✨Max Weber

Max Weber

Maximilian Karl Emil Weber (; ; 21 tháng 4 năm 186414 tháng 6 năm 1920) là một nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà kinh tế chính trị người Đức, được coi là một trong những nhà lý thuyết quan trọng nhất về sự phát triển của xã hội phương Tây hiện đại. Ý tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến lý thuyết xã hội và nghiên cứu xã hội. Mặc dù được công nhận là một trong những cha đẻ của xã hội học, cùng với Auguste Comte và Émile Durkheim, Weber chưa bao giờ thừa nhận mình như một nhà xã hội học, mà là một nhà sử học.

Khác với Émile Durkheim, Weber không tin vào những lời giải thích đơn nguyên, thay vào đó đề xuất rằng đối với bất kỳ kết quả nào cũng có thể có nhiều nguyên nhân. Do đó, ông là người đề xướng phương pháp luận chống chủ nghĩa thực chứng, nghiên cứu hành động xã hội thông qua các phương pháp diễn giải (chứ không phải theo chủ nghĩa kinh nghiệm), dựa trên sự hiểu biết về mục đích và ý nghĩa của các cá nhân gắn với hành động của chính họ. Mối quan tâm chính của Weber là tìm hiểu các quá trình hợp lý hóa, thế tục hóa và "sự biến đổi", mà ông cho là kết quả của một cách nghĩ mới về thế giới, liên kết các quá trình đó với sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản và nền văn minh hiện đại.

Weber được biết đến nhiều nhất với luận án kết hợp xã hội học kinh tế và xã hội học tôn giáo, nhấn mạnh tầm quan trọng của những ảnh hưởng văn hóa gắn liền với tôn giáo như một phương tiện để hiểu về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản (trái ngược với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx). Đầu tiên Weber trình bày chi tiết hơn lý thuyết của mình trong tác phẩm nổi tiếng, Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1905), ông đã cho rằng Đạo Tin lành là một trong những "mối quan hệ tự chọn" liên quan đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản theo định hướng kinh tế thị trường và nhà nước hợp pháp trong thế giới phương Tây. Lập luận việc thúc đẩy chủ nghĩa tư bản là nguyên lý cơ bản của đạo Tin lành, Weber cho rằng tinh thần của chủ nghĩa tư bản vốn có trong các giá trị tôn giáo của đạo Tin lành. Đạo đức Tin lành đã sớm hình thành nên các cuộc khám phá rộng lớn hơn của Weber về tôn giáo thế giới, sau đó ông đã xem xét các tôn giáo của Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như Do Thái giáo cổ đại, đặc biệt liên quan đến các hệ quả kinh tế khác nhau của chúng và sự phân tầng xã hội. Trong một tác phẩm lớn khác, "Politics as a Vocation", Weber đã định nghĩa "nhà nước" là một thực thể tuyên bố "độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp trong một vùng lãnh thổ nhất định". Ông cũng là người đầu tiên phân loại quyền lực xã hội thành các hình thức riêng biệt: thuyết phục, truyền thống và hợp pháp. Trong số đó, phân tích của Weber về bộ máy quan liêu nhấn mạnh rằng các thể chế nhà nước hiện đại ngày càng dựa trên cơ sở hợp pháp.

Weber cũng có nhiều đóng góp khác nhau cho lịch sử, lý thuyết và phương pháp luận kinh tế. Phân tích của ông về tính hiện đại và hợp lý hóa đã ảnh hưởng đáng kể đến lý thuyết phê bình liên quan đến Trường phái Frankfurt. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông là một trong những người sáng lập Đảng Dân chủ Đức Tự do. Ông cũng tranh cử không thành công cho một ghế trong quốc hội và làm cố vấn cho ủy ban soạn thảo Hiến pháp Weimar năm 1919. Sau khi mắc cúm Tây Ban Nha, ông qua đời vì bệnh viêm phổi vào năm 1920, thọ 56 tuổi.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thiếu thời

nhỏ|phải|Max Weber và 2 em trai, Alfred và Karl, năm 1879 Weber chào đời tại Erfurt trong vùng Thüringen, nước Đức, là con đầu trong gia đình có bảy người con của Max Weber, Sr., một công chức và chính trị gia có khuynh hướng tự do, và Helene Fallenstein, một phụ nữ trí thức rất quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội, bà cũng là một tín hữu Kháng Cách theo thần học Calvin. Năm 1869, gia đình dời đến sống ở Berlin, tại đây cha của Max là thành viên Hội đồng Thành phố, đồng thời là dân biểu Quốc hội Đức. Hoạt động chính trị của Weber, Sr. khiến gia đình quen thuộc với các vấn đề thời sự, phòng khách của ông là nơi thường xuyên lui tới của những học giả tiếng tăm và các nhân vật danh giá.

Cậu bé Max và em trai Alfred, người sau này cũng trở thành một nhà kinh tế học và xã hội học, đã sớm trải nghiệm môi trường tri thức từ nhỏ. Quà giáng sinh năm 1876 dành tặng bố mẹ của cậu bé Max 13 tuổi là các tiểu luận lịch sử tựa đề "Về lịch sử Đức, với những tham chiếu về vị trí của hoàng đế và giáo hoàng", và "Về Đế chế La Mã, giai đoạn từ Constantinô đến sự di trú của các dân tộc". Ở tuổi mười bốn, Weber viết những bức thư đầy dẫy các trích dẫn từ Hómēros, Vergilius, Cicero, và Livius; cậu cũng đã thâu đạt kiến thức đáng kể về Goethe, Spinoza, Kant, và Schopenhauer trước khi vào đại học.

