✨Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản

Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản

Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh tế học và xã hội học người Đức Max Weber. Quyển sách này, lúc đầu là một tuyển tập các bài tiểu luận, được viết từ năm 1904 đến 1905. Bản dịch Anh ngữ của Talcott Parsons xuất bản năm 1930, sau đó còn có vài ấn bản khác. Hiện nay, đã có bản tiếng Việt do Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch, sách do nhà xuất bản Tri thức phát hành, năm 2008. Nó được xem là những tác phẩm căn bản trong ngành xã hội kinh tế và xã hội học nói chung. Đây là một công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa nền đạo đức Tin lành và "tinh thần" của chủ nghĩa tư bản.

Weber lập luận rằng chủ nghĩa tư bản ở Bắc Âu phát triển khi nền đạo đức Tin Lành (nhất là những giáo hội theo Học thuyết Calvin với thuyết tiền định và nhấn mạnh đến nếp sống khổ hạnh trong đời thường) tạo ảnh hưởng trên một số lượng lớn những người đang sống và làm việc trong cuộc sống thế tục: họ phát triển các doanh nghiệp, tham gia các hoạt động thương mại, và tích lũy tài sản để đầu tư. Nói cách khác, đạo đức Tin Lành là sức mạnh đứng đằng sau hoạt động kinh tế của nhiều người - hoạt động này không bị tác động bởi bất cứ sự sắp xếp hoặc phối hợp nào - và đó là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ý tưởng này cũng được gọi là "Luận điểm Weber".

Năm 1998, Hiệp hội Xã hội học Quốc tế đã liệt cuốn sách này vào một trong 4 cuốn sách xã hội học quan trọng nhất của thế kỷ 20.

Nội dung

nhỏ|Nguyên bản tiếng Đức tác phẩm Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Tác phẩm này của Weber không phải là một công trình khảo cứu chi tiết về đạo Tin Lành (Kháng Cách), nhưng là phần dẫn nhập cho những nghiên cứu của ông về mối quan hệ tương tác giữa các ý niệm tôn giáo và kinh tế. Weber phác họa một khung phương pháp luận nhằm tìm hiểu những động lực văn hóa và tinh thần vốn luôn luôn chi phối, thúc đẩy, hoặc cản trở tiến trình biến đổi kinh tế xã hội.

Trong Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, Weber đưa ra luận cứ cho rằng nền đạo đức Thanh giáo có nhiều ảnh hưởng trên sự phát triển chủ nghĩa tư bản. Theo cách hiểu thông thường, lòng sùng tín tôn giáo thường đi đôi với thái độ xa lánh trần tục, trong đó có việc tích lũy tài sản để làm giàu. Thế nhưng, tại sao điều này không xảy ra với tôn giáo Kháng Cách? Weber đã tìm cách giải thích nghịch lý này trong tác phẩm của ông.

Theo định nghĩa của Weber, tinh thần chủ nghĩa tư bản hiện đại ủng hộ việc tìm kiếm những lợi ích kinh tế cách thuần lý. Ông chỉ ra rằng tinh thần ấy không chỉ hiện diện trong nền văn hóa phương Tây nếu xét trong khía cạnh thái độ của những cá nhân, nhưng những cá nhân ấy – những nhà doanh nghiệp anh hùng, theo cách gọi của ông – không thể tự mình kiến tạo một trật tự kinh tế mới (chủ nghĩa tư bản). Bởi vì khuynh hướng chung của mọi người trong các nền văn hóa khác nhau là tìm kiếm lợi tức tối đa từ nỗ lực tối thiểu. Weber viết: "... theo những tư liệu kinh tế mà chúng ta biết được cho đến nay, ở tất cả các nền văn hóa đã từng có 'chủ nghĩa tư bản' và những doanh nghiệp 'tư bản chủ nghĩa' dựa trên một [mức độ] lý tính hóa nào đó trong việc hạch toán đồng vốn. Ở Trung Hoa, Ấn Độ, Babylon, Ai Cập, ở vùng Địa Trung Hải thời cổ đại, vào thời trung đại cũng như vào thời cận đại". Trên khắp thế giới, ở đâu cũng có thương nhân, bán sỉ hay bán lẻ, những người cho vay, những nhà kinh doanh thực dân, những ông chủ đồn điền sở hữu nô lệ, sử dụng lao động khổ sai trực tiếp hoặc gián tiếp, những kẻ đầu cơ "chuyên đi săn mọi cơ hội để kiếm tiền", những "kẻ phiêu lưu tư bản chủ nghĩa"... Và phần lớn hoạt động của những loại người này "đều mang tính chất thuần túy phi lý tính và đầu cơ, hoặc là thiên về cách chiếm hữu bằng bạo lực, nhất là chiếm đoạt chiến lợi phẩm thông qua chiến tranh, hay dưới hình thức chiến lợi phẩm tài chánh, nghĩa là thông qua việc bóc lột những người bị trị".

