✨Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư

Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư

Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, gọi tắt là CHLBXHCN Nam Tư là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại cho đến khi bị giải thể vào năm 1992 trong bối cảnh xảy ra chiến tranh Nam Tư. Đây là một cựu nhà nước xã hội chủ nghĩa và là một liên bang bao gồm sáu nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa: Bosnia và Herzegovina, Croatia, Macedonia, Montenegro, Serbia, và Slovenia. Ngoài ra, bản thân Serbia có hai tỉnh tự trị là Vojvodina cùng Kosovo và Metohija.

Ban đầu, CHLBXHCN Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito đã đứng về phía khối phía đông vào lúc bắt đầu Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên sau chia rẽ Tito-Stalin năm 1948 thì liên bang này đã theo đuổi một chính sách trung lập, và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Phong trào không liên kết. Sau cái chết của Tito năm 1980, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đã nổi lên vào cuối thập niên 1980 và dẫn đến sự chia rẽ giữa các dân tộc trong các nước cộng hòa thành viên, tiếp theo, các cuộc đàm phán giữa các nước cộng hòa sụp đổ và đến năm 1991, một số quốc gia châu Âu đã công nhận độc lập của một vài nước cộng hòa. Điều này đã khiến cho CHLBXHCN Nam Tư sụp đổ và khởi đầu Chiến tranh Nam Tư.

Lịch sử

Thế chiến II

Ngày 6 tháng 4 năm 1941, Nam Tư bị khối Trục xâm lược, dẫn đầu là Đức Quốc xã; ngày 17 tháng 4 năm 1941, quốc gia này đã hoàn toàn bị chiếm đóng. Người Nam Tư ngay sau đó đã tiến hành kháng chiến dưới ngọn cờ của hai tổ chức, Quân đội Nam Tư tại Tổ quốc theo tư tưởng bảo hoàng và Quân đội Giải phóng Nhân dân và các Biệt đội du kích Nam Tư. Chỉ huy tối cao của quân du kích là Josip Broz Tito, và dưới quyền chỉ huy của ông, phong trào đã sớm bắt đầu lập ra các "lãnh thổ được giải phóng", thu hút sự chú ý từ lực lượng chiếm đóng.

Không giống như các lực lượng dân quân dân tộc chủ nghĩa khác tại Nam Tư, lực lượng du kích là một phong trào theo tư tưởng liên Nam Tư, thúc đẩy "tình huynh đệ và thống nhất" giữa các dân tộc Nam Tư, và đại diện cho các yếu tố cộng hòa, cánh tả, và nhân tố xã hội chủ nghĩa trong nền chính trị Nam Tư. Liên minh gồm các chính đảng, phe nhóm, và cá nhân nổi bật, đứng đằng sau phong trào là Mặt trận Giải phóng Nhân dân (Jedinstveni narodnooslobodilački front, JNOF), do Đảng Cộng sản Nam Tư (KPJ) lãnh đạo.

Mặt trận hình thành một thực thể chính trị đại diện, Hội đồng chống phát xít của Giải phóng Nhân dân Nam Tư (AVNOJ, Antifašističko Vijeće Narodnog Oslobođenja Jugoslavije). AVNOJ tổ chức hội nghị ban đầu ở vùng giải phóng Bihać vào ngày 26 tháng 11 năm 1942, và đã tuyên bố mình là Hội đồng Thảo luận của Nam Tư (tức quốc hội).

Năm 1943, Du kích Nam Tư bắt đầu bị người Đức xem là một mối đe dọa lớn. Trong hai chiến dịch chính Fall Weiss (tháng 1 đến tháng 4 năm 1943) và Fall Schwartz (15 tháng 5 đến 16 tháng 6 năm 1943), khối Trục đã cố gắng để dập tắt cuộc kháng chiến của Nam Tư. Trong các trận chiến, được gọi tương ứng là trận Neretva và trận Sutjeska, 20.000 lính du kích đã phải chiến đấu với một lực lượng gồm 150.000 quân của khối Trục. Các kết luận, được gọi là Hiệp ước Tito-Šubašić, đã trao sự công nhận của nhà vua cho AVNOJ và Liên bang Dân chủ Nam Tư (DFY) và quy định việc thành lập một chính phủ liên minh Nam Tư do Tito đứng đầu và Šubašić là ngoại trưởng, AVNOJ được công nhận là quốc hội Nam Tư lâm thời. đã công nhận thỏa thuận. Hiệp ước Tito-Šubašić năm 1944 đã tuyên bố rằng nhà nước liên bang này là một nền dân chủ đa nguyên và bảo đảm các quyền dân chủ tự do, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tôn giáo và tự do báo chí. Tuy nhiên đến tháng 1 năm 1945, Tito đã thay đổi trọng tâm trong chính phủ của ông từ chỗ nhấn mạnh về dân chủ đa nguyên, sang tuyên bố rằng mặc dù ông chấp thuận dân chủ, song không có "nhu cầu" về đa đảng, ông cho rằng đa đảng gây chia rẽ không cần thiết cho các nỗ lực chiến đấu của Nam Tư và rằng Mặt trận Nhân dân đại diện cho tất cả người dân Nam Tư. Tuy nhiên, bản chất của chính phủ này vẫn chưa rõ ràng, và Tito đã rất miễn cưỡng để đưa Quốc vương Petar II đang lưu vong vào thành phần chính quyền Nam Tư sau chiến tranh theo yêu cầu của Winston Churchill. Tháng 2 năm 1945, Tito thừa nhận sự tồn tại của một hội đồng nhiếp chính đại diện cho Nhà vua: tuy nhiên hành động đầu tiên và duy nhất của hội đồng là ra tuyên bố vào ngày 7 tháng 3 về việc hình thành chính phủ mới do Tito làm thủ tướng. Bản chất của nhà nước vẫn chưa rõ ràng kể cả sau khi chiến tranh kết thúc, và ngày 26 tháng 6 năm 1945, quốc gia này đã ký vào Hiến chương Liên Hợp Quốc chỉ với tên Nam Tư, không nhắc đến một vương quốc hay nước cộng hòa.