Học vấn

Năm 1882, Weber vào học luật tại Đại học Heidelberg. Cùng với việc học luật, ông còn tham gia các buổi thuyết trình về kinh tế và có học thêm về lịch sử trung cổ, triết học, và thần học. Sau đó, ông phục vụ trong quân đội Đức tại Strasbourg, lúc đầu là binh nhì sau lên sĩ quan.

Mùa thu năm 1884, Weber về nhà và theo học tại Đại học Berlin. Trong tám năm kế tiếp, trừ một học kỳ tại Đại học Göttingen và những kỳ huấn luyện quân sự ngắn hạn, Weber ở với cha mẹ; khi còn là sinh viên, về sau là luật sư, rồi trợ giảng (Dozent) tại Đại học Berlin. Năm 1886, Weber thi đậu kỳ thi sát hạch của luật sư đoàn. Cho đến cuối thập niên 1880, Weber tiếp tục nghiên cứu lịch sử. Ông lấy bằng tiến sĩ luật năm 1889 với luận án tựa đề Lịch sử các Tổ chức Kinh doanh thời Trung Cổ. Ông được công nhận trở nên giáo sư tại Đức. Khi còn là sinh viên, Weber đã nói thạo các ngoại ngữ Pháp, Anh, Ý, và Tây Ban Nha. Đến năm 1905, ông học thêm tiếng Nga với luật gia Nga B. Kistiakowsky.

Những năm trong giai đoạn hoàn thành đề án tốt nghiệp, Weber bắt đầu quan tâm đến các chính sách xã hội đương thời. Năm 1888, ông gia nhập "Verein für Socialpolitik", một tổ chức chuyên nghiệp cho các nhà kinh tế Đức liên kết với các trường phái lịch sử kinh tế, những người thấy được vai trò cốt lõi của kinh tế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội đương thời, đây cũng là những nhà tiên phong trong các nghiên cứu thống kê quy mô lớn về các vấn đề kinh tế. Weber còn tham gia vào chính trị, ông gia nhập tổ chức tả khuynh Đại hội Xã hội Tin Lành. Năm 1890, Verein für Socialpolitik thành lập một chương trình nghiên cứu để xác minh "Vấn đề Ba Lan" hay Ostflucht nhằm khảo sát về dòng người lao động nông thôn nước ngoài di cư vào miền Đông nước Đức, trong khi những người lao động địa phương thì lại tới các thành phố đang công nghiệp hóa nhanh chóng của Đức. Weber lãnh trách nghiên cứu đề tài và là người viết phần lớn các bài khảo cứu. sau khi Weber từ trần, bà làm việc tích cực tuyển chọn các bài viết của ông để xuất bản thành sách. Năm 1894, hai người đến sống ở Freiburg, ở đó Weber được bổ nhiệm làm giáo sư kinh tế học tại Đại học Freiburg, Sau cái chết của cha, Weber bị căng thẳng và mắc chứng mất ngủ, gây nhiều khó khăn cho ông trong công việc. cùng làm việc với các đồng nghiệp Edgar Jaffé và Werner Sombart. Năm 1904, Weber bắt đầu cho xuất bản một số trong những nghiên cứu của ông đăng trên tạp chí này, quan trọng nhất là luận văn Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất của Weber, lập nền cho công trình nghiên cứu của ông về ảnh hưởng của văn hóa và tôn giáo trong tiến trình phát triển hệ thống kinh tế. Luận văn này chỉ là một trong những nghiên cứu của ông được xuất bản thành sách. Cũng trong năm ấy, Weber đến thăm Hoa Kỳ và tham dự Đại hội Nghệ thuật và Khoa học được tổ chức cùng với Hội chợ Thế giới tại St. Louis. Mặc dù những thành công vang dội, Weber cảm thấy không thể trở lại bục giảng, nên tiếp tục công việc nghiên cứu nhờ những trợ giúp tài chính tư nhân, và nhờ tài sản thừa kế năm 1907.

Các hoạt động khác

Max Weber năm 1917 Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có một thời gian Weber trở thành giám đốc bệnh viện quân đội tại Heidelberg. Năm 1915 và 1916, Weber làm việc trong các ủy ban có nhiệm vụ duy trì quyền kiểm soát của Đức ở Bỉ và Ba Lan sau cuộc chiến. Những quan điểm của Weber về cuộc chiến, cũng như về sự bành trướng của Đế quốc Đức, thay đổi trong suốt chiến tranh. Sau đó ông trở thành một thành viên của hội đồng công nhân và binh sĩ của Heidelberg năm 1918. Trong cùng năm đó, Weber trở thành cố vấn cho ủy ban đình chiến Đức tại Hiệp ước Versailles. Ông cũng là cố vấn cho Ủy ban biên soạn Hiến pháp Weimar Điều luật này đã cho phép Adolf Hitler gây dựng quyền lực điều hành bằng pháp lệnh, từ đó cho phép chính phủ đàn áp phe đối lập và duy trì quyền lực chuyên chế. Vì vậy mà những đóng góp của Weber cho chính trị Đức vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi cho đến ngày nay.

Giai đoạn sau đó Weber trở lại giảng dạy, đầu tiên ở Đại học Wien, rồi đến năm 1919 thì ông dạy tại Đại học München., Trong khi Durkheim, chịu ảnh hưởng Auguste Comte, theo trường phái thực chứng, Weber – giống Werner Sombart, một người bạn và là người đại diện nổi tiếng nhất cho ngành xã hội học Đức – thiết lập và nghiên cứu theo truyền thống phản thực chứng. Các nghiên cứu của ông khởi xướng cuộc cách mạng phản thực chứng trong ngành khoa học xã hội, nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên,). Mặc dù những biên khảo đầu tiên của Weber là về xã hội học công nghiệp, nhưng chính những nghiên cứu về xã hội học tôn giáo và xã hội học chính quyền mới làm Weber trở nên một tên tuổi lớn.

