✨Josip Broz Tito

Josip Broz Tito

Josip Broz Tito (Tiếng Serbia: Јосип Броз Тито, (7 hay 25 tháng 5 năm 1892 – 4 tháng 5 năm 1980) là nhà cách mạng và chính khách người Nam Tư. Ông là Tổng Thư ký và sau đó là Chủ tịch của Liên đoàn Những người Cộng sản Nam Tư (từ năm 1939 đến năm 1980), tham gia và lãnh đạo kháng chiến nhân dân Nam Tư trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau cuộc chiến ông lên giữ quyền Thủ tướng (1945–1963) và sau đó lên chức Tổng thống (1953–1980) của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Từ năm 1943 cho đến khi ông mất, Tito còn giữ cấp bậc Nguyên soái, Tổng chỉ huy Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA).

Tito là người sáng lập quốc gia Nam Tư thứ hai, tồn tại từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến năm 1991. Mặc dù là một trong những thành viên ban đầu của Cominform, Tito là người đầu tiên và duy nhất của châu Âu có khả năng chống lại điều khiển của Liên Xô với tư cách là một quốc gia nhỏ, còn trên thế giới thì có hai chính phủ cộng sản không thuộc Liên Xô đó là Nam Tư và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông ly khai Liên Xô vào năm 1959 nhưng lại là một quốc gia lớn, ngoài ra chính phủ Khmer Đỏ của Pol Pot tuy không thuộc Liên Xô nhưng lại thân Trung Quốc. Do không thuộc Liên Xô nên Nam Tư thuộc Phong trào không liên kết, không chống nhưng cũng không ngả theo phe nào trong hai phe đối đầu của Chiến tranh lạnh.

Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất

Josip Broz sinh tại Kumrovec thuộc Croatia, khi đó còn là thuộc địa của Đế quốc Áo-Hung. Ông là con thứ 7 của ông Franjo Broz người Croatia và bà Marija Broz người Slovenia. Khi nhỏ ông sống với ông ngoại. Năm 1907 Broz lên tỉnh Sisak theo học nghề thợ máy và gia nhập phong trào công nhân năm 1910 và theo Đảng Dân chủ Xã hội Croatia. Trong những năm 1911 - 1913 Broz làm tại nhiều hãng ở khắp nơi và cũng có làm cho hãng xe hơi Benz ở Đức và Daimler tại Áo.

Mùa thu 1912, Broz bị bắt đi lính cho Đế quốc Áo-Hung và được cho làm Thượng sĩ thuộc Trung đoàn 25 Croatia tại Zagreb. Tháng 5 năm 1914 Broz được huy chương bạc trong môn thể thao đấu kiếm tại Budapest. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ Broz được đẩy đi Ruma nhưng ông bị bắt bỏ tù vì tội phát động phong trào phản chiến. Tháng 1 năm 1915 Broz bị đầy ra chiến trận miền Đông, chống lại quân Nga. Tại đây ông chiến đấu anh dũng và được khen thưởng, trở thành thượng sĩ trẻ nhất của quân đội Đế quốc Áo-Hung. Ngày 25 tháng 3 1915, ông bị bắn trọng thương và bị quân Nga bắt làm tù binh.

Tù binh và cách mạng Nga

Sau 13 tháng nằm viện dưỡng thương, Broz bị đày đi trại tù lao động vùng núi Ural, tù nhân chọn ông làm trại trưởng. Tháng 2 năm 1917 công nhân nổi dậy vào đánh phá và mở cửa trại. Broz từ đó nhập theo đoàn Bolshevik. Tháng 4 ông bị bắt nhưng trốn thoát và tham gia các cuộc biểu tình vào tháng 7 tại Petrograd. Trên đường sang Phần Lan Broz lại bị bắt nhưng trên đường ra trại tù ông nhảy từ xe lửa trốn thoát và trú ẩn trong gia đình một người Nga. Tại đây ông gặp cô Pelagija Belousova. Trong tù, ông gặp và học hỏi từ Moša Pijade về lý luận chính trị. Quân của Mussolini giành phần còn lại của Slovenia, Kosovo và vùng ven biển Dalmatia và các đảo trong biển Adriatic. Ý cũng lập chính phủ bù nhìn tại Montenegro. Quân Hungary chiếm Vojvodina, sát nhập vào Baranja, Bačka, Međimurje và Prekmurje. Còn quân Bulgaria chiếm gần hết lãnh thổ Macedonia.