Theo Weber, đấy chỉ là những loại hình "chủ nghĩa tư bản thương mại, hoặc hướng đến chiến tranh, đến chính trị, hay đến chính quyền" hoặc "chủ nghĩa tư bản phiêu lưu". Tuy nhiên, Weber tin rằng "trong thời kỳ cận đại, Tây phương đã biết đến một dạng phát triển của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn khác và chưa có ở bất cứ nơi nào trên trái đất: [đó là] cách tổ chức thuần lý tư bản chủ nghĩa đối với lao động tự do (về mặt hình thức) mà người ta chỉ có thể bắt gặp ở dạng thô sơ ở các nơi khác."

Đặc trưng tư tưởng của giáo thuyết Calvin là nhấn mạnh tới nỗ lực của cá nhân chứ không coi trọng vai trò của các định chế, và loại trừ những xu hướng huyền bí, những xu hướng nặng về nghi thức – nói khác đi, đây chính là lối tư duy dẫn đến quá trình "giải ma thuật" (Entzauberung) và quá trình lý tính hóa lối sống của người tín đồ Calvin.

Weber truy nguyên nền đạo đức Kháng Cách đến cuộc Cải cách. Giáo hội Công giáo Rôma đảm bảo cho giáo dân sự cứu rỗi miễn là họ chấp nhận các bí tích của giáo hội và chịu thần phục thẩm quyền giới tăng lữ. Tuy nhiên, cuộc Cải cách Kháng Cách đã gỡ bỏ sự đảm bảo này. Do đó, theo luận giải của Weber, tín hữu Kháng Cách quay sang tìm kiếm các "dấu hiệu" chứng minh họ được cứu rỗi. Calvin và những người theo ông rao giảng thuyết tiền định, theo đó từ ban đầu Thiên Chúa đã chọn một số người để được cứu rỗi, và những người khác dành cho đoán phạt. Cảm giác bất lực vì không thể làm gì để được cứu rỗi gây ra những vấn nạn cho những người theo thần học Calvin. Như thế, đức tin trở thành bổn phận tuyệt đối cho tín hữu để đảm bảo rằng mình là người được chọn, đồng thời trục xuất mọi hoài nghi: không có niềm xác tín nghĩa là không có đủ đức tin, tức là không được chọn. Theo Weber, niềm xác tín cá nhân thế chỗ cho sự bảo đảm của thẩm quyền giáo hội, "...để đạt tới sự tự tin này, một trong những cách thức thích hợp nhất được khuyến khích là hãy làm việc không ngơi nghỉ trong một nghề [rastlose Berufsarbeit]. Điều này, và chỉ điều này thôi, mới xua tan được nỗi hoài nghi về mặt tôn giáo và đem lại sự tin chắc về ân sủng."

Weber tìm thấy sự thể hiện đầy đủ của nền đạo đức Kháng Cách trong thần học Calvin. Ông trình bày sự "nghịch lý" như sau:

Theo đức tin Kháng Cách, mỗi người đều có bổn phận tôn giáo theo đuổi một chức nghiệp trần thế với lòng nhiệt tình cao nhất. Đó không phải là mục tiêu, nhưng là kết quả tất yếu của các giáo huấn tôn giáo. Một tín hữu, trong công việc hằng ngày, có nghĩa vụ làm việc hết sức mình để chu toàn công việc hầu cho danh Chúa được cả sáng. Mà một người như thế sẽ có nhiều cơ may để trở nên người thành đạt.

Các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách (nhất là các giáo phái chịu ảnh hưởng thần học Calvin theo tinh thần khổ hạnh) tích cực cấm đoán việc tiêu xài hoang phí, và xem việc mua sắm các vật dụng xa hoa là tội lỗi. Bố thí tiền bạc cho người nghèo cũng không được khuyến khích vì bị xem là khiến họ sống phụ thuộc vào người khác. Trong khi đó, một người không chịu làm việc bị xem là một sự sỉ nhục.

