiên cứu về ánh sáng, cụ thể la nguồn gốc và cách truyền ánh sáng, cách thức nó biến đổi cùng vời những hiện tượng
**Hôm nay**
là ngày Julius
**Muḥammad ibn Mūsā al-Khwārizmī** (Tiếng Ả Rập: **محمد بن موسى الخوارزمي**) là một nhà toán học, thiên văn học, chiêm tinh học và địa lý học Ba Tư. Ông sinh vào khoảng năm 780 tại
phải|Hệ Mặt trời theo [[Thuyết nhật tâm]] **Chu kỳ Meton** (_Enneadecaeteris_) trong thiên văn và lập lịch là sự xấp xỉ cụ thể của bội số chung của năm chí tuyến và chu kỳ quay
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
**Aristarchus xứ Samos** hay **Aristarch xứ Samos** (; 310 TCN – khoảng 230 TCN) là một nhà thiên văn và nhà toán học người Hy Lạp, sinh ra trên đảo Samos ở Hy Lạp. Ông
nhỏ|360x360px| Mười hai cung Hoàng Đạo, hình thu nhỏ từ cuốn [[Sách Thời Đảo. (_Bầu trời: Trật tự và Hỗn loạn_ của Jean-Pierre Verdet, từ loạt 'Chân trời Mới') ]] Trong chiêm tinh học phương
thumb|Hình mình họa cho chứng minh của Euclid về định lý Pythagoras. **Toán học Hy Lạp** là nền toán học được viết bằng tiếng Hy Lạp, phát triển từ thế kỷ 7 TCN đến thế
**Bản đồ học** hay **Đồ bản học** là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp mối liên hệ giữa các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và
**Tổng lãnh thiên thần**, **Đại thiên thần**, **Tổng lãnh thiên sứ**, **Thiên sứ trưởng**, hay **Trưởng thiên sứ** là thứ bậc cao trong hàng ngũ thấp của các Thiên thần. bởi vì trên còn nhiều
**Kidinnu** (hay **Kidunnu**, khoảng thế kỉ 4 TCN - 14 tháng 8 năm 330 TCN?) là nhà thiên văn học, nhà toán học người Babylon. Strabo người Amaseia gọi ông là **Kidenas**, theo Gaius Plinius
Là một nhánh của toán học, đại số phát triển vào cuối thế kỷ 16 ở châu Âu với công trình của François Viète. Đại số được xem xét một cách đáng chú ý như
**Mặt Trăng** hay **Trăng**, **Nguyệt**, **Cung Hằng**, **Cung Trăng** (tiếng Anh: _Moon_, chữ Hán: 月) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất. Với độ sáng ở bầu trời chỉ sau Mặt Trời,tr.120
|} Mặt Trăng quay quanh Trái Đất theo hướng cùng chiều với chiều quay Trái Đất và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khi so sánh với các ngôi sao cố định trong khoảng
nhỏ|Bức _Schutzengel_ của Bernhard Plockhorst mô tả một thiên sứ hộ mệnh đang trông chừng hai đứa trẻ. **Thiên sứ** (tiếng Anh: Angel) là những thực thể siêu nhiên phục vụ Thiên Chúa được tìm
nhỏ|Vật lý Mặt Trời **Vật lý mặt trời** là nhánh của vật lý thiên văn chuyên nghiên cứu về Mặt Trời. Nó liên quan đến các phép đo chi tiết chỉ có thể cho ngôi
**Mọc cùng Mặt Trời** (Hán-Việt: giai nhật thăng, tiếng Anh: Heliacal rising) hay **mọc lúc rạng đông** của một ngôi sao hay các thiên thể khác, như Mặt Trăng, hành tinh hoặc chòm sao) xảy
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
nhỏ|phải|Một giáo sĩ Do Thái **Triết học Do Thái** (_Jewish philosophy_) hay **Triết lý Do Thái** (tiếng Do Thái: פילוסופיה יהודית) bao gồm toàn bộ triết lý, triết học được người Do Thái thực hành
**Văn minh Mycenae** hay **Hy Lạp thời kỳ Mycenae** là giai đoạn cuối cùng của thời đại đồ đồng tại Hy Lạp, kéo dài từ khoảng năm 1750 TCN - 1050 TCN. Giai đoạn Mycenae
Thần [[Khorsabad. Hiện vật bảo tàng Louvre.]] Vùng **Cận Đông cổ đại** là quê hương của các nền văn minh sơ khai thời cổ đại trong khu vực gần tương ứng với vùng Trung Đông
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người