Thời kỳ hậu chiến

Cuộc bầu cử đầu tiên tại Nam Tư sau chiến tranh được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 năm 1945. Thời gian này, liên minh các bên ủng hộ quân du kích, Mặt trận Giải phóng Nhân dân đã đổi tên thành Mặt trận Nhân dân. Mặt trận Nhân dân chủ yếu do Đảng Cộng sản Nam Tư lãnh đạo, đại diện là Josip Broz Tito. Danh tiếng của cả hai có được phần lớn là nhờ các hành động của họ trong thời chiến, và họ nhận được sự ủng hộ của người dân. Tuy nhiên, các chính đảng từ thời tiền chiến cũng được tái lập. Kết quả bầu cử được công bố vào ngày 11 tháng 11 năm 1945, với trung bình 85% số cử tri đi bầu ủng hộ cho Mặt trận Nhân dân. Nam Tư trở thành một nhà nước độc đảng và trong những năm đầu tiên nó được xem là tuân theo mô hình cộng sản chính thống.

Chính phủ Nam Tư là đồng minh với Liên Xô và trong thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh, họ đã bắn rơi hai máy bay của Hoa Kỳ bay trên không phận Nam Tư vào ngày 9 và ngày 19 tháng 8 năm 1946. Đây là những vụ bắn rơi máy bay phương Tây đầu tiên trong Chiến tranh Lạnh và khiến Hoa Kỳ càng ngờ vực sâu hơn Tito và thậm chí còn kêu gọi can thiệp quân sự chống lại Nam Tư. Nước Nam Tư mới cũng phát triển kinh tế theo mô hình Stalin-Xô viết trong thời kỳ này, và nó đã đạt được thành công đáng kể trên một số khía cạnh. Đặc biệt là các công trình công cộng đã được chính phủ xây dựng lại và thậm chí còn cải thiện cơ sở hạ tầng của Nam Tư (đặc biệt là hệ thống đường bộ). Căng thẳng với phương Tây lên cao khi Nam Tư gia nhập Cominform, và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, Nam Tư đã theo đuổi một chính sách đối ngoại hung hăng. Phản ứng của Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên đã khiến Stalin bắt đầu từ bỏ kế hoạch chiến tranh với Nam Tư.

Cải cách

Trong thập niên 1950, Nam Tư bắt đầu một số cải cách cơ bản, mang lại sự thay đổi trong ba phương diện chính: nhanh chóng tự do hóa và phân tán quyền lực của hệ thống chính trị quốc gia, thành lập một hệ thống kinh tế mới, độc nhất, và một chính sách ngoại giao không liên kết. Nam Tư đã từ chối tham gia Khối Warszawa và thay vào đó là một lập trường trung lập trong Chiến tranh Lạnh và trở thành một thành viên sáng lập của Phong trào không liên kết cùng với các nước như Ấn Độ, Ai Cập và Indonesia, và một trong những tác động của nó là Nam Tư thúc đẩy một chính sách không đối đầu với Mỹ.

Sau khi ly khai khỏi tầm ảnh hưởng của Liên Xô, Nam Tư đã tự mình lập ra một biến thể của chủ nghĩa xã hội, đôi khi được gọi chính thức là "chủ nghĩa Tito". Hoạt động kinh doanh thị trường tự do được cho phép diễn ra bên trong đất nước, nhà nước xây dựng một hệ thống chủ nghĩa xã hội thị trường. Các cải cách kinh tế bắt đầu vào ngày 26 tháng 6 năm 1950 khi đưa vào thể chế người lao động tự quản lý. Kiểm soát kinh tế đã được giao cho các nước cộng hòa hợp thành, các cơ quan chính phủ ở Beograd trở thành các hội đồng phối hợp hợp tác. Với hệ thống mới, các hội đồng công nhận kiểm soát việc sản xuất và phần lớn lợi nhuận, nó sẽ được phân phối trở lại cho bản thân các công nhân (thay vì nhà nước hoặc chủ sở hữu/cổ đông). Các chương trình phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng cũng được thực hiện, và đất nước cuối cùng đã phát triển một lĩnh vực công nghiệp vững mạnh.

Cải cách kinh tế có quan hệ chặt chẽ với tự do hóa chính trị. Bộ máy quan liêu đồ sộ của nhà nước và đảng đã nhanh chóng bị tinh giản trong một quá trình được mô tả là "đẽo nhà nước" của Boris Kidrič, Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Nam Tư (bộ trưởng kinh tế). Đại hội thứ sáu của Đảng Cộng sản Nam Tư, được tổ chức vào ngày 2 tháng 11 năm 1952 tại Zagreb, được tiến hành theo tinh thần của chủ nghĩa tự do xã hội, và hướng đi mới đã dẫn đến sự ra đời của "Luật cơ bản" năm 1953, trong đó nhất mạnh quyền tự do của "các đoàn thể tự do và người dân lao động" và "tự do cá nhân và quyền con người". Đảng Cộng sản Nam Tư, vốn bao gồm 6 đảng cộng sản tại các nước cộng hòa thành viên, lúc này đã đổi tên thành Liên minh những người cộng sản Nam Tư, bao gồm sáu liên minh những người cộng sản thành viên tại các nước cộng hòa liên bang. Phe bất đồng chính kiến trong đảng do Milovan Đilas lãnh đạo, ủng hộ thủ tiêu gần như toàn bộ bộ máy nhà nước, thời điểm này đã bị Tito can thiệp để đàn áp. Những người tự do này bị một nhóm tập trung quanh Aleksandar Ranković phản đối. Năm 1966, những người tự do (quan trọng nhất là Edvard Kardelj, Vladimir Bakarić của Croatia và Petar Stambolić của Serbia) đã giành được sự ủng hộ của Tito. Tại một hội nghị của đảng ở Brijuni, Ranković đã phải đối mặt với một hồ sơ được chuẩn bị đầy đủ với những lời buộc tội và tố cáo từ Tito rằng ông đã hình thành một bè nhóm với ý định đoạt lấy quyền lực. Ranković bị buộc phải từ chức và một số người ủng hộ ông đã bị trục xuất khỏi đảng.