Trong Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, Max Weber bắt đầu các sưu khảo về sự hợp lý hóa, giải thích hiện tượng các giáo phái Kháng Cách, đặc biệt là các giáo hội chịu ảnh hưởng Thần học Calvin theo chủ trương khổ hạnh đã sử dụng các phương tiện thuần lý trong hoạt động kinh tế như là cách thể hiện rằng họ đang được Thiên Chúa chúc phúc. Weber tiếp tục khảo sát về vấn đề này, nhất là trong các nghiên cứu của ông về bộ máy hành chính, và về sự phân tầng thẩm quyền.

Cần lưu ý rằng nhiều tác phẩm nổi tiếng của Weber chỉ được tuyển chọn, nhuận chính, và xuất bản sau khi ông mất. Những luận giải có giá trị về các nghiên cứu của Weber đến từ các tác giả nổi tiếng trong ngành xã hội học như Talcott Parsons và C. Wright Mills.

Xã hội học tôn giáo

Các nghiên cứu của Weber về xã hội học tôn giáo khởi đầu với luận văn Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, rồi tiếp nối với những biên khảo phân tích về Tôn giáo Trung Hoa: Khổng giáo và Lão giáo, Tôn giáo Ấn Độ: Xã hội học Ấn giáo và Phật giáo,Do Thái giáo cổ đại. Sưu khảo của ông về các tôn giáo khác bị gián đoạn khi ông đột ngột từ trần năm 1920, khiến ông bỏ dở những khảo cứu về sách Thi thiên, sách Job, Do Thái giáo Talmud, Cơ Đốc giáo thời kỳ sơ khai, và Hồi giáo. Ba luận đề chính của Weber gồm có: Ảnh hưởng của ý thức tôn giáo trên các hoạt động kinh tế, Mối quan hệ giữa sự phân tầng xã hội và tôn giáo, và Những đặc điểm của văn minh phương Tây.

Mục tiêu của Weber là tìm ra những luận cứ giải thích sự khác biệt trong phương cách phát triển của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Dù không phê bình hoặc thẩm định chúng, Weber tìm cách giải thích những yếu tố nổi trội của nền văn minh phương Tây. Thế nhưng, tại sao điều này không xảy ra với tôn giáo Kháng Cách? Weber tìm cách giải thích nghịch lý này trong luận văn của ông.

Weber đưa ra luận điểm cho rằng có một số giáo phái Kháng Cách – nhất là các giáo hội chịu ảnh hưởng thần học Calvin – ủng hộ việc tìm kiếm các lợi ích kinh tế và các hoạt động thường nhật trong cuộc sống trên trần thế, xem chúng là hàm chứa ý nghĩa đạo đức và có giá trị tâm linh tích cực. Đặc trưng tư tưởng của giáo thuyết Calvin là nhấn mạnh tới nỗ lực của cá nhân chứ không coi trọng vai trò của các định chế, và loại trừ những xu hướng huyền bí, những xu hướng nặng về nghi thức – nói khác đi, đây chính là lối tư duy dẫn đến quá trình "giải ma thuật" (Entzauberung) và quá trình lý tính hóa lối sống của người tín đồ Calvin.

Thuật từ "đạo đức chức nghiệp" được sử dụng trong xã hội đương đại bắt nguồn từ "đạo đức Kháng Cách" theo luận điểm Weber. Thuật từ này được chấp nhận rộng rãi khi khái niệm đạo đức Kháng Cách được phổ quát hóa nhằm áp dụng cho người Nhật, người Do Thái và các dân tộc không chịu ảnh hưởng văn hóa Cơ Đốc khác.

Tôn giáo Trung Hoa: Khổng giáo và Đạo giáo

Tác phẩm này là khảo cứu quan trọng thứ hai của Weber về xã hội học tôn giáo. Weber tập chú vào những điểm dị biệt giữa xã hội Trung Hoa với Tây Âu, nhất là những điểm đối nghịch với Thanh giáo, ông cũng nêu câu hỏi tại sao chủ nghĩa tư bản không phát triển tại Trung Hoa. Trong lịch sử Trung Hoa theo Bách Gia Chư Tử và Chiến Quốc, Weber tập trung vào giai đoạn đầu của thời kỳ này, lúc tư tưởng Khổng tử và Lão tử chiếm vị trí hàng đầu.

Khoảng năm 200 TCN, Trung Quốc thống nhất dưới thời nhà Tần.

Theo Weber, sự kiện Trung Hoa sớm được thống nhất và thiết lập bộ máy hành chính trung ương tập quyền có nghĩa là tâm điểm của sự tranh chấp quyền lực không còn là việc phân bổ đất đai, mà là phân phối chức tước. Vương hầu, quan quyền được hưởng đến 50% từ nguồn sưu thuế. Như vậy, triều đình phụ thuộc vào lòng trung thành của giới quan lại, không phải giới quân sự (các hiệp sĩ) như tại châu Âu.

Theo quan điểm của Weber, nền văn minh Trung Hoa không sản sinh các nhà tiên tri, cũng không hình thành giai cấp tăng lữ nhiều quyền lực. Trong khi vua là thầy tư tế thượng phẩm của quốc giáo, và là nhà lãnh đạo tối cao, các loại hình tín ngưỡng dân gian vẫn được chấp nhận. Điều này hoàn toàn trái ngược với Âu châu Trung Cổ, khi giáo hội kiềm chế vương quyền, và chỉ có một đức tin duy nhất cho cả giới cầm quyền lẫn thường dân.

