✨Người Ấn-Scythia

Người Ấn-Scythia

Người Ấn-Scythia là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ 2 TCN đến thế kỷ 4.

Đã có những tuyên bố rằng các nhà sử học cổ đại bao gồm Arrian và Ptolemy đã đề cập đến người Saka cổ đại ("Sakai") về cơ bản là những người du mục Tuy nhiên, Italo Ronca, trong nghiên cứu chi tiết của ông về chương VI của Ptolemy, đã chỉ ra các tuyên bố: "vùng đất của Sakai thuộc về những người du mục, họ không có các thị trấn nhưng ở trong rừng và hang động" là sự giả mạo

Vua Saka đầu tiên ở Ấn Độ là Maues (Moga), người xây dựng nên quyền lực của người Saka ở Gandhara và dần dần mở rộng uy quyền tối cao khắp phía tây bắc Ấn Độ. Sự thống trị của người Ấn-Scythia ở Ấn Độ đi tới hồi kết với vị Phó vương Miền Tây cuối cùng Rudrasimha III vào năm 395.

Cuộc xâm lược Ấn Độ của các bộ lạc Scythia từ Trung Á, thường được gọi là cuộc xâm lược của người Ấn-Scythia, đóng một phần quan trọng trong lịch sử của Nam Á cũng như các nước lân cận. Trong thực tế, cuộc chiến tranh của người Ấn-Scythia chỉ là một chương trong các sự kiện gây ra bởi các cuộc di cư từ Trung Á của các bộ lạc du mục do cuộc xung đột với các bộ lạc khác như Hung Nô ở thế kỷ 2, và đã có ảnh hưởng lâu dài đến Bactria, Kabul, Parthia và Ấn Độ là cũng như Roma xa xôi ở phía tây.

Nguồn gốc

Một người Scythia cưỡi ngựa trong khu vực bị người Nguyệt Chi xâm chiếm, [[Pazyryk, khoảng năm 300 TCN]] Tài sản trong lăng mộ vua chúa tại [[Tillia tepe được cho là của người Saka thế kỷ 1 tại Bactria.]]

Tổ tiên của người Ấn-Scythia được cho là những bộ lạc người Saka (Scythia).

"Một nhóm những người nói ngôn ngữ Ấn-Âu, đã xuất hiện sớm trong khu vực Tân Cương là người Saka (Ch. Sai) Saka là một thuật ngữ chung chung hơn một cái tên cho một nhà nước cụ thể hoặc một nhóm dân tộc; những bộ lạc Saka là một phần của một nền văn hóa của những người du mục vượt qua Xibia và vùng đất thảo nguyên Trung Á-Âu từ Tân Cương đến biển Đen. Người Scythia mà Herodotus mô tả trong cuốn bốn tác phẩm Lịch sử của ông (Saka là một từ Iran tương đương với từ Scythos trong tiếng Hy Lạp, và nhiều học giả quy cho họ lại với nhau như là người Saka-Scythia), Sakas là những người du mục cưỡi ngựa nói tiếng Iran đã triển khai chiến xa trong trận chiến, hiến tế ngựa, và chôn cất người chết trong các gò mộ hay những ngôi mộ gò đất được gọi là kurgan "
.

Sự bành trướng của người Nguyệt Chi

Trong thế kỷ 2 TCN, một trào lưu di cư mới đã bắt đầu trong số các bộ lạc ở Trung Á, đã gây ra ảnh hưởng lâu dài về mặt lịch sử đối với Roma ở châu Âu và Bactria, Kabul, Parthia và Ấn Độ ở phía đông. Nó được ghi lại trong biên niên sử của nhà Hán và các ghi chép khác của Trung Quốc, trào lưu đại di cư của các bộ lạc bắt đầu sau khi các bộ lạc Nguyệt Chi bị người Hung Nô đánh bại, họ chạy trốn về phía tây sau thất bại này và tạo ra một hiệu ứng dây chuyền khi họ xua đuổi các bộ tộc Trung Á khác trên đường đi của mình.

