✨Chiêm tinh và khoa học
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong thế giới con người. Cộng đồng khoa học phủ nhận chiêm tinh học vì không có khả năng giải thích trong việc mô tả vũ trụ. Những thí nghiệm khoa học về chiêm tinh học đã được thưc hiện và không có bằng chứng nào tìm thấy hỗ trợ cho cơ sở và tác dụng có mục đích tiêu cực được nêu ra trong lịch sử chiêm tinh học.
Khi chiêm tinh học tạo ra những dự đoán giả mạo nghĩa là nó đã bị giả mạo. và bị coi là phi khoa học. Không giả thuyết nào về cơ chế hoạt động như là vị trí hay chuyển động của các chòm sao hay các hành tinh có thể ảnh hưởng tới con người và sự kiện trên Trái Đất mà không mâu thuẫn với các khía cạnh sinh học và vật lý học cơ bản đã được hiểu rõ.
Giới thiệu
Phần lớn các chuyên gia chiêm tinh học dựa vào việc thực hiện những trắc nghiệm tính cách chiêm tinh học và đưa ra những dự đoán có liên quan đến tương lai của người xem chiêm tinh. Nhà vật lý thiên văn học Neil deGrasse Tyson bình luận về các niềm tin đối với chiêm tinh rằng "một phần của việc hiểu được suy nghĩ chính là hiểu được các quy luật của tự nhiên sắp xếp cuộc sống xung quanh chúng ta. Nếu không có kiến thức, không có năng lực suy nghĩ, bạn có thể dễ dàng trở thành nạn nhân của những người muốn lợi dụng bạn."
Tiếp tục tin vào chiêm tinh học bỏ qua sự thiếu tin cậy của nó bị coi là một minh chứng cho sự thiếu hiểu biết về khoa học.
Lịch sử mối quan hệ với thiên văn học
Những lý thuyết cấu trúc cơ sở dùng trong chiêm tinh học có nguồn gốc từ người Babylon, tuy nhiên nó chỉ được sử dụng rộng rãi từ sự khởi đầu của thời kì văn hóa Hy Lạp sau khi Alexander Đại đế đánh chiếm Hy Lạp. Người Babylon không biết rằng các chòm sao không cùng trên một quả cầu thiên thể mà cách rất xa nhau. Sự xuất hiện của chúng gần như chỉ là ảo tưởng. Ranh giới chính xác định nghĩa một chòm sao chính là văn hóa và sự đa dạng của các nền văn minh. Những nghiên cứu của Plolemy về thiên văn học đã đạt tới mức độ mong muốn, giống như tất cả các nhà chiêm tinh học mọi thời đại, nhằm dễ dàng tính toán sự chuyển động của các hành tinh. Chiêm tinh học Phương Tây sớm hoạt động theo những khái niệm của Hy Lạp cổ đại về Thế giới vĩ mô và vi mô; nhờ đó mà y học chiêm tinh liên quan tới những gì xảy ra với các hành tinh và thiên thể khác trên bầu trời với hoạt động y tế. Điều này mang đến động lực thúc đẩy những nghiên cứu sâu hơn về thiên văn học.
Tại thời kì vàng son của Hồi giáo, chiêm tinh học được hỗ trợ bởi các thông số thiên văn học, ví dụ như độ nghiêng của quỹ đạo Mặt trời, điều kiện để mô hình Ptolem có thể tính toán tới một con số đầy đủ và chính xác. Những người có quyền lực, ví dụ như Tể tướng Fatimid năm 1120, đã tài trợ cho việc xây các đài quan sát tiên đoán chiêm tinh học, tạo động lực giúp đưa ra các thông tin chính xác về hành tinh. Từ khi những đài quan sát được xây dựng để hỗ trợ các tiên đoán chiêm tinh học, chỉ một số ít có thể tồn tại lâu dài bởi sự cấm đoán chiêm tinh học của đạo Hồi và phần lớn chúng bị dỡ xuống ngay trong hoặc sau khi được xây dựng Công trình nghiên cứu đầu tiên của Ictizad al-Saltana có tên Falak al-sa'ada, mang chủ trương xóa bỏ niềm tin vào chiêm tinh học và thiên văn học cũ tại Iran đã được xuất bản năm 1861. Với chiêm tinh, việc trích dẫn sự thiếu năng lực của những nhà chiêm tinh khác nhau để đưa ra những dự đoán giống nhau về những gì xảy ra dựa trên các mối liên hệ và mô tả đặc tính các nhà chiêm tinh học gắn cho các hành tinh là một điều phi lý.