Phát triển kinh tế và tự do hóa đã không bị cản trở trong suốt các thập niên 1950 và 1960, chúng tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh chóng.

Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Nam Tư, 1978

Năm 1971, ban lãnh đạo của Liên minh những người cộng sản Nam Tư, đặc biệt là Miko Tripalo và Savka Dabčević-Kučar, đã liên minh với các nhóm không đảng phái dân tộc chủ nghĩa, bắt đâù một phong trào nhằm tăng quyền hạn của các nước cộng hòa liên bang thành viên. Phòng trào này được gọi là Phòng trào Quần chúng (MASPOK) và đã lãnh đạo Mùa xuân Croatia. Nước cộng hòa quê hương của Tito là Croatia, ông đã đáp lại bằng một cách tiếp cận kép. Nhà cầm quyền Nam Tư đã bắt giữ một số lượng lớn những người biểu tình Croatia, buộc tội họ khơi gợi nên chủ nghĩa dân tộc, trong khi đó Tito bắt đầu một chương trình nghị sự để đề xướng một số cải cách nhằm ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tương tự có thể lại xảy ra. Lúc này, những người ủng hộ Ustaše ở bên ngoài Nam Tư đã cố gắng thông qua các hành động khủng bố và du kích để hình thành nên một phong trào ly khai, song họ đã không thành công, thậm chí đôi khi còn ở vào tình trạng thù địch với những đồng bào người Nam Tư Croatia theo Công giáo. Từ năm 1971 trở đi, các nước cộng hòa kiểm soát các kế hoạch kinh tế của họ. Điều này đã dẫn đến một làn sóng đầu tư, đi kèm với số nợ tăng lên và xu hướng nhập siêu ngày càng lớn.

Năm 1974, một hiến pháp liên bang mới đã được phê chuẩn, theo đó sẽ trao nhiều quyền tự chủ hơn cho các nước cộng hòa, do đó hoàn thành cơ bản mục tiêu chính của phong trào Mùa xuân Croatia năm 1971. Vấn đề gây tranh cãi nhất trong hiến pháp liên bang mới là phân chia nội bộ Serbia, với việc quyết định trao vị thế tương tự cho hai tỉnh tự trị của nước cộng hòa này, đó là Kosovo-một khu vực có phần lớn dân cư là người Albania, và Vojvodina- một khu vực có một số lượng lớn các dân tộc thiểu số bên cạnh người Serb chiếm đa số, như người Hungaria. Những cải cách này đã khiến các nước cộng hòa hài lòng, đặc biệt là Croatia cũng như những người Albania tại Kosovo và những người thiểu số ở Vojvodina. Song hiến pháp năm 1974 đã làm khiến các quan chức cộng sản người Serb thêm bực tức, họ không tin tưởng vào động cơ của những người ủng hộ cải cách. Nhiều người Serb xem các cải cách này là sự nhượng bộ đối với những người dân tộc chủ nghĩa Croatia và gốc Albania, trong khi lại không thành lập các tỉnh tự trị tương tự để đại diện cho một số lượng lớn người Serb tại Croatia hay Bosna và Hercegovina và những người dân tộc chủ nghĩa Serbia cảm thấy thất vọng trước sự ủng hộ của Tito trong việc công nhận người Montenegro và người Macedonia là các dân tộc riêng biệt, những người dân tộc chủ nghĩa Serbia tuyên bố rằng không có sự khác biệt về mặt sắc tộc hay văn hóa giữa hai nhóm này với người Serb.

Thời kỳ hậu Tito

Ngày 4 tháng 5 năm 1980, Tito qua đời và cái chết của ông được công bố trên hệ thống truyền thông nhà nước khắp Nam Tư. Mặc dù biết rằng trong một thời gian bệnh tình của Tito ngày càng nặng, song cái chết của ông vẫn khiến đất nước sửng sốt. Điều này là bởi Tito được nhìn nhận là một anh hùng dân tộc trong Chiến tranh thế giới thứ hai và đã là nhân vật nổi bật cũng như là bản sắc của đất nước trong nhiều năm. Sự ra di của ông đánh dấu một thay đổi đáng kể, và người ta tường thuật rằng đã có nhiều người Nam Tư công khai than khóc việc ông qua đời. Tại sân vận động bóng đá Split, nơi hai đội Serbia và Croatia đang thi đấu với nhau trong một trận đấu, cả hai đã dừng lại để nghe tin về cái chết của Tito và đẫm lệ hát bài hát ca tụng "Đồng chí Tito Chúng tôi thề với Người, từ đường đi của Người chúng tôi sẽ không trệch hướng"

Phần mộ của Chủ tịch [[Josip Broz Tito.]]

Vào thời điểm Tito qua đời, chính quyền liên bang do Veselin Đuranović đứng đầu (ông đã giữ chức vụ này từ năm 1977). Ông đã xung đột với các nhà lãnh đạo của các nước cộng hòa khi tranh luận rằng Nam Tư cần thi hành tiết kiệm do nợ nước ngoài ngày càng tăng. Đuranović cho rằng phá giá là cần thiết, tức điều mà Tito đã từ chối ủng hộ vì lý do uy tín quốc gia.

Nam Tư hậu Tito phải đối mặt với khoản nợ tài chính đáng kể trong những năm 1980, song nhờ những mối quan hệ tốt đẹp giữa nước này với Hoa Kỳ nên đã dẫn đến việc thành lập một nhóm các tổ chức do Hoa Kỳ lãnh đạo được gọi là "những người bạn của Nam Tư" giải quyết các khoản nợ lớn cho Nam Tư vào năm 1983 và 1984, song các bài toán kinh tế vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cho đến khi giải thể đất nước trong thập niên 1990.

Nam Tư là nước chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông 1984 tại Sarajevo. Đối với Nam Tư, thế vận hội đã tiếp tục chứng minh tầm nhìn Tình huynh đệ và thống nhất của Tito khi các dân tộc Nam Tục vẫn tiếp tục thi đấu thống nhất trong một đội tuyển, và Nam Tư trở thành quốc gia cộng sản thứ hai tổ chức thế vận hội (sau Thế vận hội Mùa hè 1980). Tuy nhiên, thế vận hội tổ chức tại Nam Tư đã không bị một số nước phương Tây tẩy chay như Thế vận hội tại Moskva.

Vào cuối thập niên 1980, chính phủ Nam Tư bắt đầu tiến hành một quá trình rời xa chủ nghĩa cộng sản khi cố gắng chuyển đổi thành một nền kinh tế thị trường dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng Ante Marković, người chủ trương áp dụng "liệu pháp sốc" để tư hữu hóa các khu vực của kinh tế Nam Tư. Marković được nhìn nhận là một chính trị gia có khả năng nhất để chuyển đổi đất nước thành một liên bang dân chủ tự do hóa, song sau đó ông đã mất đi tín nhiệm mà chủ yếu là do thất nghiệp gia tăng.

Tan rã và chiến tranh

Ý thức hệ và đặc biệt là tinh thần dân tộc chủ nghĩa được nhiều người xem là các nguyên nhân chính dẫn đến sự tan rã của Nam Tư. Từ thập niên 1970, chế độ cộng sản Nam Tư đã bị phân tách thành một phe dân tộc chủ nghĩa tự do-tản quyền do Croatia và Slovenia lãnh đạo, phe này ủng hộ một liên bang phi tập trung hóa để trao quyền tự chủ lớn hơn cho hai nước cộng hòa này; còn phe dân tộc chủ nghĩa bảo thủ-tập trung hóa do Serbia lãnh đạo và ủng hộ một liên bang tập trung để đảm bảo lợi ích của Serbia và của người Serb trên khắp Nam Tư – do họ là dân tộc lớn nhất trong toàn quốc. Từ năm 1967 đến 1972 tại Croatia và kéo theo các cuộc biểu tình ở Kosovo từ 1968 đến 1981, các học thuyết và hành động dân tộc chủ nghĩa đã gây ra căng thẳng sắc tộc, khiến đất nước mất ổn định. Vào cuối thập niên 1980, giới cầm quyền tại Beograd đã phải đối mặt với một lực lượng phản đối mạnh mẽ từ các cuộc biểu tình lớn của người Serb tại Kosovo và người Montenegro cũng như yêu cầu cải cách chính trị của giới tri thức Serbia và Slovenia. Các nước cộng hòa phát triển nhất là Croatia và Slovenia đã bác bỏ các nỗ lực nhằm hạn chế quyền tự chủ của họ vốn được quy định trong Hiến pháp 1974. Tuy nhiên, những vấn đề kinh tế đã không được chứng minh là yếu tố mang tính quyết định duy nhất trong sự tan rã của Nam Tư, do Nam Tư trong thời kỳ này là nhà nước cộng sản thịnh vượng nhất ở Đông Âu và quốc gia này trên thực tế đã tan rã về mặt kinh tế trong giai đoạn phục hồi sau khi thực hiện các cải cách kinh tế của chính phủ Ante Marković. Hơn nữa, trong sự tan rã của Nam Tư, các nhà lãnh đạo của Croatia, Serbia, Slovenia đều từ chối một đề nghị không chính thức của Cộng đồng châu Âu với nội dung cung cấp hỗ trợ kinh tế đáng kể cho họ để đổi lấy một thỏa hiệp chính trị. Các thành viên trong giới lãnh đạo chính trị đã điều khiển để chuyển hướng các cuộc biểu tình này sang chống lại "những người khác". Như một hệ quả, Nam Tư đã mất đi sự hỗ trợ về mặt kinh tế và chính trị từ phương Tây, và sức ép từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày càng tăng trong việc cải cách thể chế khiến giới tinh hoa theo chủ nghĩa cải lương ở Nam Tư không thể đối phó với rối loạn xã hội ngày càng tăng lên. và hai tỉnh tự trị (Kosovo và Vojvodina) trong thành phần Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia. Thủ đô của liên bang là Beograd.

Chính sách đối ngoại

Dưới thời Tito, Nam Tư đã có một chính sách trung lập trong Chiến tranh Lạnh. Liên bang này đã phát triển các mối quan hệ chặt chẽ với các nước đang phát triển cũng như duy trì các mối quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ và các nước Tây Âu. Stalin xem Tito là một kẻ phản bội và công khai lên án ông. Năm 1968, sau khi Liên Xô xâm chiếm Tiệp Khắc, Tito đã thiết lập thêm tuyến phòng thủ trên đường biên giới giáp với các nước trong khối Hiệp ước Warszawa. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nam Tư trở thành quốc gia cộng sản đầu tiên mở cửa biên giới cho tất cả các du khách nước ngoài và bãi bỏ thủ tục thị thực.

Trong cùng năm đó, Tito bắt đầu hoạt định tích cực nhằm thúc đẩy một giải pháp hòa bình trong cuộc Xung đột Ả Rập-Israel. Kế hoạch của ông là kêu gọi các quốc gia Ả Rập công nhận Nhà nước Israel để đối lấy việc Israel trao trả lại các lãnh thổ mà nước này đã giành được. Năm 1968, Tito đã đưa ra đề nghị với lãnh đạo Tiệp Khắc Alexander Dubček rằng mình sẽ bay đến Praha báo trước ba giờ nếu Dubček cần giúp đỡ để chống lại Liên Xô, lực lượng đang chiếm đóng Tiệp Khắc khi đó.

Nam Tư có một mối quan hệ phức tạp với chế độ cộng sản Enver Hoxha ở Albania. Ban đầu, quan hệ giữa Nam Tư và Albanian là mối quan hệ sẵn sàng giúp đỡ, khi đó Albania đã chấp thuận thiết lập một thị trường chung với Nam Tư và quy định dạy tiếng Serbia-Croatia cho học sinh ở các trường trung học. Vào thời điểm này, ý niệm về việc thành lập một Liên bang Nam Tư đã được thảo luận giữa Nam Tư, Albania, và Bulgaria. Albania vào thời điểm này phụ thuộc nhiều vào hỗ trợ kinh tế của Nam Tư để có kinh phí nâng cấp cơ sở hạ tầng yếu kém ban đầu. Rắc rối giữa Nam Tư và Albania bắt đầu khi Albania bắt đầu phàn nàn rằng Nam Tư đã chi trả quá ít để lấy tài nguyên thiên nhiên của Albania. Sau đó, mối quan hệ giữa Nam Tư và Albania trở nên xấu đi. Từ năm 1948 trở đi, Liên Xô đã chống lưng để Albania chống lại Nam Tư. Trên vấn đề Kosovo, nơi có người Albania chiếm đa số, cả Nam Tư và Albania đều cố gắng để vô hiệu hóa các mối đe doạ từ các xung đột mang tính dân tộc chủ nghĩa, Hoxha phản đối tình cảm dân tộc chủ nghĩa tại Albania do ông chính thức tin tưởng vào lý tưởng tình huynh đệ quốc tế của chủ nghĩa cộng sản đối với tất cả mọi người, mặc dù trong một vài thời điểm trong thập niên 1980, Hoxha đã thực hiện một số bài phát biểu khích động để ủng hộ người Albania tại Kosovo chống lại chính phủ Nam Tư, những khi tình cảm của quần chúng tại Albania là kiên quyết ủng hộ người Albania tại Kosovo.

Kinh tế

Bất chấp việc có cùng nguồn gốc, nền kinh tế Nam Tư có nhiều khác biệt so với nền kinh tế của Liên Xô và các nước cộng sản khác tại Đông Âu, đặc biệt là sau chia rẽ Nam Tư-Liên Xô vào năm 1948. Mặc dù vẫn thuộc sở hữu nhà nước, các công ty Nam Tư do bản thân những công nhân quản lý, khá giống với kibbutz của Israel và các hợp tác xã công nghiệp vô chính phủ Catalunya ở Tây Ban Nha. Sự chiếm đóng và cuộc đấu tranh giải phóng trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã để lại một Nam Tư với cơ sở hạ tầng bị tàn phá. Ngay cả những vùng phát triển nhất cũng phần lớn là nông thôn, ngành công nghiệp Nam Tư phần lớn cũng bị hư hỏng hoặc bị phá hủy.

Với một ngoại lệ là tình trạng suy thoái vào cuối thập niên 1960, nền kinh tế liên bang khá thịnh vượng. Tỉ lệ thất nghiệp ở mức thấp và trình độ giáo dục của lực lượng lao động tăng lên đều đặn. Do có chính sách trung lập và có vai trò lãnh đạo trong Phòng trào không liên kết, các công ty Nam Tư đã xuất khẩu sang cả thị trường phương Tây và phương Đông. Các công ty Nam Tư cũng tiến hành xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và công nghiệp lớn ở châu Phi, châu Âu và châu Á.

Thực tế là người dân Nam Tư được phép di cư tự do từ thập niên 1960, thúc đẩy nhiều người đi tìm việc làm tại Tây Âu, đặc biệt là ở Tây Đức. Điều này đã góp phần giữ cho tỷ lệ thất nghiệp ở mức kiểm soát, và cũng đóng vai trò là một nguồn vốn và ngoại tệ.

Trong thập niên 1970, kinh tế Nam Tư được tái tổ chức theo học thuyết của Edvard Kardelj về lao động, trong đó người lao động có quyền ra quyết định và chia sẻ lợi nhuận trong các công ty do công nhân vận hành dựa trên đóng góp của họ. Tất cả các công ty đều được chuyển thành tổ chức lao động liên hiệp. Đơn vị nhỏ nhất, tổ chức cơ bản của lao động liên hiệp, gần tương ứng với một công ty nhỏ hay một ban của một công ty lớn. Chúng được tổ chức thành xí nghiệp, kết hợp lại thành các tổ chức hợp thành của lao động liên hiệp, mà có thể là các công ty lớn hay thậm chí là toàn bộ các ngành công nghiệp trong một khu vực nhất định.

Địa lý

nhỏ|phải|Bản đồ địa hình Nam Tư

Giống như Vương quốc Nam Tư tiền nhiệm, Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư giáp với Ý và Áo ở phía tây bắc, Hungary ở phía bắc, Romania và Bulgaria ở phía đông, Hy Lạp ở phía nam, Albania ở phía tây nam, và giáp với biển Adriatic ở phía tây.

Thay đổi quan trọng nhất đối với biên giới Nam Tư xảy ra vào năm 1954, khi Lãnh thổ Tự do Trieste bị giải thể theo Hiệp ước Osimo. Khu vực B, có diện tích 515,5 km², trở thành lãnh thổ của Nam Tư. Khu vực B đã được Quân đội Nhân dân Nam Tư chiếm giữ từ trước đó.

Nhân khẩu

Dân tộc

Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư công nhận riêng biệt "narodi" và "narodnosti"; narodi bao gồm những dân tộc Slav thành phần, trong khi narodnosti bao gồm các dân tộc Slav khác và phi Slav như người Bulgaria và người Slovakia; cùng người Hungaria và người Albania. Trong tổng số 26 dân tộc có quy mô khá lớn sinh sống tại Nam Tư, có cả các sắc dân không có nguồn gốc châu Âu như người Di-gan.

Ngoài ra còn có một dân tộc được gọi là "Nam Tư", dùng để chỉ những người muốn có nhận dạng với toàn thể đất nước, bao gồm những người sinh ra trong các cuộc hôn nhân hỗn chủng.

Số liệu từ cuộc điều tra dân số năm

Ngôn ngữ

Dân cư Nam Tư chủ yếu nói ba ngôn ngữ chính: tiếng Serbia-Croatia, tiếng Slovenia và tiếng Macedonia. Tiếng Serbia-Croatia được nói tại các nước Serbia, Croatia, Bosna và Hercegovina, và Montenegro – với tổng cộng 12.390.000 người vào cuối thập niên 1980. Tiếng Slovenia có xấp xỉ 1.400.000 người nói tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia, còn tiếng Macedonia có xấp xỉ 1.210.000 người nói tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Macedonia. Các dân tộc thiểu số cũng sử dụng ngôn ngữ của họ, với 506.000 nói tiếng Hungaria (chủ yếu tại Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina), và khoảng 2.000.000 triệu người nói tiếng Albania tại CHXHCN Serbia và CHXHCN Macedonia. Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng România và tiếng Ý cũng được nói trên một mức độ thấp hơn.

  • Đại học Ljubljana (1919)
  • Đại học Sarajevo (1949)
  • Đại học Skopje (1949)
  • Đại học Novi Sad (1960)
  • Đại học Niš (1965)
  • Đại học Pristina (1970)
  • Đại học Nghệ thuật Beograd (1973)
  • Đại học Rijeka (1973)
  • Đại học Split (1974)
  • Đại học Veljko Vlahović (tại Titograd) (1974)
  • Đại học Banja Luka (1975)
  • Đại học Maribor (1975)
  • Đại học Osijek (1975)
  • Đại học Kragujevac (1976)
  • Đại học Tuzla (1976)
  • Đại học Mostar (1977)
  • Đại học Bitola (1979)

Nghệ thuật

thumb|Nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel văn học Ivo Andrić|215x215px Một số nhà văn Nam Tư nổi bật nhất đã đạt Giải Nobel văn học là Ivo Andrić, Miroslav Krleža, Meša Selimović, Branko Ćopić, Mak Dizdar. Các họa sĩ Nam Tư đáng chú ý bao gồm: Đorđe Andrejević Kun, Petar Lubarda, Mersad Berber, Milić od Mačve và những người khác. Nhà điêu khắc Nam Tư nổi bật Antun Augustinčić đã thực hiện một tượng đài trước Trụ sở Liên Hợp Quốc tại thành phố New York. Nghệ sĩ dương cầm Ivo Pogorelić và nghệ sĩ vĩ cầm Stefan Milenković được ca ngợi trên bình diễn quốc tế khi trình diễn âm nhạc cổ điển, trong khi Jakov Gotovac là một nhà soạn nhạc và người chỉ huy dàn nhạc nổi bật.

Điện ảnh Nam Tư có các diễn viên đáng chú ý như Danilo Bata Stojković, Ljuba Tadić, Fabijan Šovagović, Mustafa Nadarević, Bata Živojinović, Boris Dvornik, Ljubiša Samardžić, Dragan Nikolić, Milena Dravić, Bekim Fehmiu, Neda Arnerić, Rade Šerbedžija, Mira Furlan, Ena Begović và những người khác. Các nhà làm phim bao gồm: Emir Kusturica, Dušan Makavejev, Goran Marković, Lordan Zafranović, Goran Paskaljević, Živojin Pavlović và Hajrudin Krvavac. Nhiều bộ phim Nam Tư có sự góp mặt của các diễn viên nước ngoài như Orson Welles, Sergei Bondarchuk, Franco Nero và Yul Brynner trong bộ phim được đề cử Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất Trận Neretva (phim), và Richard Burton trong Sutjeska. Ngoài ra, rất nhiều bộ phim nước ngoài đã quay ngoại cảnh tại nhiều địa điểm ở Nam Tư, có thể kể đến Lực lượng 10 từ Navarone, Long huynh hổ đệ, cũng như Trốn thoát từ Sobibor.

Các sự kiện văn hóa trên khắp Nam Tư cũ bao gồm Dubrovačke ljetne igre, Liên hoan phim Pula, Đêm thơ Struga và nhiều sự kiện khác. Nhạc pop và rock cũng là một bộ phận quan trọng trong văn hóa Nam Tư. Nam Tư là nhà nước cộng sản duy nhất tham gia Eurovision và là một trong những nước tham gia cuộc thi này từ sớm nhất, ngay từ khi bắt đầu vào năm 1961 và thậm chí sớm hơn cả một số nước Tây Âu, và đã giành chiến thắng năm 1989. Lễ hội âm nhạc quần chúng đáng chú ý nhất là Liên hoan Split.

Trước khi Nam Tư sụp đổ trong thập niên 1990, liên bang này có một xã hội đa văn hóa dự trên ý nhiệm "tình huynh đệ và thống nhất" và ký ức về chiến thắng chống phát xít và các phần tử dân tộc chủ nghĩa của Du kích Nam Tư, có ý nghĩa như sự tái sinh của người dân Nam Tư. Tại CHLBXHCN Nam Tư, lịch sử đất nước trong Chiến tranh thế giới thứ hai được mô tả không chỉ là chiến đấu giữa Nam Tư và phe Trục mà còn là một cuộc đấu tranh giữa thiện và ác bên trong Nam Tư, trong đó các Du kích Nam Tư đa sắc tộc được miêu tả là "thiện" chống lại các thế lực bị người Nam Tư "ác" thao túng – lực lượng Ustaše của người Croatia và Chetniks của người Serb. The SFRY was presented to its people as the leader of the non-aligned movement and that the SFRY was dedicated to creating a just, harmonious, Marxist world. Những nghệ sĩ có nguồn gốc từ các dân tộc khác nhau trong cả nước cũng đã trở nên nổi tiếng đối với các dân tộc khác, chẳng hạn như ca sĩ nhạc nhẹ-công chúng người Bosnia Lepa Brena đến từ Bosna và Hercegovina, người đã trở nên nổi tiếng tại Serbia, và ngành công nghiệp điện ảnh Nam Tư đã tránh được các yếu tố dân tộc chủ nghĩa cho đến thập niên 1990.

