✨Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu
Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu (tiếng Anh: European Southern Observatory (ESO), tiếng Pháp: Observatoire européen austral), tên chính thức là Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu (tiếng Anh: European Organization for Astronomical Research in the Southern Hemisphere, tiếng Pháp: Organisation Européenne pour des Recherches Astronomiques dans l'Hémisphere Austral) là một tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về thiên văn học, kết hợp từ mười bốn nước thuộc châu Âu và Brasil (2010). Được thành lập năm 1962 với mục đích cung cấp những cơ sở tiên tiến nhất và khả năng quan sát bầu trời ở Nam Bán cầu cho các nhà thiên văn châu Âu. Tổ chức này nổi tiếng với những đài thiên văn và điều hành những kính thiên văn lớn nhất, công nghệ hiện đại nhất trên thế giới; như Kính thiên văn công nghệ mới (NTT), đây là kính tiên phong áp dụng công nghệ quang học chủ động, và kính thiên văn rất lớn - VLT (Very Large Telescope), gồm bốn kính đường kính 8 m và bốn kính phụ đường kính 1,8 m.
Nhiều cơ sở quan sát của tổ chức đã đóng góp những khám phá thiên văn quan trọng, cũng như thực hiện một vài danh lục thiên văn học. Một trong những khám phá gần đây đó là sự khám phá ra vụ bùng phát tia gamma xa nhất và chứng cứ cho một lỗ đen tại trung tâm của thiên hà chúng ta, dải Ngân Hà. Năm 2004, kính VLT đã cho phép các nhà thiên văn học chụp được bức ảnh trực tiếp đầu tiên về một hành tinh ngoại hệ 2M1207b, nó quay xung quanh lùn nâu cách Mặt Trời 173 năm ánh sáng. Nhờ phổ kế HARPS mà tổ chức đã phát hiện ra nhiều hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời, bao gồm một hành tinh với khối lượng khoảng 5 lần khối lượng Trái Đất, Gliese 581c. Kính VLT cũng đã quan sát thấy một trong những thiên hà xa nhất Abell 1835 IR1916 đồng thời cung cấp thêm bằng chứng về thiên hà xa nhất cho tới tháng 11/2010, thiên hà UDFy-38135539.
Các cơ sở
nhỏ|Trụ sở ESO ở Garching, Đức Mọi cơ sở quan sát của tổ chức đều nằm ở Chile (do mục đích nghiên cứu bầu trời Nam Bán cầu và điều kiện khí quyển thuận lợi ở sa mạc Atacama, một nơi lý tưởng cho quan sát thiên văn), trong khi trụ sở chính lại đặt tại Garching gần Munich, Đức. ESO điều hành ba đài quan sát chính ở sa mạc Atacama của Chile, một trong những nơi khô cằn nhất trên Trái Đất:
- Đài quan sát La Silla
- Đài quan sát Paranal, nơi đặt Kính thiên văn rất lớn
- Đài quan sát Llano de Chajnantor, nơi đặt kính thiên văn dưới milimét APEX (Atacama Pathfinder Experiment submillimetre telescope) và đặt ALMA, dãy kính thiên văn lớn bước sóng milimét Atacama (Atacama Large Millimeter Array), hiện tại đang được xây dựng trong dự án hợp tác giữa các nước Đông Á (Nhật Bản và Đài Loan), châu Âu (ESO), Bắc Mỹ (USA và Canada), và Chile.
Một trong những dự án đầy tham vọng của ESO là Kính thiên văn cực lớn châu Âu (E-ELT), một kính thiên văn đường kính 39 m dựa trên thiết kế 5-gương, tiếp nối khái niệm về kính thiên văn khổng lồ (Overwhelmingly Large Telescope) (OWL). Khi hoàn thành, kính E-ELT sẽ là kính thiên văn quang học/gần hồng ngoại lớn nhất trên thế giới. ESO đã khởi động giai đoạn thiết kế kính năm 2006 với dự định bắt đầu xây dựng vào năm 2011. E-ELT có thể hoàn thành vào năm 2018.
Kính thiên văn 2,2 m MPG/ESO
Kính thiên văn 2,2 mét đã hoạt động ở La Silla từ đầu năm 1984 dưới sự đóng góp ngân sách ban đầu của Max-Planck-Gesellschaft (MPG). Sau đó chương trình khai thác sử dụng kính được chia sẻ giữa MPG và ESO, trong khi chịu trách nhiệm duy trì và chi phí hoạt động thuộc về ESO. Các thiết bị gắn với kính bao gồm một phổ kế và camera trường rộng (wide-field CCD imager) có khả năng chụp một phần lớn bầu trời chỉ trong một khoảng thời gian phơi sáng. Năm 2007, một thiết bị thứ ba đã được thêm vào, GROND, cho phép chụp được đồng thời trong 7 màu. Kính thiên văn này được sử dụng để phát hiện các bùng phát tia gamma. Ảnh thu được từ kính cũng được sử dụng trong dự án Euronear. Vào tháng 11/2010, các nhà thiên văn thông báo đã phát hiện ra hành tinh ngoại hệ có nguồn gốc ngoài dải Ngân Hà, HIP 13044 b, nhờ quan sát qua kính 2,2 m MPG/ESO.
Kính thiên văn 3,6 m ESO
Đây là kính thiên văn được thiết kế với mục đích thu được phổ hồng ngoại của các thiên thể. Nó có lắp đặt phổ kế HARPS, the High Accuracy Radial velocity Planet Searcher, một trong những thiết bị dùng để săn tìm các hành tinh ngoại hệ. HARPS dùng để đo vận tốc xuyên tâm của các hành tinh với độ chính xác rất cao, sai số chỉ trong vài cm/s. Nhờ HARPS mà các nhà thiên văn đã phát hiện ra các hành tinh ngoại hệ Gliese 581c và Gliese 581d.
Kính thiên văn công nghệ mới (NTT)
Kính thiên văn công nghệ mới ESO (NTT) là một kính thiên văn đầu tiên sử dụng công nghệ quang học chủ động, đường kính 3,58m với thiết kế của kiểu kính Richey-Chretien. Mặc dù kính thiên văn NTT có đường kính gần với kính thiên văn 3.6 m ESO, nhưng nhờ công nghệ quang học chủ động khiến cho các thiết bị gắn với nó đo đạc được chính xác hơn. Ngày nay, công nghệ quang học chủ động đã được ứng dụng vào hầu hết các kính thiên văn lớn trên thế giới. Ở thời điểm xây dựng kính NTT, mái vòm của kính cũng ứng dụng hệ thống điều khiển nhiệt sáng tạo cho phép giảm thiểu nhiễu loạn ảnh hưởng tới các thiết bị trên kính thiên văn.
Các kính thiên văn khác
Những kính thiên văn khác ở đài quan sát La Silla bao gồm ba kính thiên văn phản xạ ESO, trong đó có hai kính của Đan Mạch, một kính của Hà Lan, chúng có đường kính từ 0,5 m đến 1,5 m. Kính thiên văn Leonard Euler (1,2m) của Thụy Sĩ cũng đặt ở đây. Kính thiên văn vô tuyến dưới milimét SEST đường kính 15 m của Thụy Điển. Tuy vậy các kính Euler và kính thiên văn của Đan Mạch đã ngừng hoạt động.
Paranal
nhỏ|Các kính thiên văn VLT nhỏ|Laser định hướng của VLT nhỏ|Ảnh Panorama 360 độ của bầu trời Nam Bán cầu. Cơ sở chính tại Paranal là Kính thiên văn rất lớn (VLT), cơ sở chủ đạo của các đài quan sát châu Âu mặt đất trong buổi đầu của thiên niên kỷ thứ ba.
Bốn kính thiên văn phụ 1,8-m (ATs) đã được thêm vào VLTI với mục tiêu có thể biến bốn kính VLT thành một kính khổng lồ phục vụ cho các mục đích nghiên cứu. Những kính ATs được lắp đặt từ 2004 đến 2007. Thống kê từ 2007, có khoảng 500 bài báo khoa học đã trích dẫn dữ liệu từ VLT.
Tên gọi của bốn kính thiên văn có ý nghĩa gì?
Vào tháng 3 năm 1999, ở thời điểm khánh thành cơ sở Paranal, bốn tên gọi bằng ngôn ngữ Mapuche (Mapudungun) cho các thiên thể trên bầu trời đã được chọn. Đây là ngôn ngữ của bộ tộc sống ở vùng phía nam sông Bio-Bio, cách Santiago de Chile 500 km về phía nam.
- ANTU (UT1; Mặt Trời)
- KUEYEN (UT2; Mặt Trăng)
- MELIPAL (UT3; Thập tự phương nam)
- YEPUN (UT4; Sao Kim - hay sao mai hoặc sao hôm)
Ban đầu UT4 có tên gọi được dịch là "Sirius", nhưng sau đó "YEPUN" có nghĩa thực sự là "Sao Kim"., theo dõi các ngôi sao di chuyển xung quanh một lỗ đen siêu khối lượng tại trung tâm của Ngân Hà , và quan sát sự phát sáng của [http://www.nasa.gov/mission_pages/swift/bursts/farthest_grb.html vụ bùng phát tia gamma xa nhất từng biết đến].
Tại Paranal cũng đặt kính thiên văn khảo sát 2,5-m (VST) và kính thiên văn VISTA 4-m (Visible and Infrared Survey Telescope for Astronomy) với tầm nhìn trường rộng cho khảo sát đồng thời một vùng bầu trời lớn, dưới bước sóng khả kiến và hồng ngoại. VISTA hoạt động lần đầu vào năm 2009 và đi vào hoạt động hoàn toàn vào tháng 4 năm 2010.
Vào tháng 3 năm 2008, Paranal được chọn làm một số cảnh quay cho bộ phim thứ 22 James Bond, phim [http://www.eso.org/public/news/eso08007/ Quantum of Solace]
Llano de Chajnantor
trái|nhỏ|Kính thiên văn vô tuyến dưới milimét 12 m APEX nhỏ|Ba ăngten ALMA ở Chajnantor nhỏ|Một ăngten ALMA trên đường đến cao nguyên Chajnantor rong lần đầu Đài quan sát Llano de Chajnantor là đài quan sát đặt cao nhất so với mực nước biển, đặt ở cao độ 5.100 m ở cao nguyên Llano de Chajnantor trong sa mạc Atacama, cách San Pedro de Atacama 50 km về phía đông.
Đây là một nơi có không khí rất khô - con người không thể ở đây được - nhưng lại là một nơi tuyệt vời cho thiên văn dưới milimét. Do các phân tử hơi nước trong khí quyển Trái Đất hấp thụ và làm suy hao bức xạ bước sóng dưới milimét cho nên một nơi khô ráo là cần thiết cho thiên văn vô tuyến.
Các kính thiên văn vô tuyến đặt ở đây là:
- Atacama Pathfinder Experiment ([http://www.apex-telescope.org/ APEX])
- Atacama Large Millimeter Array ([http://www.almaobservatory.org/ ALMA])
- Cosmic Background Imager (CBI)
ESO điều hành kính Atacama Pathfinder Experiment, APEX, trong sự hợp tác với Viện thiên văn vô tuyến Max Planck (ở Bonn, Đức) và đài quan sát không gian Onsala (ở Onsala, Thụy Điển). APEX là kính thiên văn vô tuyến dưới milimét có đường kính lớn nhất hoạt động ở Nam Bán cầu. Nó có thể dùng làm kính thử nghiệm cho ALMA, Atacama Large Millimeter Array, một mảng kính thiên văn vô tuyến giao thoa của ESO, cùng với các đối tác khác trên thế giới, hiện tại đang được xây dựng và thử nghiệm ở cao nguyên Chajnantor.
Với thiết bị HARPS, the High Accuracy Radial velocity Planet Searcher, các nhà thiên văn đã khám phá ra không ít hơn bốn hành tinh quay xung quanh một ngôi sao ở gần chúng ta có khối lượng nhỏ hơn cả Sao Thiên Vương (ngôi sao Gliese 581), gồm một hành tinh có khối lượng hai lần khối lượng Trái Đất và một hành tinh có khối lượng gấp bảy lần khối lượng Trái Đất mà nằm ở vùng ở được của ngôi sao. Hành tinh này quay quanh ngôi sao với chu kỳ 66 ngày Trái Đất. Nhiều người nghĩ rằng có thể hành tinh này được bao phủ bởi một đại dương - một thế giới có nước. Kết quả này đánh dấu một kết quả đột phá trong việc tìm kiếm hành tinh có khả năng duy trì sự sống.
Những kính thiên văn khác ở đài quan sát La Silla, sử dụng một kỹ thuật sáng tạo là vi thấu kính hấp dẫn, tham gia vào tìm kiếm hành tinh ngoại hệ trong một mạng lưới toàn cầu các kính thiên văn. Sự hợp tác này đã đem đến kết quả phát hiện ra một hành tinh ngoại hệ có đặc tính khá gần với Trái Đất. Hành tinh này có khối lượng bằng 5 lần khối lượng Trái Đất, quay quanh ngôi sao với chu kỳ 10 năm Trái Đất và có bề mặt gần như là đá hoặc băng.
Xác định tuổi của Vũ trụ
[[Cụm sao cầu 47 Tu.|phải|thumb]] Sử dụng kính VLT, người ta đã thực hiện những đo đạc độc nhất đặt nền tảng cho phép xác định một cách độc lập độ tuổi của Vũ trụ. Lần đầu tiên họ đo lượng đồng vị Uranium-238 phóng xạ trong một ngôi sao được sinh ra trong khi Ngân Hà vẫn còn trong giai đoạn đang hình thành.
Giống như phương pháp xác định niên đại bằng đồng vị cacbon, nhưng đối với khoảng thời gian lớn hơn, 'đồng hồ' Uranium này cho phép đo được tuổi của ngôi sao. Kết quả thu được là ngôi sao có độ tuổi 12,5 tỷ năm. Vì ngôi sao không thể già hơn Vũ trụ được, do đó tuổi của Vũ trụ phải lớn hơn giá trị này. Điều này phù hợp với các đo đạc khác (dựa vào bức xạ nền vũ trụ) và những mô hình vũ trụ học, cho độ tuổi Vũ trụ có giá trị bằng 13,7 tỷ năm. Các sao, và thiên hà của chúng ta phải được hình thành từ rất sớm sau Big Bang..
Lỗ đen tại trung tâm của Ngân Hà
trái|Vùng trung tâm của [[Ngân Hà.]] Cái gì nằm ở trung tâm của Ngân Hà? Trong một thời gian dài, nhiều người cho rằng có một lỗ đen nằm tại tâm của thiên hà chúng ta nhưng không chắc chắn được điều này. Sau 15 năm theo dõi sự di chuyển của các ngôi sao bằng các kính thiên văn ở đài quan sát La Silla Paranal, các nhà khoa học cuối cùng đã thu được chứng cứ cụ thể.
Các sao nằm ở trung tâm Ngân Hà có độ tập trung rất lớn do vậy cần phải có kỹ thuật chụp ảnh đặc biệt như quang học thích nghi để nâng cao độ phân giải của các kính VLT. Các nhà thiên văn đã có thể theo dõi từng ngôi sao với độ chính xác cao khi chúng di chuyển xung quanh trung tâm Ngân Hà Quỹ đạo của chúng cho thấy chúng phải quay quanh một thiên thể có trường hấp dẫn lớn, một lỗ đen siêu khối lượng, với khối lượng khoảng ba triệu lần khối lượng Mặt Trời. Những quan sát từ VLT cũng hé lộ ra những chớp sáng hồng ngoại phát ra từ vùng này với khoảng thời gian đều đặn. Mặc dù nguyên nhân chính xác của hiện tượng này vẫn còn chưa được biết, những nhà quan sát đã đề xuất ra giả thuyết là lỗ đen tại tâm Ngân Hà có thể tự quay với tốc độ lớn. Và cho dù là gì đi nữa, cuộc đời của một lỗ đen không hề yên tĩnh và thanh bình.
Kính thiên văn VLT cũng dùng để thăm dò vào trung tâm của các thiên hà khác, và một lần nữa các nhà thiên văn lại tìm thấy sự có mặt của các lỗ đen siêu khối lượng về quá trình vật chất từ những vùng chính của thiên hà rơi về trung tâm của nó.
Sự bùng phát tia gamma - Một trong những hiện tượng với năng lượng lớn nhất trong Vũ trụ
Sự bùng phát tia gamma (Gamma-Ray Bursts - GRBs) là những sự phát tia gamma năng lượng cao trong thời gian từ vài giây đến một vài phút - hay là một cái chớp mắt trong thang thời gian Vũ trụ. Chúng thường xảy ra ở những khoảng cách lớn từ Trái Đất, ở biên giới của vũ trụ quan sát được.
Kính thiên văn VLT cùng một số đài quan sát trên thế giới đã quan sát thấy ánh sáng muộn của bùng phát tia gamma GRB 090423 có khoảng cách xa nhất từ trước đến nay. Với dịch chuyển đỏ đo được là 8,2 - ánh sáng từ nguồn này mất khoảng 13 tỷ năm để đến được Trái Đất. Do đó nó có thể xảy ra khi Vũ trụ mới chỉ khoảng 600 triệu năm tuổi, hay không nhiều hơn 5% tuổi của Vũ trụ hiện tại. Năng lượng nó giải phóng trong một vài giây gấp khoảng 300 lần năng lượng mà Mặt Trời sẽ phát ra trong toàn bộ thời gian sống của nó, khoảng 10 tỷ năm. GRB do đó là những vụ nổ mạnh nhất trong Vũ trụ từ Big Bang.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng khám phá bản chất của những vụ nổ này trong một thời gian dài. Các quan sát chỉ ra GRB có hai kiểu - thời gian ngắn (ngắn hơn một vài giây), và thời gian dài - từ đó người ta nghi ngờ có hai kiểu sự kiện liên quan đến chúng. Năm 2003, nhờ các kính của ESO các nhà thiên văn đã liên kết những vụ bùng phát tia gamma thời gian dài với những vụ nổ của những sao khối lượng lớn, gọi là 'hypernovae'. Theo dõi vụ nổ này trong vòng một tháng, họ chỉ ra rằng ánh sáng có tính chất tương tự như ánh sáng thoát ra từ một supernova, được phát ra từ một ngôi sao khối lượng lớn nổ tung ở cuối đời của nó. Năm 2005, lần đầu tiên các kính thiên văn của ESO đã thu được ánh sáng khả kiến sau một vụ bùng phát thời gian ngắn. Bằng cách theo dõi ánh sáng này trong ba tuần, các nhà thiên văn chỉ ra rằng những bùng phát thời gian ngắn - không như các bùng phát thời gian dài - có nguồn gốc khác với hypernova. Thay vào đó, người ta cho rằng nó là kết quả của sự sáp nhập các sao neutron hoặc các lỗ đen. Việc quan sát ánh sáng muộn của chớp tia gamma cũng được phối hợp giữa VLT và Atacama Pathfinder Experiment (APEX) để tăng cường khả năng phát hiện và ghi lại dữ liệu ở bước sóng dưới milimét.
Dữ liệu khoa học và Vũ trụ kĩ thuật số
Dữ liệu khoa học
Lưu trữ dữ liệu khoa học.|phải|thumb Nhóm hoạt động lưu trữ khoa học (Science Archive Operation Group) nhận và tái phân phối dữ liệu dữ liệu của ESO và HST và cung cấp hỗ trợ cho người sử dụng các dữ liệu. Khoảng 12 terabytes (TB) dữ liệu công cộng được phân phối trong 1 năm thông qua kho lưu trữ của ESO, tới khoảng 10.000 website yêu cầu dữ liệu. Ngoài ra, hơn 2.000 đĩa CD và DVD dữ liệu độc quyền được gửi đi hàng năm tới những người đứng đầu một dự án nghiên cứu quan sát trong giai đoạn phân tích dữ liệu. Hiện tại tổng dữ liệu lưu trữ khoảng 65 TB, với tốc độ dữ liệu được lưu hàng năm là 15 TB. Con số này sẽ tăng gấp 10 lần khi Kính thiên văn khảo sát hồng ngoại và khả kiến (VISTA) tạo ra khoảng 150 TB mỗi năm.
Vũ trụ kĩ thuật số
Những đột phá trong công nghệ kính thiên văn, máy dò và máy tính cho phép những dự án khảo sát thiên văn tạo ra một lượng lớn các hình ảnh, phổ và catalô. Những mảng dữ liệu này bao trùm toàn bộ bầu trời ở tất cả các bước sóng từ tia gamma, tia X tới bước sóng khả kiến và hồng ngoại, và sóng vô tuyến. Các nhà thiên văn học đang phát triển cách làm việc khoa học mới, bằng cách biến một dữ liệu khoa học khổng lồ trở thành một 'vũ trụ kĩ thuật số' dễ dàng truy nhập được. Những kĩ thuật này sử dụng một mạng lưới tính toán phân tán với khả năng truy nhập dữ liệu đơn giản, trong suốt qua những 'đài quan sát ảo'. Như một đài quan sát thật với những kính thiên văn, mỗi kính trang bị những thiết bị thiên văn, một đài quan sát ảo chứa các dữ liệu trung tâm, được phát triển trên toàn thế giới dưới sự điều hành của Liên minh quốc tế đài quan sát ảo (IVOA) và sự án EURO-VO của châu Âu.
Những đài quan sát ảo đã chứng minh sự hiệu quả nó, như nhờ nó mà người ta đã phát hiện ra 31 quasar bị che khuất, mờ từ dữ liệu của dự án Great Observatories Origins Deep Survey (GOODS), làm số lượng quasar được tìm thấy tăng gấp bốn lần. Sự phát hiện cũng có nghĩa là việc khảo sát các lỗ đen siêu khối lượng cho kết quả số lượng chúng thấp so với thực tế ít nhất hai lần, và có thể số lượng các lỗ đen siêu khối lượng phải gấp bốn hoặc năm lần so với kết quả khảo sát của GOODS.
10 khám phá thiên văn học hàng đầu ở ESO
Top 10 khám phá thiên văn từ ESO.|trái|thumb Hình vẽ mô tả hệ hành tinh [[Gliese 581.|trái|thumb]] Minh họa sự bùng phát tia gamma ở nơi xa nhất trong Vũ trụ|trái|thumb
1. Vũ trụ đang gia tốc
Hai nhóm nghiên cứu độc lập đã chỉ ra rằng sự giãn nở của Vũ trụ đang gia tốc - dựa trên những quan sát những vụ nổ của các ngôi sao (supernova) từ kính thiên văn ở La Silla.
2. Hình ảnh đầu tiên về hành tinh ngoại hệ
Kính VLT đã chụp được hình ảnh đầu tiên về một hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời, với khối lượng bằng 5 lần khối lượng Sao Mộc, nó quay quanh một sao mờ, sao lùn nâu, ở khoảng cách so với sao chính 55 AU.
3. Các sao quanh quay một lỗ đen ở trung tâm Ngân Hà
Một số kính thiên văn mạnh nhất của ESO được sử dụng trong nghiên cứu dài 16 năm để thu được dữ liệu chi tiết về chuyển động của các ngôi sao quay quanh lỗ đen ở tâm Ngân Hà.
4. Liên kết giữa sự bùng phát tia gamma và siêu tân tinh
Kính thiên văn của ESO đã cung cấp chứng cứ chứng minh là những bùng phát tia gamma thời gian dài có liên quan đến vụ nổ của những ngôi sao khối lượng rất lớn, giúp giải quyết được bí ẩn này từ lâu.