Tại đây sự nghịch lý được giải quyết, theo Weber, bằng cách sử dụng số tiền kiếm được cho việc tái đầu tư. Điều này là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản lúc ấy còn non trẻ. Nền đạo đức Kháng Cách khuyến cáo tín đồ của mình phải cảnh giác và dè chừng đối với của cải thế gian và phải có một lối sống khổ hạnh (Askese). Trong khi đó, làm việc một cách duy lý nhằm tạo ra doanh lợi và không tiêu xài hoang phí doanh lợi này – đây chính là lối ứng xử cần thiết cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bởi nó có nghĩa là không ngừng tái đầu tư số lợi nhuận mới được tạo ra. Chủ nghĩa tư bản cần lối tổ chức thuần lý đối với lao động, và giả định rằng phần lớn lợi nhuận không được tiêu xài hết mà phải được tiết kiệm nhằm có thể tiếp tục phát triển các phương tiện sản xuất. Chính đây là nơi bộc lộ sự "tương hợp chọn lọc" giữa quan niệm và lối sống của tôn giáo Kháng Cách với "tinh thần" của chủ nghĩa tư bản. Ở đây, Weber đã vô hình trung nhấn mạnh tới những điều kiện chủ quan cần thiết cho sự hình thành "tinh thần" của chủ nghĩa tư bản và từ đó thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Trước tiên và quan trọng hơn hết, theo Weber, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là đầu tư làm kinh tế trong khuôn khổ của một nền đạo đức cao. Một cá nhân tham gia vào nền kinh tế tư bản không chỉ vì muốn phiêu lưu để kiếm sống, mà còn là một cách kiểm tra nguồn lực nội tại, từ đó khẳng định giá trị đạo đức của mình. Weber nhận xét rằng, không giống như nhiều người thường nghĩ, chủ nghĩa tư bản không phải là sản phẩm của lòng hám lợi hoặc sự phục tùng mù quáng ma lực đồng tiền.

Max Weber đặt ra câu hỏi: Tại sao và làm thế nào mà cuối cùng chủ nghĩa tư bản đã được xác lập không chỉ như một mô hình ứng xử kinh tế thống trị, thậm chí duy nhất, mà nhìn chung còn là một mô hình văn hóa ghi dấu ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, tinh thần cũng như vật chất ở châu Âu cận đại và đương đại?

Trong phần "Vorbemerkung" (Lời nhận xét mở đầu) mà ông viết vào cuối năm 1919, Max Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của lòng hám lợi hay máu tham tiền vốn là những hiện tượng mà người ta có thể bắt gặp ở bất cứ xã hội nào vào bất cứ thời đại nào. Ông viết: "'Ham muốn chiếm hữu', ham muốn 'chạy theo doanh lợi', chạy theo tiền bạc, càng nhiều tiền càng tốt, tự chúng không có liên quan gì tới chủ nghĩa tư bản. Ham muốn ấy đã từng tồn tại và đang tồn tại nơi những người hầu bàn, người bác sĩ, người đánh xe ngựa, người nghệ sĩ, người đàn bà lẳng lơ, người công chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ trộm cắp, kẻ viễn chinh, kẻ cờ bạc, kẻ ăn mày... Lòng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, lại càng không mảy may liên quan gì tới 'tinh thần' của nó. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, "chính là sự chế ngự [Bändigung], hay chí ít là sự điều tiết bằng lý tính, cái bản năng phi lý tính ấy".

Theo Weber, chủ nghĩa tư bản không ra đời từ loại lao động rẻ tiền, hay bằng cách trả công rẻ để thu nhiều lợi nhuận như nhiều người thường nghĩ. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản hiện đại hình thành bởi một loại lao động được coi là mục đích của cuộc sống, một sự lao động "tiền định". "Lao động phải trở thành mục đích tự thân tuyệt đối, một thiên hướng nghề nghiệp."

Kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên quá trình lao động với sự tính toán kỹ lưỡng, được định hướng bởi tầm nhìn xa và sự thận trọng đối với các thành công kinh tế. Điều này trái ngược với cách làm kiểu nông dân "tay làm hàm nhai", và đối lập với chủ nghĩa truyền thống đặc quyền đặc lợi của các chủ xưởng, cũng như hoàn toàn khác biệt với "chủ nghĩa tư bản phiêu lưu" định hướng vào việc khai thác các cơ hội chính trị và đầu cơ phi lý.

Bên cạnh việc nhìn nhận vai trò quan trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật, Max Weber còn đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò cũng như quá trình lý tính hóa của luật pháp và của bộ máy hành chính [Verwaltung].