👁️ 6 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia** (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Hrvatska / Социјалистичка Република Хрватска), thường viết tắt là **SR Croatia** hoặc chỉ gọi là **Croatia**, là một nước cộng hoà cấu thành của
nhỏ|334x334px|Đài tưởng niệm Chiến tranh thế giới thứ hai - Đài tưởng niệm Kumanovo. Kỷ niệm phong trào Đảng phái Nam Tư đã trở thành một trong những thành phần chính của văn hóa Macedonia
**Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina** (; ) là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia, thuộc Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam
**Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovenia** (, tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Slovenija / Социјалистичка Република Словенија), thường gọi là ** Slovenia Xã hội chủ nghĩa** hoặc chỉ là **Slovenia**, là một trong sáu cộng
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Montenegro** () là một trong sáu nước cộng hòa của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Nước cộng hòa này là tiền thân của quốc
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosna và Hercegovina** (tiếng Serbia-Croatia: _Socijalistička Republika Bosna i Hercegovina_, Социјалистичка Pепублика Босна и Херцеговина), được biết đến cho đến năm 1963 với cái tên **Cộng hòa Nhân dân
**Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Ba Tư** (thường gọi là **Cộng hòa Xô viết Gilan**) là một nước cộng hòa Xô viết thành lập tại một tỉnh của Iran là tỉnh Gilan.
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia** () là một trong sáu nước cộng hòa thuộc Liên bang Nam Tư, tồn tại giai đoạn 1945-1992 tương ứng lãnh thổ Serbia và Kosovo ngày nay. ##
[[Tập tin:Socialist states by duration of existence.png|Đây là danh sách nước tự tuyên bố là nước xã hội chủ nghĩa dưới bất kỳ định nghĩa nào, số năm được mã màu khác nhau: Nhấn vào
**Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo**, được gọi đơn giản là **Kosovo**, là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia thuộc Nam Tư (tỉnh còn lại
nhỏ|phải|Hai bạn nữ trẻ mặc đồ quân nhân Nga Xô Viết trong dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng vào năm 2014 **Yêu nước xã hội chủ nghĩa** (_Socialist patriotism_) hay **Yêu tổ quốc xã hội
**Josip Broz Tito** (Tiếng Serbia: Јосип Броз Тито, (7 hay 25 tháng 5 năm 1892 – 4 tháng 5 năm 1980) là nhà cách mạng và chính khách người Nam Tư. Ông là Tổng Thư
**Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Byelorussia**, (Tiếng Belarus: Сацыялiстычная Савецкая Рэспублiка Беларусь, La tinh hóa: _Sacyjalistyčnaja Savieckaja Respublika Biełaruś_; Tiếng Nga: Социалистическая Советская Республика Белоруссия / ССРБ, La tinh hóa: _Sotsialističeskaja Sovetskaja
**Chiến tranh giành độc lập Croatia** xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 1995 giữa lực lượng người Croat trung thành với chính phủ Croatia vốn trước đó đã tuyên bố
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina** (, УРСР; УССР), viết tắt là **CHXHCNXV Ukraina** và còn gọi là **Ukraina Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
nhỏ|274x274px|[[Quốc huy Việt Nam|Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ví dụ điển hình của huy hiệu học xã hội chủ nghĩa. Màu đỏ và ngôi sao là biểu tượng
**Quốc huy Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** đã được sử dụng làm quốc huy của Byelorussia Xô viết cho đến khi Liên Xô sụp đổ. Quốc huy này dựa trên Quốc
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Turkestan** (ban đầu là **Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Turkestan**) thành lập ngày 30 tháng 8 năm 1918 từ vùng Turkestan của
**Đại dịch đậu mùa Nam Tư năm 1972** là đại dịch lớn nhất cuối cùng của bệnh đậu mùa ở châu Âu. Đại dịch này tập trung ở Kosovo và Belgrade (lúc đó là một
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România** (), trước ngày 21 tháng 8 năm 1965 được gọi là **Cộng hòa Nhân dân România** ( (1947–1954, 1963–1965) hoặc (1954–1963)), là giai đoạn trong lịch sử România
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa** () là danh hiệu nhà nước Liên Xô, đồng thời là danh hiệu cao nhất cho lĩnh vực lao động từ năm 1938 đến năm 1991. ##
**Cộng hòa Serbia Krajina** (, viết tắt _RSK_) có thể gọi ngắn **Serbia Krajina** hoặc **Krajina**, là một nhà nước không được công nhận, tồn tại trong thời gian ngắn ở Đông Nam Âu. Serbia
**Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Miến Điện** ( _Pyihtaunghcu Soshallaitsammat Myanmar Ninengantaw_) là quốc gia xã hội chủ nghĩa quản lý Miến Điện trong giai đoạn từ 1974 đến 1988. Thủ tướng
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Litva** (; , _Litovskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), viết tắt **CHXHCNXV Litva** hay **Litva Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô, tồn tại
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Kazakhstan** (; ), viết tắt là **Kazak ASSR** (; ), là một nước cộng hòa tự trị của Liên Xô trong Cộng hòa Xã hội
**Quốc huy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** được sử dụng vào ngày 10 tháng 7 năm 1918, tương tự như thiết kế Quốc huy Liên Xô. Trong hình dạng
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia–Phần Lan** (; ) là một nước cộng hòa tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn của Liên bang Xô viết. Cộng hòa đã tồn tại
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia** ( _Haykakan Sovetakan Soc’ialistakan Hanrapetut’yun_; _Armjanskaja Sovetskaja Sotsialističeskaja Respublika_), cũng viết tắt là **CHXHCNXV Armenia** hay **Armenia Xô viết**, là một trong 15 nước cộng hòa
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc** (tiếng Séc và , **_ČSSR_**) là tên của Tiệp Khắc từ năm 1948 cho đến ngày 23 Tháng 4 năm 1990, khi đất nước dưới chế độ
**Đảng Cộng sản Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** (, __) là một đảng cấp cộng hòa của Đảng Cộng sản Liên Xô tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak** (, **SSR**) từ năm 1969 đến 1990 là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, khi nhà nước Tiệp Khắc đơn nhất
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc** (, **ČSR**) là một nước cộng hòa trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc. Tên này được sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1969
**Cộng hòa Công nhân Xã hội chủ nghĩa Phần Lan** (tiếng Nga: _Финляндская Социалистическая Рабочая Республика_, tiếng Phần Lan: _Suomen sosialistinen työväentasavalta_, tiếng Thụy Điển: _Finlands socialistiska arbetarrepublik_) đã được thành lập và tồn tại
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan ** (, chuyển tự: _O`zbekiston Sovet Sotsialistik Respublikasi_; , chuyển tự: _Uzbekskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), hay còn gọi tắt là **Uzbekistan Xô viết**, là một trong
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Kirghizia** ( _Kyrgyz Sovettik Sotsialisttik Respublikasy_; _Kirgizskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), còn gọi là **CHXNCNXV Kirghiz**, **CHXNCNXV Kyrgyz**, **Kirghizia Xô viết** hay **Kirghizia**, là một trong những nước
**Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz** (; tiếng Azerbaijan: Загафгија Совет Федератив Сосиалист Республикасы, _Zaqafqaziya Sovet Federativ Sosialist Respublikası_; ; _Zakavkazskaya Sovetskaya Federativnaya Sotsalisticheskaya Respublika [ZSFSR]_) - hay còn
**Azerbaijan** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan** (, ), viết tắt **CHXHCNXV Azerbaijan** hay **Azerbaijan Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa hình thành
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia** (; , _Latviyskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), viết tắt **CHXHCNXV Latvia**, là một trong các nước cộng hòa của Liên Xô. Nước cộng hòa được thành lập
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Bessarabia** (tiếng Nga: Бессарабская Советская Социалистическая Республика) là một quốc gia tồn tại từ năm 1919 đến 1920 ở Đông Âu. ## Mục đích thành lập Cộng
**Đại dân quốc Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Ả Rập Libya** (Tiếng Ả Rập: ‏الجماهيرية العربية الليبية الشعبية الإشتراكية العظمى Al-Jamāhīriyyah al-ʿArabiyyah al-Lībiyyah aš-Šaʿbiyyah al-Ištirākiyyah al-ʿUẓmā) là một cựu quốc gia tại Bắc Phi
**Quốc huy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajikistan** được chính phủ của Tajikistan Xô viết thông qua vào ngày 1 tháng 3 năm 1937. Quốc huy này được dựa trên Biểu tượng
Tập tin:Narodny_artist_RSFSR.png **Nghệ sĩ nhân dân Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** (, chuyển tự Latinh: _Narodnyǐ artist RSFSR_) là một danh hiệu danh dự được trao cho các nghệ
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Krym** (Tiếng Tatar Krym: Qırım Muhtar Sotsialist Sovet Cumhuriyeti; Qrьm Avonomjalь Sotsialist Sovet Respublikasь; tiếng Nga: Крымская Автономная Социалистическая Советская Республика, _Krymskaya avtonomnaya Socialisticheskaya Sovetskaya
**Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức** (), còn được biết tới là **Đảng Cộng sản Đông Đức**, là đảng phái theo chủ nghĩa Marx-Lenin cầm quyền ở Cộng hòa Dân chủ Đức (GDR;
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tajikistan** (, chuyển tự: _Respublikai Sovetii Sotsialistii Tocikiston_; , chuyển tự: _Tadzhikskaya Sovetskaya Sotsalisticheskaya Respublika_), hay còn gọi tắt là **CHXHCNXV Tajikistan** hoặc **Tajikistan Xô viết**, là