Theo Khổng giáo, thờ phụng các thần linh là quốc sự, nhưng thờ cúng tổ tiên là bổn phận của mọi người, trong khi vẫn dung chịu các loại hình tín ngưỡng dân gian. Trong khía cạnh này, có thể xem Khổng giáo là quốc giáo, còn Đạo giáo là tín ngưỡng dân gian.

Trong khi nhận thấy trong xã hội Trung Hoa cổ đại có những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế tư bản như thái bình lâu dài, dẫn thủy nhập điền tốt, dân số tăng, người dân có quyền tự do sở hữu đất đai và lưu trú, tự do chọn nghề... Weber cũng liệt kê những yếu tố bất lợi, hầu hết đều phát xuất từ niềm tin tôn giáo:

  • Chống đối các phát kiến khoa học vì e sợ làm náo động tổ tiên và bị xem là điềm gở. Chủ trương sống sao cho thuận với trời đất thay vì cố thay đổi thế giới.
  • Cấm đoán hoặc hạn chế việc mua bán đất đai.
  • Việc mở rộng các nhóm thân tộc (dựa trên tín ngưỡng của gia tộc và tổ tiên) được xem trọng hơn tính đa dạng kinh tế, do đó không khuyến khích kỷ luật lao động, và hợp lý hóa quy trình công việc.
  • Các nhóm thân tộc ngăn cản sự phát triển giai cấp thị dân, chống đối các định chế pháp lý, pháp điển hóa, và việc hình thành giai cấp luật gia.

Tôn giáo Ấn Độ: Xã hội học Ấn giáo và Phật giáo

Tôn giáo Ấn Độ: Xã hội học Ấn giáo và Phật giáo là một tác phẩm quan trọng của Weber trong lĩnh vực xã hội học tôn giáo. Trong khảo cứu này, Weber xem xét cấu trúc xã hội Ấn Độ với giáo lý chính thống của Ấn giáo và giáo lý không chính thống của Phật giáo, với những hình thái trung dung do ảnh hưởng của tôn giáo dân gian, và cuối cùng là ảnh hưởng của các xác tín tôn giáo trên nền đạo đức thế tục của xã hội Ấn Độ.

Hệ thống xã hội Ấn Độ cổ đại định hình bởi ý niệm về đẳng cấp (caste), trực tiếp nối kết niềm tin tôn giáo với sự phân biệt để chia thành các nhóm xã hội khác nhau, từ Brahmin (tăng lữ), Kshatriya (chiến binh), Vaisya (thương nhân), đến Shudra (người lao động). Theo Weber, sự bành trướng của hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độ có nguyên nhân từ các cuộc chinh phục, sự kiện một số bộ tộc bị gạt ra ngoài lề xã hội, và sự phân nhỏ các đẳng cấp.

Kế đến, Weber phân tích niềm tin Ấn giáo, trong đó có thế giới quan Ấn giáo và chủ trương tu trì khổ hạnh, giáo lý chính thống Brahma, sự trỗi dậy và suy vi của Phật giáo tại Ấn Độ, sự phục hồi Ấn giáo, và sự tiến hóa của giới guru. Weber nêu câu hỏi liệu tôn giáo có tạo lập ảnh hưởng trên đời sống thế tục, nếu có, thì ảnh hưởng như thế nào trên các hoạt động kinh tế. Weber nhận ra rằng ý tưởng về một trật tự thế giới bất biến với vòng luân hồi miên viễn, quan niệm xem thường cuộc sống trần thế, và hệ thống đẳng cấp truyền thống được củng cố bởi niềm tin tôn giáo đã kìm hãm tiến trình phát triển kinh tế; nói cách khác, "tinh thần" hệ thống đẳng cấp đã cản trở sự phát triển chủ nghĩa tư bản bản địa.

Do Thái giáo Cổ đại

Trong Do Thái giáo Cổ đại, tác phẩm thứ tư của Weber về xã hội học tôn giáo, Weber cố giải thích "sự kết hợp các tình huống", hiện tượng này đã tạo ra sự khác biệt ban đầu giữa tín ngưỡng phương Đông và phương Tây. Điều này hiển thị rõ ràng trong sự tương phản giữa chủ nghĩa khổ hạnh phát triển trong Cơ Đốc giáo phương Tây và sự chiêm nghiệm thần bí ở Ấn Độ. Weber viết:

Bất cứ ai thừa hưởng những truyền thống của nền văn minh Âu châu đương đại sẽ luôn tiếp cận các vấn đề lịch sử bằng một loạt câu hỏi. Đối với họ, những tra vấn ấy là hợp lý và cần thiết. Chúng sẽ dẫn đến hiện tượng kết hợp các tình huống đã sản sinh các hiện tượng văn hóa đặc thù phương Tây, nhưng lại có ý nghĩa văn hóa phổ quát.