Vì thế, mỗi thí nghiệm học thuyết khoa học phải phản bác lại kết quả của học thuyết giả mạo hiện tại, và mong đợi một kết quả khác phù hợp với học thuyết. Theo như cách sử dụng các tiêu chí giả tạo này, chiêm tinh học chính là giả khoa học. Popper coi chiêm tinh học là "giả thực nghiệm" mà trong đó "nó kêu gọi sự quan sát và thử nghiệm:, nhưng "chưa bao giờ đạt tới chuẩn mực khoa học".
Tương phản với các quy luật khoa học, chiêm tinh học không phản hồi với sự giả mạo qua các thí nghiệm. Theo Giáo sư thần kinh học Terence Hines, đây là một dấu hiệu của giả khoa học.
"Không có câu đố nào cần lời giải"
Trái ngược với Popper, nhà triết học Thomas Kuhn cho rằng chiêm tinh học phi khoa học không phải vì thiếu sự giả định, mà vốn dĩ quá trình và khái niệm của chiêm tinh học là phi thực nghiệm. Theo Kuhn, mặc dù chiêm tinh học đã từng tạo ra những tiên đoán "hoàn toàn thất bại" nhưng điều này không làm tự làm nó trở nên phi khoa học, kể cả cách mà các nhà chiêm tinh học cố gắng giải thích cho những thất bại này rằng để tạo ra một lá số tử vi là rất khó (sau khi tổng hợp lại thực tế rằng những lá số tử vi bao quát lại dẫn đến một tiên đoán khác)
Hơn nữa, trong mắt Kuhn, chiêm tinh học không phải là khoa học bởi vì nó dường như luôn giống với y học trung cổ; chúng luôn tuân theo những chuỗi quy luật và hướng chúng tới những lịch vực dường như cần thiết nhưng thiếu sót, tuy nhiên họ lại không nghiên cứu vì các lĩnh vực này không tuân theo sự nghiên cứu, Theo Thagard thì một tiêu chí nữa trong ranh giới của khoa học và giả khoa học chính là trạng thái tiến cấp của nghệ thuật và cộng đồng các nhà nghiên cứu nên cố gắng để so sánh các học thuyết hiện tại để thay thế, và không được "chọn lọc trong việc cân nhắc xác nhận hoặc không xác nhận". Theo Thagard, các nhà chiêm tinh học hành động như tham gia vào khoa học thông thường tin rằng nền móng của chiêm tinh học đã được thành lập mặc dù có "rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết" dưới một dạng học thuyết thay thế tốt hơn (Tâm lý học). Vì lý do này mà Thagard xem chiêm tinh học như giả khoa học
Những lý luận nghèo nàn này bao gồm cả sự biện luận của các nhà chiêm tinh học ví dụ như Kepler trong bất kì sự liên quan nào tới các chủ đề hay lý do cụ thể nào cũng như các kết luận mơ hồ. Kết luận với bằng chứng của chiêm tinh học rằng những người được sinh ra "cùng một địa điểm có cuộc sống rất giống nhau" thực sự mơ hồ, đồng thời sự bỏ qua rằng thời gian chính là hệ quy chiếu phụ thuộc và không thể được định nghĩa là "cùng một địa điểm" mặc dù các hành tinh chuyển động theo hệ quy chiếu của hệ Mặt trời. Một số ý kiến khác của các nhà chiêm tinh học lại dựa trên hang loạt những giải thích sai lầm nghiêm trọng về quy tắc vật lý cơ bản, ví dụ như một nhà chiêm tinh đã kết luận rằng hệ Mặt trời trông giống như một nguyên tử. Hơn nữa, James cũng lưu ý rằng phản biện của chiêm tinh học cũng dựa trên những logic thất bại, ví dụ như tuyên bố sau khu nghiên cứu sự trùng hợp các cặp song sinh là do chiêm tinh học, nhưng bất kì sự khác biệt nào thì lại do "di truyền và môi trường", trong khi đối với các nhà chiêm tinh khác, vấn đề này quá khó khăn và họ chỉ muốn xoay quanh vấn đề chiêm tinh của họ. và được công bố trên một tạp chí uy tín, Nature. Họ cũng chọn 26 người trong 28 nhà chiêm tinh học cho thí nghiệm, hai người còn lại tình nguyện cho các thí nghiệm tiếp theo. thực hiện một các thí nghiệm khoa học quy mô lớn, liên quan đến hơn một trăm nhận thức, hành vi, thể chất và các biến số, nhưng không tìm thấy sự hỗ trợ nào cho chiêm tinh học. Một nghiên cứu sâu hơn tham gia bởi 45 nhà chiêm tinh học tự tin, với số năm kinh nghiệm trung bình là 10 năm và 160 chuyên đề thí nghiệm (vượt hơn so với quy mô 1198 chuyên đề thí nghiệm), những người ủng hộ mạnh mẽ cực độ các đặc điểm tính cách trong Trắc nghiệm tính cách của Eysenck. và tâm lý học Michel Gauquelin tuyên bố rằng mặc dù thất bại trong việc tìm các bằng chứng hỗ trợ cho các dấu hiệu cung hoàng đạo và khía cạnh về hành tinh trong chiêm tinh học, ông ấy đã tìm ra một mối tương quan tích cực giữa vị trí ngày của các hành tinh và sự thành công trong sự nghiệp (ví dụ như bác sĩ, nhà khoa học, vận động viên, diễn viên, nhà văn, họa sĩ, v.v...), điều mà truyền thống chiêm tinh liên kết với các hành tinh. Phát hiện nổi tiếng nhất của Gauquelin dựa trên vị trí của sao Hỏa trong bảng tử vi của các vận động viên thành công và được biết đến với cái tên "Hiệu ứng sao Hỏa". Một nghiên cứu tiến hành bởi 7 nhà khoa học Pháp cố gắng để tái tạo kết quả nghiên cứu, nhưng không tìm thấy bằng chứng thống kê.