Trong những ngày đầu của cuộc xâm lăng, ngày 10 tháng 4 1941 Tito thành lập Ủy ban Quân sự trong Đảng Cộng sản Nam Tư và ngày 1 tháng 5 bắt đầu phát truyền đơn kêu gọi dân Nam Tư đoàn kết chống ngoại xâm. Ngày 4 tháng 7 nghe tin Đức tấn công Liên Xô, Tito mở cuộc họp thành lập Quân đội Kháng chiến Vũ trang và ông được chọn làm Thủ lĩnh. Trong khu rừng vùng Brezovica gần Sisak Croatia, đội quân kháng chiến vũ trang chống phát xít đầu tiên tại châu Âu được thành lập, phần lớn là người Croatia ở các vùng lân cận.

Ngoài quân xâm lăng, Tito và quân kháng chiến còn phải đương đầu với lực lượng "kháng chiến" khác do Draža Mihailović chỉ huy. Lực lượng này mang tên Chetnik, lúc đầu phối hợp với Tito nhưng không bao lâu sau dần dần ngả theo phe phát xít, nhận viện trợ của Ý tấn công quân của Tito. Quân Tito mở cuộc chiến tranh du kích giành được nhiều thắng lợi, giải phóng nhiều vùng bị quân phát xít xâm chiếm. Quân Đức phản công bằng các cuộc thanh trừng giết hại thường dân: cứ mỗi lính Đức chết thì 100 dân Nam Tư phải đền mạng, và 50 cho mỗi lính Đức bị thương. Dẫu thế dân Nam Tư vẫn kiên trì chống trả và bảo vệ những vùng giải phóng, nổi tiếng nhất là vùng đất mang tên Cộng hòa Užice. Trong những khu giải phóng, quân kháng chiến tổ chức những Chính phủ Nhân dân. Tito mở hai cuộc họp của tổ chức gọi là Hội đồng Giải phóng Quốc gia Nam Tư chống Phát xít tại Bihać ngày 26 tháng 11 1942 và tại Jajce ngày 29 tháng 11 1943, tổ chức này được coi như là đại diện của quân dân kháng chiến Nam Tư, và Tito là lãnh tụ. Trong hai cuộc họp này các thành viên đặt nền móng cho quốc gia Nam Tư sau cuộc chiến và riêng tại Jajce nhận Tito làm Chủ tịch Hội đồng. Ngày 4 tháng 12 1943, trong khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn, Tito tuyên bố thành lập Chính phủ Dân chủ Nam Tư.

Nguyên soái J. B. Tito và Thủ tướng Anh [[Winston Churchill, năm 1944]]

Quân phát xít lúc này đang lo ngại quân Đồng Minh đổ bộ vào bán đảo Balkan, bèn mở cuộc hành quân ra sức tiêu diệt kháng chiến Nam Tư. Quân Đức đặc biệt kéo 200.000 quân tấn công vào các cứ điểm của quân kháng chiến, như Neretva (trong trận đánh này quân Chetniks theo phe quân Đức tấn công quân Nam Tư) và tại Sutjeska. Trong trận Sutjeska quân kháng chiến bị bao vây và gần bị tiêu diệt nhưng nhờ khả năng hành quân linh động có khả năng vừa đánh vừa rút thoát khỏi vòng vây, Tito trúng đạn bị thương trong trận này. Quân Đức suýt bắt và giết được Tito ba lần; tại Neretva, tại Sutjeska và tại Drvar. Trong trận Drvar (thuộc Bosnia) Otto Skorzeny cầm đầu toán lính dù Đức tấn công phòng chỉ huy của Tito, nhưng ông may mắn trốn thoát.

Quân Đồng minh lâu nay vẫn ủng hộ quân Chetniks, nhưng khi thấy quân này lộ mặt thân phát xít và khi nhận tin về sức kháng cự của kháng chiến quân Tito, quyết định ủng hộ lực lượng Tito. Tại Hội nghị Tehran, Vua Peter II của Nam Tư, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Chủ tịch Liên Xô Joseph Stalin tuyên bố chính thức công nhận Tito và quân kháng chiến do ông chỉ huy, và cho lính dù Đồng minh nhảy vào hỗ trợ quân kháng chiến Nam Tư. Ngày 17 tháng 6 năm 1944 Hiệp ước Vis được ký kết với mục đích kết hợp lực lượng Tito và Chính phủ Lưu vong Hoàng gia Nam Tư. Quân kháng chiến Nam Tư sau đó được lực lượng của Đồng minh hỗ trợ trực tiếp, gồm không quân và lục quân.