Văn học Ấn Độ đã sớm ghi chép lại liên minh quân sự giữa người Saka, Kamboja, Pahlava và Parada. Truyền thuyết Purana cổ xưa đã đề cập đến một vài cuộc đồng xâm lược Ấn Độ bởi người Scythia. Cuộc xung đột giữa Bahu-Sagara của Ấn Độ và Haihaya-Kamboja-Saka-Pahlava-Parada cũng được gọi là cuộc chiến tranh chống lại "năm bộ lạc du mục" (Panca-ganha). Người Saka, Yavana, Tushara và Kamboja cũng tham chiến trong cuộc chiến tranh Kurukshetra dưới sự chỉ huy của Sudakshina Kamboja. Trong tác phẩm Valmiki Ramayana cũng chứng thực rằng người Saka, Kamboja, Pahlava và Yavana đã cùng chiến đấu với nhau chống lại vua Hindu Vishwamitra của Kanauj

Vào khoảng năm 177 TCN, Mặc Đốn đã chỉ huy người Hung Nô đánh vào lãnh thổ của người Nguyệt Chi tại khu vực Cam Túc và đã giành được thắng lợi quan trọng. Mặc Đốn khoe khoang trong một bức thư gửi cho hoàng đế nhà Hán rằng, do "sự tuyệt vời của các chiến binh, và sức mạnh của bầy ngựa của mình, ông đã giành thắng lợi trong việc tiêu diệt người Nguyệt Chi, tàn sát hoặc ép phục tùng toàn bộ bộ lạc này".

Theo các sử liệu Trung Quốc, một phần lớn người Nguyệt Chi vì thế đã nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô, và họ có thể là tổ tiên của những người nói tiếng Tochari đã được chứng thực vào thế kỷ 6. Một nhóm rất nhỏ người Nguyệt Chi chạy về phía nam tới lãnh thổ của người Khương, và được người Trung Quốc biết đến như là "Tiểu Nguyệt Chi". Theo Hán thư, họ chỉ có khoảng 150 gia đình.

Cuối cùng, một nhóm lớn người Nguyệt Chi đã chạy khỏi khu vực lòng chảo Tarim/Cam Túc về phía tây bắc, đầu tiên định cư tại thung lũng Ili, ngay phía bắc dãy núi Thiên Sơn, tại đó họ phải đương đầu và đánh bại người Sai/Tắc (người Saka hay người Scythia): "Người Nguyệt Chi tấn công vua của người Tắc, kẻ đã di chuyển một khoảng cách đáng kể về phía nam và người Nguyệt Chi sau đó đã chiếm đất của ông ta" (Hán Thư 61 4B). Người Sai cũng phải di cư, và họ đã tới Kashmir, sau khi vượt qua "chỗ vượt lơ lửng" (có lẽ là đèo Khunjerab giữa Tân Cương và miền bắc Pakistan ngày nay).

Sau năm 155 TCN, người Ô Tôn, liên kết với người Hung Nô và để trả thù cho các mâu thuẫn trước đây, đã xua đuổi người Nguyệt Chi và ép họ phải chạy về phía nam. Người Nguyệt Chi đã vượt qua khu vực văn minh đô thị láng giềng là Đại Uyên tại Ferghana, và định cư trên bờ phía bắc của sông Oxus, trong khu vực của Transoxiana, ngày nay thuộc Tajikistan và Uzbekistan, chỉ ngay phía bắc của Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Thành phố Alexandria trên sông Oxus của người Hy Lạp dường như đã bị người Nguyệt Chi đốt cháy hoàn toàn vào khoảng năm 145 TCN.

Ở Parthia, khoảng những năm 138-124 TCN, các bộ lạc Massagetae và Sacaraucae đã tham gia vào cuộc xung đột với đế chế Parthia, chiến thắng nhiều trận, và giết chết liền hai vị vua Phraates II và Artabanus I.

Vua Parthia, Mithridates II cuối cùng đã tái khôi phục lại sự kiểm soát Trung Á, đầu tiên là đánh bại người Nguyệt Chi ở Sogdiana trong năm 115 TCN, và sau đó đánh bại người Scythia ở Parthia và Seistan khoảng năm 100 TCN.