Theo giải thích của nhà xã hội học người Pháp Raymond Aron, ở đây Weber coi đặc trưng cấu thành then chốt của chủ nghĩa tư bản không phải là đi tìm "lợi nhuận tối đa", mà là tích lũy bất tận. Từ xưa tới nay, thương nhân nào cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi thương vụ. Nhưng đối với doanh nhân tư bản chủ nghĩa thì nét đặc trưng không nằm ở chỗ ông ta không hạn chế ham muốn doanh lợi, mà ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, do đó ý chí sản xuất của ông ta cũng trở nên không giới hạn. Chính là sự kết nối giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ luật thuần lý và lối tổ chức thuần lý mới tạo nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Tây phương. Cũng theo cách luận giải của Raymond Aron, khi so sánh các dữ kiện lịch sử, Weber đặt vấn đề: tại sao ngay tại những trung tâm phát triển tư bản chủ nghĩa như như Firenze (Ý) vào thế kỷ 14 và 15 lại không thể xuất hiện quan niệm kiếm tiền thông qua nghề nghiệp như một mục đích tự thân, hay như một "chức phận", một "thiên chức", vốn là đặc trưng nhất của "tinh thần" chủ nghĩa tư bản, mà điều này lại xảy ra ở những khu rừng Pennsylvania (Mỹ) vào thế kỷ 18, nơi mà các hoạt động kinh doanh lúc ấy vẫn còn hết sức lạc hậu? Từ đó Weber đưa ra nhận định, "ở đây mà nói đến sự phản ánh các điều kiện vật chất lên trên thượng tầng kiến trúc tư tưởng là điều hoàn toàn vô nghĩa. Weber cho rằng chính bối cảnh tư tưởng giáo thuyết Calvin "đã dẫn tới chỗ coi loại hoạt động xem ra chỉ nhằm tới lợi nhuận này như là một thiên chức mà đối với nó, cá nhân cảm thấy mình có bổn phận luân lý", "đã tạo ra nền tảng và sự biện hộ về đạo đức cho lối ứng xử kiểu mới của nhà kinh doanh, - điều mà ông cho là có một sự "tương hợp chọn lọc" với tinh thần chủ nghĩa tư bản, hay với những yêu cầu về mặt phẩm chất và tính cách của doanh nhân tư bản chủ nghĩa. Khái niệm "quan hệ tương hợp chọn lọc" là một khái niệm độc đáo mà Weber sử dụng khi ông nhận định về mối quan hệ tương tác giữa nền đạo đức Kháng Cách với tinh thần chủ nghĩa tư bản.

Phê phán

Những người chỉ trích viện dẫn hiện tượng Nhật Bản với nền kinh tế phát triển trong khi cộng đồng Kháng Cách ở quốc gia này chỉ là một thiểu số nhỏ và không có ảnh hưởng gì đáng kể. Nước này áp dụng mô hình hiện đại hóa của các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Kháng Cách như Hoa Kỳ, Anh Quốc và Đức. Như thế, họ ứng dụng nền đạo đức Kháng Cách được thế tục hóa mà không cần quan tâm đến niềm tin đã giúp hình thành nó. Tương tự, chủ nghĩa tư bản được áp dụng thành công tại những quốc gia có cộng đồng thiểu số Công giáo đông đảo như Hoa Kỳ, Úc, Anh và Tân Tây Lan, nhưng yếu tố này đã không được đề cập đến để phân tích mà bị xem chung như là một phần trong văn hóa Kháng Cách, do đó tác giả đã không chịu xem xét đến ảnh hưởng Công giáo trên sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tại các quốc gia này.

Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa tại những vùng đông dân cư Công giáo như miền bắc nước Ý và tây nam nước Đức diễn ra trước và trong thời kỳ Cải cách Kháng Cách cũng được xem là những dẫn chứng chống lại luận điểm Weber, những người phản bác tin rằng các yếu tố địa lý và chính trị đóng vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển chủ nghĩa tư bản, chứ không phải là nền đạo đức Kháng Cách.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
**Các Hệ phái Tin Lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản** là một luận văn của Max Weber, hình thành từ những quan sát của ông về các doanh nhân Hoa Kỳ nhân
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
Học thuyết **chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước** (cũng được gọi là **stamocap**)) ban đầu là một học thuyết Mác-xít được phổ biến sau Thế chiến II. Lenin đã tuyên bố vào năm
**Thần học Calvin** (tiếng Anh: _Calvinism_) là hệ thống thần học và phương pháp ứng dụng đức tin vào nếp sống Cơ Đốc, đặt trọng tâm vào quyền tể trị của Thiên Chúa. Được gọi
**Maximilian Karl Emil Weber** (; ; 21 tháng 4 năm 186414 tháng 6 năm 1920) là một nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà kinh tế chính trị người Đức,
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Chủ nghĩa nhân bản Marxist** là một trường phái tư tưởng chính trị bắt nguồn từ sự diễn giải các tác phẩm của Karl Marx. Trường phái này tìm lời giải đáp cho những câu
**_Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik_** (, tiếng Anh: **_Archives for Social Science and Social Welfare_**) là một tạp chí học thuật chuyên về khoa học xã hội ở Đức xuất bản từ năm 1888 đến
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Xã hội học** là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về
**Chủ nghĩa tự do cổ điển** là một ý thức hệ chính trị và là một nhánh của chủ nghĩa tự do vận động cho tự do dân sự và tự do chính trị với
**Bùi Văn Nam Sơn** (sinh năm 1947) là một triết gia, tác giả và dịch giả người Việt Nam. Ông đã dịch và hiệu đính một số tác phẩm triết học và khoa học xã
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
_Phần này phê phán Chủ nghĩa Marx, một nhánh của Chủ nghĩa Xã hội. Về phê phán Chủ nghĩa xã hội nói chung, có thể xem Phê phán Chủ nghĩa Xã hội._ **Phê phán chủ
**Chủ nghĩa chống đế quốc** hay **chủ nghĩa phản đế** trong chính trị học và quan hệ quốc tế là sự phản đối chủ nghĩa đế quốc hoặc chủ nghĩa thực dân mới. Chủ nghĩa
**Tư bản** trong kinh tế học là khái niệm để chỉ những hàng hóa được sử dụng làm yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất có thể là tiền bạc, máy móc, công
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Chủ nghĩa cộng sản vô trị**, **chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ** () hay **chủ nghĩa cộng sản tự do** là một học thuyết của chủ nghĩa vô trị, chủ trương thủ tiêu nhà
** Biểu tình của sinh viên Nhật Bản 1968–1969** (, _daigaku funsō,_ Hán-Việt_: đại học phân tranh_ hoặc , _daigaku tōsō,_ Hán-Việt: _đại học đấu tranh_) là một loạt các cuộc biểu tình diễn ra
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
thế=|nhỏ| [[Tuyên truyền chống cộng của Hoa Kỳ những năm 1950, đặc biệt đề cập đến ngành công nghiệp giải trí ]] **Chủ nghĩa McCarthy** (tiếng Anh: **McCarthyism**) là thuật ngữ nói về việc cáo
**Chủ nghĩa cơ yếu** hay **chủ nghĩa toàn thống** (tiếng Anh: _fundamentalism_) đề cập đến niềm tin nghiêm ngặt, trung thành tuyệt đối với những nguyên tắc cơ bản, trong thực tế thường nói đến
nhỏ|Cáo buộc với bức chân dung của một thượng nghị sĩ Venice (Allegory về đạo đức của những thứ trên trần gian) do [[Tintoretto vẽ năm 1585.]] **Đạo đức** là một từ Hán-Việt, được dùng
nhỏ|Áp phích tuyên truyền chống cộng sản của Đức năm 1937. **Chủ nghĩa chống Cộng sản** là tập hợp các lập trường và quan điểm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa chống Cộng
Một câu nói nổi tiếng thường được liên kết với Winston Churchill dưới hình thức Không bao giờ để một cuộc khủng hoảng tốt xảy ra để lãng phí. Bất cứ ai nói điều đó,
**Chủ nghĩa dân túy** (, Hán-Việt: _dân túy chủ nghĩa_; ) đề cập đến một loạt các lập trường chính trị nhấn mạnh ý tưởng về "nhân dân" và thường đặt nhóm này chống lại
nhỏ|phải|Hai bạn nữ trẻ mặc đồ quân nhân Nga Xô Viết trong dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng vào năm 2014 **Yêu nước xã hội chủ nghĩa** (_Socialist patriotism_) hay **Yêu tổ quốc xã hội
nhỏ|phải|Putin vào ngày 24 tháng 6 năm 2023 trong thời điểm [[Nhóm Wagner|tập đoàn quân sự tư nhân Wagner đang nổi dậy và tiến về thủ đô]] [[Vladimir Putin và Dmitry Medvedev trong lễ nhậm
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] **Tư tưởng Hồ Chí Minh** là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Cách mạng 1989**, hay còn được gọi là **Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu** (còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như là **Mùa
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
**Đạo đức với việc ăn thịt động vật** là chủ đề tranh cãi chưa có hồi kết về vấn đề đạo đức và việc ăn thịt động vật, và vấn đề có đạo đức hay
**Chủ nghĩa phúc âm** (tiếng Anh: _evangelicalism_), cũng gọi là **phái phúc âm** hay **phong trào Tin Lành phúc âm**, là thuật từ thường được dùng để chỉ một trào lưu liên hệ phái thuộc
**Chủ nghĩa quân quốc** hay còn gọi là **Chủ nghĩa quân phiệt** là tư tưởng của một chính phủ rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng để