✨Menandros I
Menandros I Soter (; Ménandros A' ho Sōtḗr, "Menandros I Vua cứu độ"; còn được biết đến là Milinda trong tiếng Pali Ấn Độ, có thể được dịch ra tiếng Việt là Mi Lan Đà hay Di Lan Đà) là là vua của vương quốc Ấn-Hy Lạp, trị vì từ khoảng năm 165/ 155, ông đã thiết lập nên một đế chế ở tiểu lục địa Ấn Độ kéo dài từ thung lũng sông ở phía tây đến sông Ravi ở phía đông, và từ thung lũng sông Swat ở miền bắc đến Arachosia (tỉnh Helmand) phía nam. Các sử gia Ấn Độ cổ cho biết rằng, ông đã từng phát động những cuộc viễn chinh về phía nam tới vùng Rajasthan và những vùng xa về phía đông ở thung lũng sông Hằng như thành Pataliputra (Patna). Nhà địa lý người Hy Lạp Strabo viết rằng ông "chinh phục nhiều bộ lạc hơn Alexandros Đại đế." (mặc dù đây có thể chỉ là những bộ lạc nhỏ, và ông đã không xâm chiếm nhiều đất đai)
Số lượng lớn các đồng tiền của Menandros đã được khai quật, chứng nhận cho một giai đoạn hưng thịnh của vương quốc. Menandros cũng là một người bảo trợ của Phật giáo, và cuộc đối thoại của ông với tỳ-kheo Na Tiên được ghi nhận là một trong những tác phẩm Phật giáo quan trọng, bộ Milinda Panha ("Di Lan Đà vấn đạo"). Sau khi ông qua đời năm 130 TCN, ông đã được kế vị bởi vương hậu Agathokleia trên cương vị nhiếp chính cho con trai là Strato I. Truyền thống Phật giáo thuật lại rằng ông bàn giao lại vương quốc của mình cho con trai và lui về sống ẩn dật, tuy nhiên sử gia Plutarchus cho rằng ông đã chết trong doanh trại khi đang tiến hành một chiến dịch quân sự, và hài cốt của ông được chia đều cho các thành phố và được cất giữ trong các lăng mộ, rất có thể là những phù đồ, trên vương quốc của ông.
Sự bất đồng
Giữa các học giả có sự bất đồng đáng kể về triều vua Menandros. Theo Smith thì ông sống vào giữa thế kỷ II trước Công Nguyên. H. C. Raychaudhuri thì đặt ông vào thế kỷ I TCN. Trong cuốn Milinda-panha thì nói rằng Parinibbanato pancavassasate atikkante, có nghĩa là vua Milinda đã xuất hiện 500 năm sau khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt (parinirvana). Do đó, nói ông cai trị vào thế kỉ I TCN có lẽ hợp lý, và điều này cũng được nhiều sự kiện khác nhau hậu thuẫn.]] Menandros là người Ấn Độ gốc Hy Lạp, sinh ra tại làng Kalasia gần miền Alexandria Caucasica (ngày nay là Bagram, Afghanistan). Ngoài ra, cũng có người cho rằng ông là con rể của Demetrios II. Người tiền nhiệm của Menandros tại Punjab dường như là vua Apollodotos I.
Đế chế của Menandros còn tồn tại một cách phân mảnh cho đến khi vua người Hy Lạp cuối cùng là Strato II biến mất vào khoảng năm 10 CN.
Cuốn Periplus biển Erythraei tiếp tục chứng minh cho triều đại của Menandros và ảnh hưởng của Ấn-Hy Lạp ở Ấn Độ:
Menandros là vị vua Ấn-Hy Lạp đầu tiên ban hình đồng tiền mang hình Athena Alkidemos ("Athena, vị cứu tinh của bá tánh"), hình ảnh này có thể tham chiếu đến một bức tượng tương tự của Athena Alkidemos tại Pella, thủ đô xứ Macedonia. Tiền mang phong cách này đều đã được sử dụng bởi hầu hết các vị vua Ấn-Hy Lạp sau đó.
Menandros và Phật giáo
Phật giáo giữ một địa vị rất cao trong quốc độ Ấn-Hy thời Menandros. Bộ sách Mahavamsa của các vua xứ Tích Lan đã đề cập:
Ngoài ra, bộ kinh còn tái hiện cuộc đàm luận giữa nhà vua và Na Tiên, nêu ra đường lối quân sự đúng đắn của ông:
:-Trước đây, đại vương từng là một đại tướng lãnh bách chiến bách thắng, ngài đã từng chỉ huy bốn loại quân binh một cách thiện xảo, thiên tài, ngài đã từng chiến thắng những "trận địa chiến" rất lớn. Bần tăng xin được hỏi là đại vương thường thiết lập, bố trí "trận địa chiến" ấy ra sao? :-Không giấu gì đại đức, chuyện ấy đối với trẫm thì dễ dàng như mặc áo, ăn cơm vậy. Đầu tiên trẫm quan sát các thế núi, sông, rừng, sa mạc, đồng ruộng, thôn làng. Rồi dự định chỗ tấn, chỗ thoái, chỗ lập đồn lũy, chỗ hư binh, chỗ phục binh v.v.. sau đó, lập sa bàn, tập trận giả, rồi tập trận thật trên địa thế núi sông tương tự...; rồi còn chiến thuật, tâm lý... và nhiều lãnh vực chuyên môn khác nữa. :-Chừng đó là bần tăng hiểu rồi, tâu đại vương! Muốn chiến thắng, bách chiến bách thắng, đại vương phải thiết lập vững vàng trận địa, nơi thế đất này, thế núi kia... tất cả đều được chuẩn bị, dự phòng sẵn. Dường thế ấy, từ Giới lập trận thế, từ Giới lập chiến thuật, chiến lược; từ Giới lập sa bàn; từ Giới mà tiêu diệt đối phương... thì mười đội binh ma quân phiền não sẽ cởi giáo quy hàng. Nhờ Giới mà tín sẽ vững chắc không xao động. Nhờ Giới mà tấn không thối thất. Nhờ Giới mà niệm không buông lơi. Nhờ Giới mà định tâm thêm kiên cố. Nhờ Giới mà tuệ càng càng thêm sáng tỏ.
Các đồng tiền của Menandros I
phải|Vua cứu độ Menandros I (khoảng 173-130 TCN) Menanderos đã để lại cho hậu thế một số lượng tiền xu bằng bạc và bằng đồng khổng lồ, nhiều hơn so với bất kỳ vị vua Ấn-Hy Lạp khác. Trong suốt triều đại của ông, các chuẩn mực của tiền Ấn Độ và Hy Lạp đã được hợp nhất và đã đạt đến đỉnh cao. Bộ sưu tập cổ vật của Mir Zakah gồm 521 đồng tiền dưới triều Menandros đã được công bố gần đây cho thấy nội thương phát triển thịnh vượng trong triều đại lâu dài của Menandros.
Tuy nhiên, theo sử gia Hy Lạp Plutarchus thì Menandros qua đời ở một lều nhỏ trên chiến trường, trong một cuộc viễn chinh tái chiếm Bactria bất thành vào khoảng năm 130 TCN. Plutarch xem ông là hình mẫu về một quốc vương được lòng thần dân, khác với tên bạo chúa đáng ghét Dionysius. Cụ thể hơn, Plutarchus (Praec. reip. ger. 28, 6) đã viết về vua Menandros như sau:
Sau khi vua Menandros qua đời, vương quốc của ông bị đã bị phân chia thành nhiều tiểu quốc.