Ngày 28 tháng 9 năm 1944 báo Cơ quan Điện thư Liên Xô (TASS) báo tin Tito cho ký giấy cho quân Liên Xô hành quân vùng đông-bắc Nam Tư. Quân kháng chiến Nam Tư dựa vào lực lượng hỗ trợ mở cuộc tổng tấn công quân phát xít tại nhiều nơi và nhanh chóng giải phóng Nam Tư. Khi quân Đức rút ra khỏi lãnh thổ, Tito cũng lập tức yêu cầu tất cả các lực lượng Đồng minh kéo ra ngoài Nam Tư.

Thời hậu chiến

Nguyên soái J. B. Tito và các tướng lĩnh Quân giải phóng nhân dân Nam Tư sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, ngày 14 tháng 5 năm 1945

Ngày 7 tháng 3 1946 Chính phủ Lâm thời Liên hiệp Dân chủ Nam Tư (Demokratska Federativna Jugoslavija, DFY) ra đời tại Beograd, chưa quyết định thể chế cộng hòa hay vương quốc. Chính phủ này do Tito lãnh đạo trong chức Thủ tướng, cùng thành viên của Chính phủ Lưu vong Hoàng gia khi trước và nhiều người khác, trong đó có Ivan Šubašić. Trong cuộc bầu cử thành lập chính phủ chính thống vào tháng 11 năm 1945, Tito và nhóm cộng hòa do Đảng Cộng sản Nam Tư ủng hộ thắng lớn. Đây là thời điểm Tito được quần chúng yêu chuộng với hình ảnh ông là người giải phóng đất nước.

Chính phủ Nam Tư cố gắng hàn gắn những sứt mẻ trong thời gian bị chiếm; nhất là vấn đề chia rẽ giữa các nước nhỏ thuộc Liên hiệp Nam Tư. Ngoài ra họ còn phải gây dựng lại xứ sở bị chiến tranh tàn phá, luôn đưa hình ảnh đoàn kết xây dựng như mục đích chung của cả nước. Nam Tư được cho danh xưng chính thức là Cộng hòa Liên hiệp Nhân dân Nam Tư, sau đổi thành Cộng hòa Liên hiệp Nam Tư. Ngày 29 tháng 11 năm 1945, vua Peter II của Nam Tư chính thức bị Quốc hội truất phế. Hiến pháp cộng hòa sau đó được soạn thảo và công bố.

Quân đội Nam Tư, Quân đội Nhân dân Nam Tư (Jugoslavenska narodna armija, hay JNA), được thành lập trên căn bản của quân kháng chiến ngày trước, từng được xếp hạng 4 hùng hậu nhất châu Âu. Cảnh sát An ninh Nam Tư (Uprava državne bezbednosti/sigurnosti/varnosti, UDBA) và Cơ quan Mật vụ (Organ Zaštite Naroda (Armije), OZNA) được thiết lập truy nã, bắt giữ và đem ra tòa xử các tội phạm chiến tranh và nhóm người theo phát xít ngày trước. Trong đám tội phạm này có nhiều Linh mục Công giáo của giáo xứ Croatia thuộc chính quyền Ustaša. Draža Mihailović từng chỉ huy quân Chetniks bị xét xử và xử bắn vào tháng 7 năm 1946.

Josip Broz Tito gặp Aloysius Stepinac, Chủ tịch Hiệp hội Giám mục Nam Tư ngày 4 tháng 6 năm 1945 để thương lượng về chính sách tôn giáo nhưng không đạt thành quả. Stepinac và các Giám mục chỉ trích Tito trong vụ thanh trừng tôn giáo vào tháng 9 năm 1945. Năm sau Stepinac bị bắt và kết án 16 năm tù giam với tội cấu kết nhóm khủng bố Ustaše và xúi giục dân chúng theo đạo Công giáo. Tháng 10 năm 1946, Vatican trong phiên họp bất thường lần đầu tiên trong 75 năm, ly khai chính phủ Tito về vụ bắt Stepenac, nhờ đó Stepenac được ân xá và bản án rút xuống thành quản thúc tại gia với phép cho xuất cảnh. Nam Tư sau đó được xem là có tự do tôn giáo hơn các nước Đông Âu láng giềng thuộc khối Xô viết.

Trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Tito được xem là nhà lãnh tụ cộng sản chân chính, chỉ đứng sau Stalin. Lực lượng Phòng không Nam Tư từng bắn rơi máy bay Hoa Kỳ bay vào không phận Nam Tư và đưa liên hệ với Tây Âu vào chỗ khó khăn. Stalin thì lại không mấy ưa Tito, cho ông là quá độc lập.

Tổng thống Nam Tư

Tách rời Stalin

Josip Broz Tito và bà [[Eleanor Roosevelt trong chuyến du ngoạn đảo Brijuni tại Croatia, (tháng 7 năm 1953)]] Khác với những nước thuộc khối Cộng sản Đông Âu, Nam Tư không phụ thuộc Hồng quân Liên Xô trong cuộc giải phóng chống Phát xít. Mặc dù trong thời gian đầu, Tito là đồng minh với Stalin, ông tin tưởng Nam Tư có khả năng đứng riêng rẽ, tự chủ, không phụ thuộc thế lực bên ngoài. Do đó, liên hệ với Liên bang Xô viết dần dần trở nên căng thẳng. Ngay từ năm 1945 Liên Xô đã gài điệp viên vào Đảng Cộng sản Nam Tư để theo dõi và tạo ảnh hưởng.

Mặt khác, Nam Tư cũng không chịu để Đồng Minh Tây Âu lấn ép. Nhiều cuộc đụng độ vũ trang xảy ra giữa Nam Tư và quân Đồng minh Tây Âu. Nam Tư giành lại lãnh thổ Istria, hai thành phố Zadar và Rijeka từng bị Ý chiếm giữ từ những năm 1920. Khi Tito muốn lấy lại khu vực Trieste thì bị Tây Âu phản kháng. Từ đó xảy ra nhiều căng thẳng quân sự. Nghiêm trọng nhất những là vụ không quân Nam Tư tấn công máy bay của Hoa Kỳ, từ năm 1945 tới năm 1948 ít nhất 4 phi cơ Mỹ bị Nam Tư bắn rơi. Stalin rất lo ngại về những xung đột này, cho rằng Liên Xô lúc bấy giờ còn đang hồi phục sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chưa đủ tư thế tham gia chiến tranh giữa Đông và Tây Âu. Trong khi Tito công khai ủng hộ phe cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp, Stalin không tuyên bố quan điểm vì đã hứa với Churchill là Liên Xô không xen vào chuyện nội bộ của Hy Lạp. Đến năm 1948, Tito quyết định đặt kế hoạch phát triển kinh tế không lệ thuộc hệ thống của Liên Xô. Từ đó, liên hệ giữa Nam Tư và Liên Xô bắt đầu tan rã. Tito viết thư cho Stalin:

Liên Xô phản kháng bằng cách chỉ trích Tito và Đảng Cộng sản Nam Tư đã không biết sửa sai và quá tự hào trong chiến thắng chống Đức mà đã quên rằng Liên Xô là cứu tinh của Nam Tư. Ngày 17 tháng 5 Tito cho mời họp các nước cộng sản Đông Âu để điều đình vào tháng 6 nhưng ông không đến họp, ngại rằng Nam Tư sẽ bị tấn công. Thời đoạn này là cuộc khủng hoảng quân sự trầm trọng, quân Liên Xô và Hungary kéo đến đóng tại biên giới phía bắc Nam Tư. Ngày 28 tháng 6 Nam Tư bị trục xuất khỏi khối Đông Âu, và bị kết tội là đảng Cộng sản Nam Tư đã để những thành phần chủ nghĩa quốc gia lên cầm đầu. Những phần tử có tư tưởng giống Tito ("Tito-ist") trong những nước này cũng bị thanh trừng hay trục xuất. Riêng Stalin lại đi xa hơn, ra lệnh thủ tiêu Tito nhưng thất bại. Tito lại gửi thư cho Stalin:

Tito nhân tình huống này quay sang nhận viện trợ từ đối thủ của Liên Xô là Hoa Kỳ, theo chương trình Kế hoạch Marshall. Ông cũng tiếp tục duy trì vị trí của Nam Tư, đứng đầu trong Phong trào không liên kết. Sự kiện này là một thất bại lớn trong kế hoạch phát triển thế lực cộng sản của Stalin. Trong giai đoạn Informbiro này Tito và Nam Tư rơi vào thế khó khăn. Trong khi những thành phần có xu hướng theo Tito tại những nước Đông Âu bị thanh trừng, Nam Tư cũng tống giam những thành phần theo Liên Xô tại đảo Goli Otok (thuộc Croatia). Từ năm 1946 đến năm 1956, gần 10.000 tù nhân đã bị đày ra trại tù kín ở đảo này - với nhiều nhân chứng từng bị tra tấn hành hạ và cưỡng bức lao động.

Ngày 26 tháng 6 năm 1950 Hội nghị Quốc gia thông qua nghị quyết do Milovan Đilas và Tito đề cử về chính sách tự quản, một hình thức chủ nghĩa xã hội dựa trên kinh tế quốc doanh và chia lãi cho người lao động. Ngày 13 tháng 1 năm 1953 kinh doanh tự quản được xem là căn bản của kinh tế Nam Tư. Ngày 14 tháng 1 1953, Tito lên thay Ivan Ribar nhận chức Tổng thống Nam Tư. Sau khi Stalin chết, chính quyền Liên Xô mời Tito sang giảng hòa nhưng ông từ chối không sang. Năm 1955 Nikita Khrushchev và Nikolai Bulganin phải sang Belgrade xin lỗi Tito về những hành động của Stalin khi trước. Tito sang Liên Xô năm 1956 bắt đầu cuộc hòa giải giữa hai nước. Nhưng đến thập niên năm 1960, Nam Tư và Liên Xô lại có hiềm khích. Tito kết luận:

Nam Tư trung lập

nhỏ|ohari|Josip Broz Tito với Tổng thống Cộng hòa Ả rập Thống nhất Gamal Abdul Nasser và Phó Tổng thống Akram al-Hawrani. Cairo, Ai Cập năm 1959

Năm 1961 lãnh tụ của 5 quốc gia Nam Tư, Ấn Độ, Ai Cập, Indonesia và Ghana phát huy Phong trào không liên kết, đồng ý không theo phe nào trong chiến tranh Lạnh, đồng thời phát triển liên hệ với giữa các nước chậm tiến. Hành động này có lợi cho nền kinh tế và quan hệ ngoại giao của Nam Tư. Ngày 1 tháng 9 năm 1961, Tito được bầu lên làm Tổng Thư ký của Phong trào không liên kết. Ngày 7 tháng 4 năm 1963, Nam Tư đổi tên quốc hiệu thành Cộng hòa Liên hiệp Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Chính quyền phát động đổi mới, cho phép đầu tư cá nhân và nới lỏng kiểm soát tôn giáo và phát huy quyền tự do ngôn luận. Tito sau đó đi công du Châu Mỹ. Tại Chile, hai Bộ trưởng từ chức để lên tiếng phản đối Tito. Tại Liên Hợp Quốc, dân Croatia và Serbia biểu tình trong lúc Tito phát biểu trước hội nghị. Nghị sĩ Hoa Kỳ Thomas J. Dodd lên tiếng kết tội Tito về những vụ thanh trừng chính trị tại Nam Tư. Năm 1966, nhân dịp Linh mục Stepanec từ trần, Tito và Tòa thánh Vatican ký thỏa ước cho phép nhà thờ Công giáo truyền đạo tại Nam Tư.

Về phía Đông Âu, Tito phải đối phó với âm mưu của tay cộng sản gộc Aleksandar Ranković. Cùng năm, Tito ra tuyên ngôn rằng người cộng sản phải từ đây cùng nhau xây dựng phát triển Nam Tư qua quyền tự do bàn thảo, và chính quyền độc tài sẽ không còn tồn tại. Cơ quan Mật vụ Chính phủ Nam Tư bị cắt giảm chỉ còn 5.000 nhân viên.

Ngày 1 tháng 1 năm 1967 Nam Tư là nước cộng sản đầu tiên mở cửa biên giới cho dân nước ngoài ra vào tự do không cần giấy visa. Cùng năm, Tito tham gia công cuộc giải hòa giữa Do Thái và Ả Rập. Ông kêu gọi khối Ả Rập công nhận lãnh thổ Do Thái để đổi lấy những phần đất bị Do Thái chiếm đóng.

Tito cũng ủng hộ chính quyền Tiệp Khắc do Alexander Dubček trong cuộc khủng hoảng với Liên Xô, hứa sẽ bay sang Praha bất cứ khi nào Dubček kêu cứu.

Năm 1971 Tito tái đắc cử Tổng thống Nam Tư lần thứ 6. Trong bài diễn văn tại Hội nghị Liên Hiệp Nam Tư ông đề xuất 20 sửa đổi trong Hiến chương, tạo dựng nền tảng cho phát triển quốc gia Nam Tư. Qua các thay đổi hiến chương hình thành một chính quyền gồm 1 Tổng thống và 1 Hội đồng gồm 22 thành viên được bầu lên từ 6 nước cộng hòa thành viên của Liên hiệp Nam Tư và 2 vùng tự trị. Đứng đầu Hội đồng này là một Thủ hiến, chọn lên lần lượt từ các nước thành viên. Trong trường hợp có mâu thuẫn và Hội đồng không quyết định được thì Tổng thống có quyền lực để quyết định sau cùng. Thay đổi của Hiến chương Nam Tư còn cho phép các chính phủ thành viên tự thiết lập cơ sở hiến pháp riêng, không cần theo chủ thuyết của Đảng Cộng sản. Džemal Bijedić được bầu làm Thủ hiến. Tuy các nước thành viên được tăng quyền tự trị, nhóm lãnh đạo Liên hiệp Nam Tư giữ kiểm soát về ngoại giao, an ninh quốc phòng, tài chính, thương mại trong Nam Tư và liên hệ giúp đỡ các nước nghèo láng giềng. Giáo dục, y tế và an sinh xã hội hoàn toàn thuộc về chính quyền các nước thành viên.

Đối với cách nhìn của các nước phương Tây, Tito nổi bật nhất là khả năng giữ được sức liên kết của các nước thành viên Nam Tư, ông liên tục đánh chìm mọi khuynh hướng quốc gia. Một trong những thử thách của công trình giữ nền liên hiệp của Tito là cuộc bùng dậy từ Croatia. Chính quyền Tito đã nỗ lực dẹp tan các cuộc biểu tình công cộng, đồng thời ngăn chặn các nhóm bất đồng chính kiến trong Đảng Cộng sản Nam Tư. Tito tuyên bố về cuộc nổi dậy này: "Sông Sava sẽ chảy ngược khi Croatia lập được nước riêng". Tuy bị chặn đứng, cuộc bùng dậy Croatia này cũng đạt được vài thành công vì sau đó có vài thay đổi trong Hiến chương.

Ngày 16 tháng 5 năm 1974, một Hiến chương mới được công nhận và Josip Broz Tito được bầu làm Tổng thống suốt đời.

Chính sách ngoại giao

Từ trái: Jovanka Broz, Tito, Richard Nixon, và bà Pat Nixon tại [[Nhà Trắng năm 1971]]

Tito được người ta biết đến nhiều vì ông theo đuổi chính sách trung lập trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và luôn hợp tác với các nước đang phát triển. Vì vậy Tito bị Stalin ly gián và sau đó Nam Tư không được khối Đông Âu ủng hộ. Chính sách trung lập này luôn được ông nêu lên trong các bài diễn văn trước công chúng. Ông nhấn mạnh tính quan trọng của sự liên kết của các nước trung lập, cùng nhau phát triển nhưng không được gây áp lực buộc Nam Tư phải ngả theo phe nào trong Chiến tranh Lạnh. Liên hệ giữa Nam Tư và các cường quốc Âu-Mỹ do đó có phần dễ chịu hơn.

Khác với các nước cộng sản chuyên chính, Nam Tư có chính sách du lịch dễ dãi, cho phép người trong và ngoài nước ra vào tự do.

Nam Tư cùng với nhiều quốc gia thân tả cắt bang giao với Chile sau cuộc đảo chính năm 1973.

Cuối đời

nhỏ|Tito ở Jajce, tháng 11 năm 1943. Sau khi nhận chức Tổng thống suốt đời, Tito trở thành một chính khách ngoại giao. Ông dần dần bớt can thiệp trực tiếp vào hoạt động của chính quyền Nam Tư.

Tháng 1 năm 1980, Tito bị tắc mạch máu ở chân sau đó phải vào bệnh viện và bị cưa chân bên trái. Sau đó ông qua đời ngày 4 tháng 5 năm 1980. Đám tang Tito có nhiều chính khách các nước khác đến dự. Trong thời kỳ này, đây là một đám tang đông khách đến dự nhất, với 110 nhà lãnh đạo đến dự. Trong đó có 4 vị vua, 46 Tổng thống và chủ tịch Hội đồng Nhà nước, 1 Toàn quyền, 7 Hoàng tử, 48 Thủ tướng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 65 Ngoại trưởng và 20 Chủ tịch Quốc hội. Họ đến từ 180 quốc gia, 21 tổ chức quốc tế, từ cả hai phe của cuộc Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra còn có đại diện đến từ 83 tổ chức chính trị trên thế giới.

Sau khi Tito qua đời, nền tảng liên hiệp của Nam Tư từ từ tan rã. Các nước thành viên xung đội lẫn nhau vì vấn đề khác biệt sắc tộc đưa đến các cuộc chiến tương tàn kéo dài hàng chục năm sau đó.