Weber cũng bàn luận về những nét độc đáo trong mối quan hệ giữa dân Israel với Yahweh, ảnh hưởng của các tín ngưỡng ngoại lai, sự tranh chấp giữa giới tăng lữ và sự thờ hình tượng. Ông cũng miêu tả thời kỳ chia cắt, khía cạnh xã hội của các lời tiên tri trong Kinh Thánh, và khuynh hướng xã hội của các nhà tiên tri. Weber nhận ra rằng Do Thái giáo không chỉ sản sinh Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, mà còn là nhân tố mấu chốt cho sự trỗi dậy của hình thái nhà nước phương Tây, cũng như ảnh hưởng của nó trên các nền văn hóa Hy Lạp và La Mã. Khi tóm tắt quyển Do Thái giáo Cổ đại, Reinhard Bendix viết:

Không bị ảnh hưởng bởi ma thuật và những suy diễn thần bí, chuyên tâm nghiên cứu luật tôn giáo, canh thức với nỗ lực chỉ làm những điều đẹp ý Chúa trong niềm hy vọng cho một tương lai tươi sáng hơn, các nhà tiên tri thiết lập một tôn giáo của đức tin, theo đó con người trong cuộc sống thường nhật phải tuân giữ các điều răn của luật đạo đức của Chúa. Như thế đạo Do Thái cổ đại đã giúp kiến tạo nền đạo đức thuần lý cho nền văn minh phương Tây.

Xã hội học chính trị và chính quyền

Nguyên tác tiếng Đức Politik als Beruf Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Weber cho ngành xã hội học chính trị và chính quyền là luận văn Chính trị như một nghề chuyên môn (Politik als Beruf). Weber chỉ ra rằng định nghĩa về nhà nước là vấn đề mấu chốt đối với tư duy phương Tây: nhà nước là thực thể được dành độc quyền hợp pháp sử dụng sức mạnh bạo lực. Weber viết rằng chính trị nên được hiểu là bất cứ hoạt động nào có sự can dự của nhà nước nhằm gây ảnh hưởng trên việc phân bổ quyền lực. Như thế, chính trị xuất phát từ quyền lực. Một chính trị gia không cần phải là người tuân thủ triệt để các nguyên tắc của nền đạo đức Cơ Đốc, theo cách hiểu của Weber là những giá trị được Chúa Giê-xu trình bày trong Bài giảng trên núi ("Nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ"). Một người theo đuổi nếp sống như thế phải là một vị thánh, và theo Weber, chỉ có các vị thánh mới có thể sống được như thế. Thế giới chính trị không dành cho các vị thánh. Chính trị gia phải biết kết nối nghĩa vụ đạo đức cho các mục tiêu tối hậu với nghĩa vụ đạo đức của trách nhiệm, và cần phải có niềm đam mê chức nghiệp, cũng như phải biết giữ khoảng cách với người bị trị.

Weber phân biệt ba hình mẫu lãnh đạo chính trị, thống trị và thẩm quyền: gây ảnh hưởng thống trị bởi sự thu hút cá nhân (trong gia đình và tôn giáo), có ảnh hưởng thống trị bởi truyền thống (các tổ phụ, chế độ phong kiến), và ảnh hưởng thống trị bởi quy định luật pháp (nhà nước và luật pháp đương đại, bộ máy hành chính). Theo luận cứ của Weber, mọi quan hệ lịch sử giữa người cai trị và kẻ bị trị đều ẩn chứa các yếu tố ấy, và có thể phân tích chúng dựa trên sự phân biệt kể trên. Weber ghi nhận rằng do không có tính ổn định nên thẩm quyền từ sức thu hút cá nhân buộc phải "hành chính hóa" để trở thành một hình thái quyền lực có cấu trúc vững chắc hơn. Tương tự, ông nhận thấy trong hình thái cai trị bởi truyền thống, một sự đề kháng đủ mạnh có thể trở thành một cuộc "cách mạng theo truyền thống". Như thế, Weber ngụ ý đến một tiến trình tất yếu dẫn tới cấu trúc thẩm quyền dựa trên pháp luật thuần lý, theo đó quyền lực được hành xử thông qua bộ máy hành chính. Do đó, đôi khi lý thuyết này được xem như là một phần trong thuyết tiến hóa xã hội.

Weber cũng nổi tiếng nhờ công trình nghiên cứu về việc hành chính hóa xã hội. Weber là người khởi xướng các cuộc khảo cứu về nền hành chính, và giúp phổ biến thuật từ này. Nhiều khía cạnh của nền hành chính công đương đại hình thành bởi Weber. Nền dịch vụ công kinh điển và được sắp xếp qui củ tại châu Âu đại lục được mệnh danh là "dịch vụ công Weber", mặc dù đây chỉ là một hình mẫu lý tưởng của nền quản trị công và chính quyền được miêu tả trong tác phẩm lớn Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xã hội, 1922) của ông mà chính ông cũng không hài lòng lắm. Trong tác phẩm này, Weber đưa ra một bản phác thảo về quy trình hợp lý hóa như là một sự chuyển đổi từ phương pháp tổ chức và hành động dựa trên các giá trị (thẩm quyền do truyền thống, và thẩm quyền do sự thu hút cá nhân) sang phương pháp tổ chức và hành động dựa trên mục tiêu (thẩm quyền do quy định pháp luật thuần lý). Kết quả, theo miêu tả của Weber, là một "đêm vùng cực trong bóng tối băng giá", khi mà tình trạng hợp lý hóa của đời sống con người cầm giữ mọi cá nhân trong "lồng sắt" của sự kiểm soát lý tính lập nền trên luật pháp.

Kinh tế học

Mặc dù Max Weber được công nhận như là một trong những học giả hàng đầu và được kể tên trong số những nhà sáng lập chuyên ngành xã hội học hiện đại, ông cũng có những cống hiến xuất sắc cho các lĩnh vực khác như kinh tế học, dù chúng không được các kinh tế gia chính thống lưu tâm đến, do quan điểm xem ảnh hưởng của Weber trên các nhà kinh tế học đương đại đến từ các phê phán của ông đều lập nền trên xã hội học. Vào thời của Weber, sự phân biệt giữa các chuyên ngành khoa học xã hội không rạch ròi như ngày nay. Weber tự nhận mình trước tiên là nhà sử học và kinh tế học, rồi mới là nhà xã hội học. Đóng góp được trân trọng nhất của ông cho kinh tế học là tác phẩm nổi tiếng Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Đây là một luận văn chuyên ngành bàn về những khác biệt giữa các tôn giáo và thành quả kinh tế của tín đồ các tôn giáo ấy. Ngoài ra, Weber còn có những sưu khảo cho kinh tế học (cũng là cho các chuyên ngành khoa học xã hội nói chung) về phương pháp luận: lý thuyết về "Verstenhen" (được biết như là Xã hội học luận giải), và antipositivism (được biết như là xã hội học nhân văn). Tại Milano, Venezia, và Firenze, chính quyền nhỏ bé của các nhà nước-thành phố này đã giúp phát triển hình thái sơ khai của chủ nghĩa tư bản. Antwerpen của Bỉ từ thế kỷ XVI đã là trung tâm thương mại của Âu châu. Cũng cần ghi nhận rằng Scotland, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Kháng Cách, lại không được hưởng sự phát triển kinh tế như diễn ra ở Hà Lan, Anh, và vùng New England (cũng là những xứ sở có nền văn hóa Kháng Cách phát triển mạnh). Hơn nữa, Hà Lan theo thần học Calvin mãi đến thế kỷ XIX mới được công nghiệp hóa, chậm hơn nhiều so với nước Bỉ Công giáo, từng là một trong những trung tâm kinh tế trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp tại châu Âu đại lục.

Tác phẩm

Danh sách các tác phẩm của Max Weber.

Các ấn bản riêng lẻ

Gesammelte Aufsätze zur Religionssoziologie (Tập hợp các luận văn về xã hội học tôn giáo), 3 Bde., Tübingen, 1920/21.

Gesammelte Aufsätze zur Sozial- und Wirtschaftsgeschichte (Tập hợp các luận văn về lịch sử kinh tế và xã hội), Tübingen, 1924.

Gesammelte Aufsätze zur Soziologie und Sozialpolitik (Tập hợp các luận văn về xã hội học và chính sách xã hội), Tübingen, 1924.

Gesammelte Aufsätze zur Wissenschaftslehre (Tập hợp các luận văn về khoa học luận), hrsg. von J. Winckelmann, Tübingen, 1968.

Gesammelte politische Schriften (Tập hợp các bài viết chính trị), hrsg. von J. Winckelmann, Tübingen, 1971.

Grundriß zu den Vorlesungen über allgemeine ("theoretische") Nationalökonomie (Bản thảo các bài thuyết trình về nền kinh tế quốc dân [lý thuyết] tổng quát) (1898), Nachdruck, Tübingen, 1990.

Jugendbriefe (Các lá thư thời trẻ), Tübingen o. J., 1936.

Die protestantische Ethik II. Kritiken und Antikritiken (Nền đạo đức Tin lành II. Những lời phê phán và những lời chống lại sự phê phán), hrsg. von J. Winckelmann, Hamburg, 1972.

Die rationalen und soziologischen Grundlagen der Musik (Những nền tảng duy lý và những nền tảng xã hội học của âm nhạc), Tübingen, 1972.

Wirtschaft und Gesellschaft. Grundriß der verstehenden Soziologie (Kinh tế và xã hội. Phác thảo môn xã hội học thông hiểu), hrsg. von J. Winckelmann, Tübingen, 1972.

Wirtschaftsgeschichte. Abriß der universalen Sozial- und Wirtschaftsgeschichte (Lịch sử kinh tế. Đại cương lịch sử kinh tế và xã hội phổ quát), hrsg. von S. Hellmann und M. Palyi, München/Leipzig, 1923.

Toàn tập Max Weber

Do H. Baier ấn hành, Tübingen, từ năm 1984 và còn tiếp tục

Bd. I/2: Die römische Agrargeschichte in ihrer Bedeutung für das Staats- und Privatrecht (Lịch sử nông nghiệp La Mã xét về tầm quan trọng của nó đối với công pháp và tư pháp), hrsg. von J. Deininger, Tübingen, 1986.

Bd. I/3: Die Lage der Landarbeiter im ostelbischen Deutschland (Tình cảnh nông dân Đức miền đông sông Elb) (1892), hrsg. von M. Riesebrot, Tübingen, 1984.

Bd. I/4: Landarbeiterfrage, Nationalstaat und Volkswirtschaftspolitik (Vấn đề nông dân, nhà nước quốc gia và chính sách kinh tế quốc dân), Schriften und Reden 1892-1899, hrsg. von W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit R. Aldenhoff, Tübingen, 1993.

Bd. I/10: Zur Russischen Revolution 1905 (Về cuộc cách mạng Nga năm 1905), Schriften und Reden 1905-1912, hrsg. von W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit D. Dahlmann, Tübingen, 1989.

Bd. I/11: Zur Psychophysik der industriellen Arbeit (Bàn về vật lý học-tâm lý của lao động công nghiệp), Schriften und Reden 1908-1912, hrsg. von W. Schluchter in Zusammenarbeit mit S. Frommer, Tübingen, 1995.

Bd. I/15: Zur Politik im Weltkrieg (Về chính trị trong Thế Chiến), Schriften und Reden 1914-1918, hrsg. von W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit G. Hübinger, Tübingen, 1984.