6. Sao già nhất được biết đến trong Ngân Hà
Sử dụng kính thiên văn VLT, người ta đã đo được tuổi của những ngôi sao già nhất trong Ngân Hà. Với tuổi 13,2 tỷ năm, những ngôi sao này đã hình thành từ thời kỳ đầu của Vũ trụ.
8. Đo đạc một cách độc lập nhiệt độ của Vũ trụ
Kính VLT cũng lần đầu tiên phát hiện ra các phân tử cacbon mônôxít trong một thiên hà nằm cách xa 11 tỷ năm ánh sáng, một nhiệm vụ săn lùng trong suốt 25 năm. Điều này cho phép các nhà thiên văn đo được một cách chính xác nhiệt độ của Vũ trụ ở kỷ nguyên sơ khai.
9. Đo đạc thiên thể xa nhất
Kính thiên văn rất lớn VLT cũng thu được phổ của thiên thể nằm xa trong Vũ trụ tính tới năm 2009, nó xuất hiện chỉ khoảng 600 triệu năm sau Big Bang.
10. Tìm thấy hành tinh ngoại hệ nhẹ nhất
Phổ kế HARPS đã giúp phát hiện ra một hệ hành tinh chứa một trong những hành tinh ngoại hệ nhẹ nhất - có khối lượng bằng khoảng 2 lần khối lượng Trái Đất - cũng như một hành tinh nằm trong vùng ở được, với khả năng tồn tại một đại dương chất lỏng.
Các hoạt động tiếp cận cộng đồng
Những hoạt động hướng tới cộng đồng được thực hiện ở [http://www.eso.org/public/outreach/department/index.html Phòng công cộng và giáo dục ESO (ePOD)]. Nhiều hoạt động và chương trình đa dạng nhằm đáp ứng những đòi hỏi xác định từ truyền hình, báo chí và truyền thông trực tuyến. ePOD sản xuất các chương trình tiếp cận cộng đồng, như [http://www.eso.org/public/videos/archive/category/esocast/ ESOcast], [http://www.spacetelescope.org/videos/archive/category/hubblecast/ Hubblecast], trang Facebook... ePOD cũng phát hành nhiều tài liệu như thiệp quảng cáo, sách, báo cáo hàng năm, chuyên san định kỳ (Messenger, ST-ECF Newsletter, CAPjournal), áp phích...
Trong quá khứ, một số sự kiện nổi bật có ý tưởng xuất phát từ phòng này, như Năm thiên văn quốc tế 2009 IYA2009 (do IAU và UNESCO tổ chức), VLT First Light, Astronomy On-line, và S-L 9 impact. Cũng như những trại giáo dục như Venus Transit, Science on Stage và Science in School cũng được phòng nêu ra. ePOD cũng tổ chức các buổi triển lãm.
ePOD cũng tụ hội mọi [http://www.eso.org/public/outreach/communication-resources/ nguồn truyền thông thiên văn] về một nơi nhằm mang lại cho những nhà truyền thông những thông tin và công cụ hữu ích.
Có một tập hợp các hình ảnh và video miễn phí có thể tải xuống [http://www.eso.org/public/outreach/products/ tại đây].
ESOcasts – Tạo cảm giác về Vũ trụ
[http://www.eso.org/public/videos/archive/category/esocast/ ESOcast] là một seri các video dùng để quảng bá những nghiên cứu nổi bật từ ESO. Người dẫn chương trình là Doctor J, bí danh của Dr. Joe Liske, một nhà thiên văn người Đức ở ESO. Joe nghiên cứu về vũ trụ học và sự tiến hóa của các thiên hà.
Ảnh trong tuần ESO
Hàng tuần, ESO phát hành một hình ảnh thiên văn chọn lọc, hoặc những hoạt động liên quan đến nó. [http://www.eso.org/public/images/potw/ Mọi thông tin] được đăng tải trên website của ESO.
Hình ảnh
Đây là một trong những hình ảnh từ [http://www.eso.org/public/images/archive/top100/ Top 100 bức ảnh của ESO].