Tito được chôn tại nghĩa trang Kuća Cveća (Nhà Hoa) ở Beograd. Ngày nay vẫn có du khách đến viếng để tưởng nhớ những ngày phồn thịnh xa xưa của Nam Tư.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Josip Broz Tito** (Tiếng Serbia: Јосип Броз Тито, (7 hay 25 tháng 5 năm 1892 – 4 tháng 5 năm 1980) là nhà cách mạng và chính khách người Nam Tư. Ông là Tổng Thư
**Thỏa thuận Tito – Šubašić** () là kết quả của một loạt các cuộc đàm phán giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản Nam Tư, Josip Broz Tito, và thủ tướng của chính phủ Nam Tư
thế=Bản đồ chính trị của Đông Âu thời Chiến tranh Lạnh|nhỏ|454x454px|Sự chia rẽ không chỉ khiến mối quan hệ giữa Nam Tư và Liên Xô xấu đi mà còn dẫn đến việc củng cố tầm
**1550 Tito** là một tiểu hành tinh. Nó được phát hiện ngày 29 tháng 11 năm 1937 bởi Milorad B. Protić ở Belgrade, Vương quốc Nam Tư, bây giờ là Serbia. Nó được đặt tên
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Tình trạng các đảng cộng sản Đông Âu sau Cách mạng 1989** là tình trạng của các đảng cộng sản từng cầm quyền tại các nước Đông Âu sau khi chế độ Xã hội chủ
**Bosna và Hercegovina** (tiếng Bosnia, tiếng Croatia, tiếng Serbia chữ Latinh: _Bosna i Hercegovina_, viết tắt _BiH_; tiếng Serbia chữ Kirin: Босна и Херцеговина, viết tắt _БиХ_; ,) là một quốc gia tại Đông Nam
**Đurica Jurica Ribar** (Đakovo, 26 tháng 3 năm 1918 - Trebaljevo, gần Kolašin, 3 tháng 10 năm 1943) là một luật sư, họa sĩ, nhà cách mạng và tham gia Chiến tranh nhân dân giải
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Mặt trận Srem** (, ) là tuyến phòng thủ vững chắc của Wehrmacht và Quân lực Croatia nằm tại Srem và Đông Slavonia trong Thế chiến thứ hai từ 23 tháng 10 năm 1944 đến
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
**Serbia** (phiên âm là _Xéc-bi_ hay _Xéc-bi-a_, , phiên âm là _Xrơ-bi-a_), tên chính thức là **Cộng hòa Serbia** () là một quốc gia nội lục thuộc khu vực đông nam châu Âu. Serbia nằm
**Người Nam Tư** là tên dân tộc được sử dụng bởi một số ít người Slav Nam trên khắp các quốc gia thuộc Nam Tư cũ. Một số người nói rằng tên này dành cho
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
nhỏ| [[Stevan Kragujević, Hồ Chí Minh, Josip Broz Tito và Edvard Kardelj tại Beograd năm 1957]] **Quan hệ Nam Tư – Việt Nam** là mối quan hệ đối ngoại lịch sử giữa Việt Nam (trước
**Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia** (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Hrvatska / Социјалистичка Република Хрватска), thường viết tắt là **SR Croatia** hoặc chỉ gọi là **Croatia**, là một nước cộng hoà cấu thành của
300x300px|thumb ## Sự kiện * 1 tháng 1: Georges-André Chevallaz trở thành tổng thống Thụy Sĩ * 2 tháng 1: Quân đội Xô Viết bắt đầu một chiến dịch lớn trong Afghanistan. * 16 tháng
**Chiến dịch tấn công Beograd** ( / Beogradska operacija; , ) là hoạt động quân sự lớn nhất tại Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là một trong các chiến
nhỏ|[[Lý Quang Diệu, cố thủ tướng Singapore trong giai đoạn 1959 - 1990. Người thường được xem là nhà độc tài nhân từ.]] Một **chế độ độc tài nhân từ** đề cập đến một chính
thumb|Quốc huy Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư **Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư** (Serbia-Croatia: _Privremena vlada Demokratske Federativne Jugoslavije_/_Привремена влада Демократске Федеративне Југославије_) là chính phủ
**Lịch sử thành phố Beograd** truy ngược về 7.000 năm trước Công nguyên kéo dài cho tới ngày nay khi Beograd giữ vị trí thủ đô Serbia. Văn hóa Vinča, một trong những nền văn
**Cộng hòa Serbia Krajina** (, viết tắt _RSK_) có thể gọi ngắn **Serbia Krajina** hoặc **Krajina**, là một nhà nước không được công nhận, tồn tại trong thời gian ngắn ở Đông Nam Âu. Serbia
**Croatia** (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức **Cộng hòa Croatia** (tiếng Croatia: _Republika Hrvatska_ ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và
[[Phù hiệu áo giáp năm 1495 trở thành quốc huy Croatia đương đại.]] Những dấu hiệu sớm nhất của chính thể Croatia biệt lập được cho là thế kỷ VII sau Công Nguyên, nhưng phải