Bd. I/16: Zur Neuordnung Deutschlands (Bàn về trật tự mới của nước Đức), Schriften und Reden 1918-1920, hrsg. von W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit W. Schwentker, Tübingen, 1988.

Bd. I/17: Wissenschaft als Beruf (Khoa học-Nghề nghiệp và Sứ mệnh) (1917/1919); Politik als Beruf (Chính trị-Nghề nghiệp và Sứ mệnh) (1919), hrsg. von W. J. Mommsen und W. Schluchter in Zusammenarbeit mit B. Morgenbrod, Tübingen, 1992.

Bd. I/19: Die Wirtschaftsethik der Weltreligionen. Konfuzianismus und Taoismus (Đạo đức học kinh tế của các tôn giáo thế giới. Khổng giáo và Lão giáo), Schriften 1915-1920, hrsg. von H. Schmidt-Glintzer in Zusammenarbeit mit P. Kolonko, Tübingen, 1989.

Bd. I/20: Die Wirtschaftsethik der Weltreligionen: Hinduismus und Buddhismus (Đạo đức học kinh tế của các tôn giáo thế giới. Ấn Độ giáo và Phật giáo), (1916-1920), hrsg. von H. Schmidt-Glintzer in Zusammenarbeit mit K.-H. Golzio, Tübingen, 1996.

Bd. II/5: Briefe 1906-1908 (Những lá thư viết năm 1906-1908), hrsg. von M.R Lepsius und W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit B. Ruhhard und M. Schön, Tübingen, 1990.

Bd. II/6: Briefe 1909-1910 (Những lá thư viết năm 1909-1910), hrsg. von M.R Lepsius und W. J. Mommsen in Zusammenarbeit mit B. Ruhhard und M. Schön, Tübingen, 1994.