Geoffrey Dean cho rằng hiệu ứng có thể do sự khai báo ngày sinh của cha mẹ họ chứ không có bất kì vấn đề nào với nghiên cứu của Gauquelin. Giả thuyết cho rằng các cặp cha mẹ có con nhỏ có thể làm thay đổi ngày giờ sinh để có một bản tử vi tốt hơn liên quan đến nghề nghiệp. Mẫu thí nghiệm thu thập từ thời điểm mà niềm tin vào chiêm tinh còn phổ biến. Gauquelin đã thất bại khi tìm ra hiệu ứng Sao Hỏa trong dân số hiện tại, khi mà các bác sĩ và y tá ghi chép lại thông tin ngày sinh. Số lượng các ngày sinh dưới các điều kiện chiêm tinh học không mong muốn cũng dần giảm đi, càng chứng minh một cách rõ ràng rằng các phụ huynh đã chọn ngày và giờ phù hợp với tín ngưỡng của họ. Họ chỉ ra rằng các nhà chiêm tinh học chỉ có một lượng kiến thức nhỏ về thiên văn và họ không thường xuyên đưa các đặc trưng cơ bản như sự tiến động của các phân điểm, thường thay đổi theo vị trí của Mặt trời theo thời gian. Họ đưa ra ý kiến về thí nghiệm của Elizabeth Teissier người kết luận rằng "mặt trời dừng lại tại cùng một điểm trên bầu trời vào cùng một ngày mỗi năm" như một kết luận cơ bản rằng hai người có cùng ngày sinh nhưng khác năm sinh sẽ cùng chịu ảnh hưởng bởi các hành tinh giống nhau. Charpak và Broch lưu ý rằng "có sự khác biệt khoảng hai mươi hai nghìn dặm giữa vị trí của trái đất vào mỗi một ngày cụ thể trong 2 năm liên tiếp" và vì thế họ không thể cùng chịu ảnh hưởng giống nhau theo như chiêm tinh học. Sau định kì mỗi 40 năm sẽ sự cách biệt có thể lớn hơn 780.000 dặm.
Thiếu tính vật lý cơ bản
Edward W. James bình luận rằng gắn các dấu hiệu với các chòm sao trên thiên cầu khi Mặt trời lặn đã được hoàn thiện như một yếu tố cơ bản của con con người, thứ mà các nhà chiêm tinh không muốn thoát ra khỏi nó, và thời điểm chính các của giữa trưa là rất khó nhận biết. Hơn nữa, sự sáng tạo ra cung hoàng đạo và mất kết nối từ những chòm sao là do Mặt trời không chiếu lên các chòm sao cùng một lượng thời gian. Vào năm 1975, trong bối cảnh sự quan tâm tới chiêm tinh học ngày càng tăng mức độ phổ biến, tạp chí The Humanist trình bày một phản bác chiêm tinh học trong tuyên bố chung bởi Bart J. Bok, Lawrence E. Jerome và Paul Kurtz. Nếu có ai đó nỗ lực thử giải thích nó một cách khoa học, thì chỉ có bốn yêu tố cơ bản (một cách thông thường), hạn chế sự lựa chọn của cơ chế khả năng tự nhiên. Sức mạnh của những lực này sẽ giảm dần theo khoảng cách. Trong khi đó các nhà chiêm tinh thử gợi ý một yếu tố thứ năm, điều này không đồng nhất với xu hướng của vật lý trong sự thống nhất của điện từ và lực yếu vào lực điện. Nếu các nhà chiêm tinh học khăng khăng bất đồng với những yếu tố cơ bản đã được hiểu và chứng minh thì nó có thể là một khẳng định đặc biệt. Nghiên cứu sau đó bị chỉ trích nặng nề vì những mẫu vật không ngẫu nhiên của nó và cách sử dụng các thông số cũng như sự thiếu nhất quán với chiêm tinh học.
Tâm lý học
Nhận định thiên vị được khẳng định là hiện tượng tâm lý góp phần làm nên niềm tin vào chiêm tinh. Nhận định thiên vị là một dạng sai lầm về nhận thức.
Theo các tài liệu, những người tin vào chiêm tinh học thường có xu hướng ghi nhớ một cách có chọn lọc các dự đoán trở thành sự thực và quên đi các dự đoán sai. Ngoài ra, một dạng của nhận định thiên vị chính là đóng vai, khi mà những người mê tín thường thất bại trong việc phân biệt các thông điệp để chứng minh những khả năng đặc biệt và những thông điệp không chứng minh khả năng đó. Kết quả của nghiên cứu này nhân rộng ra các sinh viên khác.
Nghiên cứu về hiệu ứng Barnum/Forer tập trung chủ yếu vào mức độ chấp nhận đối với cung hoàng đạo giả và từ vi chiêm tinh học giả.
Xã hội học
Năm 1953, nhà xã hội học Theodor W. Adorno tiến hành một nghiên cứu về mục chiêm tinh trên một tờ báo Los Angeles như là một phần của dự án nghiên cứu văn hóa đại chúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Adorno tin rằng chiêm tinh phổ biến như một công cụ luôn dẫn dắt tới các tuyên bố phù hợp đáng được khích lệ—và các nhà chiêm tinh học, những người đi ngược lại với tuyên bố không khích lệ thể hiện trong công việc v.v—gặp nguy cơ bị mất việc. Adorno đưa ra sự so sánh với thành ngữ "opium of the people", viết bởi Karl Marx bằng một bình luận "thuyết huyền bí chính là siêu hình của rượu." Trong một chương trình của đài BBC, Wonders of the Solar System, nhà vật lý Brian Cox đã nói "mặc dù sự thật chiêm tinh học là một mớ rác rưởi, thì Sao Mộc vẫn, trong thực tế, tác động lên hành tinh của chúng ta. Và thông qua một lực... chính là Trọng lực". Điều này làm phiền lòng những người tin tưởng vào chiêm tinh học và họ phàn nàn rằng chẳng có nhà chiêm tinh học nào cung cấp những điểm nhìn tương đối cả. Sau những phàn nàn của những người tin tưởng vào chiêm tinh học, Cox đưa ra tuyên bố trên kênh BBC: "Tôi xin lỗi cộng đồng chiêm tinh học vì đã không làm rõ ý của mình. Tôi đáng lẽ phải nói rằng trong thời đại mới này những chuyện vô vị mới là thức phá hoại cấu trúc của nền văn minh chúng ta". Trên một phiên bản của tạp chí y tế BMJ, biên tập viên Trevor Jackson trích dẫn sự việc này là nơi biểu hiện của cân bằng sai lầm. Niềm tin này giảm dần theo học thức và học thức liên quan chặt chẽ với mức độ kiến thức khoa học.
Một số báo cáo về mức độ niềm tin là do sự nhầm lẫn giữa chiêm tinh học và thiên văn học (một nghiên cứu khoa học về các thiên thể). Sự giống nhau của hai từ này phụ thuộc vào ngôn ngữ. Một miêu tả đơn giản về chiêm tinh học trong một thăm dò năm 1992 như "ảnh hưởng huyền bí của các ngôi sao, các hành tinh, vân vân lên con người" không cho thấy nhận xét chung của công chúng về việc chiêm tinh học có phải là khoa học hay không. Điều này một phần là do sự ngầm hiểu của đa số công chúng cho rằng bất cứ từ nào kết thúc với đuôi "ology" đều là một lĩnh vực kiến thức chính thống. Trong Eurobarometers 224 và 225 thực hiện năm 2004, một cuộc điều tra riêng lẻ được diễn ra về sự nhầm lẫn ngôn ngữ. Trong cuộc thăm dò, từ "astrology" (chiêm tinh học) đã được sử dụng, mặt khác từ "horoscope" (tử vi) cũng xuất hiện. Niềm tin rằng chiêm tinh học có ít nhất một phần là khoa học lên tới 76%, nhưng niềm tin rằng tử vi có ít nhất một phần là khoa học chỉ đạt 43%. Đặc biệt, niềm tin chiêm tinh học rất khoa học là 26% trong khi đó chỉ số này với tử vi là 7%. Điều này chỉ ra rằng mức độ ủng hộ cho chiêm tinh học tại EU thực sự do sự nhầm lẫn về thuật ngữ.