**Enver Hoxha** ( _En-ve Hô-gia_ 16 tháng 10 năm 1908 - 11 tháng 4 năm 1985) là nhà lãnh đạo của Albania từ năm 1944 cho đến khi qua đời vào năm 1985, với vai
**Georgi Mikhaylov Dimitrov** (tiếng Bulgaria: **Георги Димитров Михайлов**), còn được gọi là **Georgi Mikhaylovich Dimitrov** (tiếng Nga: **Георгий Михайлович Димитров**) là chính trị gia người Bulgaria. Ông là Tổng Bí thư Ban chấp hành Đệ
Thuật ngữ **Chiến tranh Kosovo** hay **Xung đột Kosovo** là một cuộc xung đột có vũ trang để mà kiểm soát vùng Kosovo trong những năm 1998/1999. Kosovo là một vùng nơi đa số dân
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
**Viễn Tây Đỏ** () là một thông dụng ngữ đặc tả dòng điện ảnh Viễn Tây tại Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu, nay mở rộng thành thể loại điện ảnh chế tác
[[Eduard Bernstein (1850-1932), người khởi xướng việc xét lại học thuyết Marx.]] Trong chủ nghĩa Marx, từ **chủ nghĩa xét lại** được dùng để nói tới những ý tưởng, nguyên tắc hay lý thuyết khác
**Hiệp ước Vis** (Serbo-Croatia và Slovene: **'), hay còn gọi là **Hiệp định Tito-Šubašić_', là một nỗ lực của phe Phương Tây để sáp nhập chính phủ Hoàng gia Nam Tư lưu vong với phía
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Vjekoslav Luburić** (6 tháng 3 năm 1914 – 20 tháng 4 năm 1969) là một sĩ quan Ustaše người Croatia đảm trách vị trí đứng đầu hệ thống các trại tập trung ở Nhà nước Độc
**Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo**, được gọi đơn giản là **Kosovo**, là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia thuộc Nam Tư (tỉnh còn lại
**Nguyên soái Nam Tư** ( / Маршал угослввј; ; ) là cấp bậc quân sự cao nhất của Quân đội Nhân dân Nam Tư (tương đương với Nguyên soái), và đồng thời là một danh
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
**Phong trào không liên kết** là một tổ chức quốc tế cánh tả gồm các quốc gia tự xem mình là không thuộc hoặc chống lại bất kỳ khối cường quốc lớn nào. Phong trào
**Nicolae Ceaușescu** (, 26 tháng 1 năm 1918 – 25 tháng 12 năm 1989) là Tổng Bí thư Đảng Lao động Romania, sau này là Đảng Cộng sản Romania từ năm 1965 đến năm 1989,
[[Tập tin:Soviet Union and China map including the three co-bordering countries.svg|thumb|upright=1.6| ]] **Chia rẽ Trung – Xô** là một cuộc xung đột chính trị và ý thức hệ chính trị giữa Cộng hòa Nhân dân
**Bán đảo Balkan** là một khu vực địa lý ở giữa biển Adriatic và biển Đen ngay góc đông nam của châu Âu, phạm vi chi tiết chiếu theo định nghĩa mà có rất nhiều
**Bắc Macedonia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bắc Macedonia**, nhưng tên gọi Cộng hòa Macedonia cũng được dùng rộng rãi. Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Macedonia và Hy Lạp ký Hiệp định Prespa chấm
thumb | 220x124px | right | [[Adolf Hitler - lãnh đạo chế độ độc tài toàn trị của Đức Quốc Xã 1933 - 1945]] **Chế độ độc tài** (; cách dịch khác là **chuyên chính**),
**Cách mạng 1989**, hay còn được gọi là **Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu** (còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như là **Mùa
**Vojislav Kostunica** (tiếng Serbia bằng chữ cái Kirin: Војислав Коштуница, phát âm [vɔjisla kɔʃtunitsa], phát âm tiếng Việt: **Vôi-xláp Cô-xtu-ni-xa**; sinh 24 tháng 3 năm 1944) là một nhà chính trị nổi tiếng tại Serbia,
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến dịch Unthinkable** còn được gọi là **Chiến dịch Bất Khả Thi**, là tên gọi của 2 kế hoạch liên quan tới xung đột của Đồng minh phương Tây và Liên Xô. Cả hai đều
Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Serbia vào ngày 12 tháng 11 năm 1989 để bầu ra Tổng thống Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và các đại biểu Quốc hội CHXHCN
**Sân vận động Thành phố Poljud** (), còn được gọi là **Sân vận động Poljud** hoặc đơn giản là **Poljud**, là một sân vận động đa năng ở Split, Croatia, là sân nhà của Hajduk
**Trận Vukovar** là một cuộc vây hãm kéo dài 87 ngày từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1991 ở thành phố Vukovar, miền đông Croatia, áp đặt bởi Quân đội nhân dân Nam Tư