Các bản dịch cuốn _Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_

Một số bản dịch của quyển Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản của Max Weber (trong số khoảng hơn 20 bản dịch ra các thứ tiếng trên thế giới tính đến nay).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Maximilian Karl Emil Weber** (; ; 21 tháng 4 năm 186414 tháng 6 năm 1920) là một nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà kinh tế chính trị người Đức,
**_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
**Các Hệ phái Tin Lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản** là một luận văn của Max Weber, hình thành từ những quan sát của ông về các doanh nhân Hoa Kỳ nhân
Trong triết học chính trị, **độc quyền bạo lực** hay **độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp** là một tính chất của một thực thể chính trị mà là thực thể duy nhất có
**Loại hình Weber-Troeltsch** là một phân loại xã hội học nghiên cứu các vận động tôn giáo ban đầu được khai phát bởi Max Weber và học sinh kiêm đồng liêu của ông Ernst Troeltsch.
**Bộ máy quan liêu** là một thuật ngữ dùng để chỉ cơ quan của các quan chức chính phủ không được bầu cử và một nhóm người xây dựng chính sách hành chính. Về mặt
**Max Ferdinand Scheler** (; 22 tháng 8 năm 1874 - 19 tháng 5 năm 1928) là một triết gia người Đức nổi tiếng với công trình nghiên cứu về hiện tượng học, đạo đức và
**Đại học Göttingen**, tên chính thức là **Đại học Georg August Göttingen** () thường được gọi **Georgia Augusta**, là một viện đại học nghiên cứu công lập tại Göttingen, Đức. Được Quốc vương Anh kiêm
**Giai cấp**, **giai tầng** hay **tầng lớp** đề cập đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các
**Bất bình đẳng xã hội** là sự bất bình đẳng, thiếu công bằng, sự bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều
thumb|right|Cảnh sát tại U-Bahn München sau một trận đá banh. **Tàu điện ngầm München** () là hệ thống mạng lưới đường sắt vận chuyển nhanh chạy bằng điện dưới mặt đất tại thành phố München,
**Xã hội học kinh tế** là nghiên cứu về nguyên nhân và kết quả xã hội của các hiện tượng kinh tế khác nhau. Lĩnh vực này có thể được chia thành thời kỳ cổ
**Xã hội học đô thị** là một nhánh của xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về nguồn gốc bản chất và các quy luật chung cho sự phát triển và hoạt động của đô
**Cá nhân luận** là khái niệm tiếng Việt đặt cho phương pháp diễn giải xã hội học có tên tiếng Anh là _Methodological Individualism_, hoặc khởi nguồn từ tiếng Đức _Methodische Individualismus_, là khái niệm
**Pháp luật** là một tập hợp các quy tắc được tạo ra và có thể thi hành bởi các cơ sở xã hội hoặc chính phủ để điều chỉnh hành vi, với định nghĩa chính
**Lieven Ferdinand de Beaufort** (23 tháng 3 năm 1879 – 11 tháng 5 năm 1968) là một nhà sinh học người Hà Lan. ## Tiểu sử De Beaufort sinh tại Leusden vào tháng 3 năm
**Thần học Calvin** (tiếng Anh: _Calvinism_) là hệ thống thần học và phương pháp ứng dụng đức tin vào nếp sống Cơ Đốc, đặt trọng tâm vào quyền tể trị của Thiên Chúa. Được gọi
Đây là **danh sách bao gồm các triết gia từ vùng tiếng Đức đồng văn**, các cá nhân có những công trình triết học được xuất bản bằng tiếng Đức. Nhiều cá nhân được phân
**_Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik_** (, tiếng Anh: **_Archives for Social Science and Social Welfare_**) là một tạp chí học thuật chuyên về khoa học xã hội ở Đức xuất bản từ năm 1888 đến
**Xã hội học** là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về
Dưới đây là **danh sách các nhà kinh tế học** nổi bật được xếp theo thứ tự chữ cái, đây được xem là các chuyên gia về kinh tế ### A *Diego Abad de Santillán
nhỏ|Chân dung ba thanh niên, hai người mặc trang phục thổ dân **Biến đổi xã hội** (tiếng Anh: _Social change_) là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội,
**Cuồng giáo** hay **tà giáo** là thuật ngữ đề cập đến một nhóm xã hội được xác định bởi niềm tin tới mức mù quáng vào một tư tưởng tôn giáo, tinh thần, triết học
**_Brazil's Next Top Model, Mùa 1_** là mùa đầu tiên của _Brazil's Next Top Model_. Chương trình được chiếu trên Sony Entertainment Television vào ngày 19 tháng 7 năm 2007. Người chiến thắng trong cuộc
**_Adrianichthys kruyti_** (**cá sóc mỏ vịt**) là một loài cá sóc cực kỳ nguy cấp, đặc hữu của hồ Poso, Sulawesi, Indonesia. Nó được phát hiện bởi Max Wilhelm Carl Weber trong chuyến thám hiểm
thumb|Dịch giả Phạm Nguyên Trường **Phạm Nguyên Trường** (sinh năm 1951), tên thật là **Phạm Duy Hiển**, bút danh là Phạm Minh Ngọc khi tham gia Talawas, là một dịch giả người Việt. Tốt nghiệp
"**Blank Space**" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift và là đĩa đơn thứ hai nằm trong album _1989_, album phòng thu thứ
**_1989_** là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10
**Hannah Arendt** (; tên khai sinh: **Johanna Arendt**; 14 tháng 10 năm 1906 – 4 tháng 12 năm 1975) là một nhà triết học và sử học người Mỹ gốc Đức. Bà được đánh giá là
Các sử gia và những người chỉ trích xem các tín hữu Cơ Đốc theo khuynh hướng **Thanh giáo** ở Anh vào thế kỷ 16 và 17 là những người tìm kiếm "sự tinh tuyền"
Trong ngành xã hội học, **hành động xã hội** (tiếng Anh: _Social actions_) là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn hay các vấn đề xã hội. Hành động xã hội
thumb|Erich Fromm (1974) **Erich Seligmann Fromm** (23 tháng 3 năm 1900 – 18 tháng 3 năm 1980) là nhà tâm lý học xã hội, nhà phân tâm học, nhà xã hội học, triết gia nhân
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Charles Wright Mills** (28 tháng 8 năm 1916 - 20 tháng 3 năm 1962) là nhà xã hội học người Mỹ, và là giáo sư xã hội học tại Đại học Columbia từ năm 1946
nhỏ|Mô hình 3D của 528 Rezia
**528 Rezia**
**528 Rezia** là một tiểu hành tinh ở vành đai chính, thuộc nhóm tiểu hành tinh Cybele. Nó được Max Wolf
**527 Euryanthe**
**527 Euryanthe** là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Max Wolf phát hiện ngày 20.3.1904 ở Heidelberg, và được đặt theo tên _Euryanthe_,
**865 Zubaida**
**865 Zubaida** là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Max Wolf phát hiện ngày 15.2.1917 ở Heidelberg, và được đặt theo tên Zubaida,
**866 Fatme**
**866 Fatme** là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Max Wolf phát hiện ngày 25.2.1917 ở Heidelberg và được đặt theo tên Fatme,
thumb|upright|[[Napoleon, một vĩ nhân điển hình, được các nhà sử học coi là người định hình một kỷ nguyên mang tên chính ông]] **Thuyết vĩ nhân** là một ý niệm vào thế kỷ XIX cho
nhỏ|[[Giáo dục bậc cao là một trong những đặc trưng dễ nhận biết nhất của tầng lớp trung-thượng lưu.]] Trong lĩnh vực xã hội học, **tầng lớp thượng trung lưu** hay **trung lưu bậc cao**
Trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc, **luật pháp Trung Quốc** bắt nguồn từ triết lý Khổng giáo về trật tự xã hội. Những ảnh hưởng này thậm chí đến nay vẫn còn
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
**Phân tầng xã hội** (tiếng Anh: Social Stratification) là sự phân chia nhỏ xã hội thành các tầng lớp khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà
Sương mù buổi sáng trên một ngọn núi. Buổi sáng tại [[Yosemite.]] thumb|Việc chích ngừa [[vắc-xin cúm vào buổi sáng giúp tăng sức đề kháng cao hơn buổi chiều.]] **Buổi sáng**, hay nói đơn giản
_Phần này phê phán Chủ nghĩa Marx, một nhánh của Chủ nghĩa Xã hội. Về phê phán Chủ nghĩa xã hội nói chung, có thể xem Phê phán Chủ nghĩa Xã hội._ **Phê phán chủ
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Chủ nghĩa thực chứng** là một khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã hội học cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện
**Đại học Freiburg** (tiếng Đức: _Albert-Ludwigs-Universität Freiburg_, thông dụng là **Uni Freiburg** hoặc chỉ là **Freiburg**), là một trường đại học nghiên cứu công cộng nằm ở Freiburg im Breisgau, Baden-Württemberg, Đức. Trường đại học
**Bùi Văn Nam Sơn** (sinh năm 1947) là một triết gia, tác giả và dịch giả người Việt Nam. Ông đã dịch và hiệu đính một số tác phẩm triết học và khoa học xã
nhỏ|phải|Thánh thư [[Talmud một bộ cổ thư của người Do Thái có đề cập đến các lề luật về đạo đức kinh doanh]] **Đạo đức kinh doanh của người Do Thái** (_Jewish business ethics_) là