Sau thất bại của họ, các bộ lạc Nguyệt Chi di cư vào Bactria, nơi mà họ kiểm soát nhiều thế kỷ sau, và từ đó, sau đó họ chinh phục miền bắc Ấn Độ để thành lập Vương quốc Quý Sương.

Định cư ở Sakastan

nhỏ|Bản đồ [[Sakastan khoảng năm 100 TCN.]] Người Saka đã định cư tại các khu vực ở phía đông Iran, mà vẫn được gọi cho tới sau này là Sistan. Từ đó, họ dần dần mở rộng vào tiểu lục địa Ấn Độ, nơi đó họ đã thiết lập một loạt các vương quốc khác nhau, và là nơi họ được gọi là người "Ấn-Scythia".

Hoàng đế nhà Arsaces, Mithridates II (khoảng 123-88/87 TCN) đã được ghi nhận nhiều thành công chống lại người Scythia và thêm nhiều tỉnh vào đế chế Parthia, và dường như nhóm dân du mục Scythia đến từ Bactria cũng đã bị chinh phục bởi ông ta. Một phần của những người này đã di chuyển từ Bactria tới hồ Helmond trong náo động từ áp lực của người Nguyệt Chi và định cư tại Drangiana (Sigal), một khu vực mà sau này được gọi là "Sakistana của người Sakai (Scythia) Skythian", vào khoảng cuối thế kỷ 1 TCN. Khu vực này vẫn còn được gọi là Seistan.

Sakistan hoặc Seistan Drangiana có thể không chỉ là vùng đất sinh sống của một mình dân Saka nhưng cũng có thể có cả người Pahlava và Kamboja Sắc lệnh trên đá của vua Ashoka chỉ đề cập tới người Yavana, Kamboja và Gandhara ở phía tây bắc, nhưng không có gì đề cập đến người Saka, những người di cư tới khu vực này hơn một thế kỷ sau đó.

Sự hiện diện của người Saka ở Sakastan trong thế kỷ 1 TCN đã được đề cập bởi Isidore của Charax trong tác phẩm "những trạm của người Parthia" của ông. Ông giải thích rằng họ đã có biên giới vào thời điểm đó với các thành phố Hy Lạp ở phía đông (Alexandria của Caucasus và Alexandria của Arachosia) và người Parthia kiểm soát vùng đất Arachosia ở phía nam:

:"Ở phía ngoài kia là Sacastana của người Sacae-Scythia, mà cũng là Paraetacena, 63 schoeni. Thành phố Barda và thành phố Min và thành phố Palacenti và thành phố Sigal, ở nơi đó là nơi cư ngụ của hoàng gia Sacae; và gần đó là thành phố Alexandria (Alexandria của Arachosia), và sáu ngôi làng". Những trạm của người Parthia, 18.

Những vương quốc Ấn-Scythia

Từ Abhira tới Surastrene

Châu Á khoảng năm 1, chỉ ra vương quốc Ấn-Scythia và các nước láng giềng. Vương quốc Ấn-Scythia đầu tiên trong tiểu lục địa Ấn Độ đã chiếm phần phía nam của Pakistan ngày nay (nơi mà họ đã tiến đến từ miền nam Afghanistan), trong vùng đất từ Abiria (Sindh) tới Surastrene (Gujarat), từ khoảng năm 110 đến năm 80 TCN. Họ dần dần tiếp tục di chuyển về phía bắc vào vùng đất của người Ấn-Hy Lạp cho đến những cuộc chinh phục của Maues, khoảng năm 80 TCN.

Người Ấn-Scythia cuối cùng đã thành lập một vương quốc ở phía tây bắc, có căn cứ tại Taxila, với hai đại phó vương, một ở Mathura ở phía đông, và một ở Surastrene (Gujarat) ở phía tây nam.

Ở phía đông nam, người Ấn-Scythia xâm lược khu vực Ujjain, nhưng sau đó bị đẩy lùi vào năm 57 trước Công Nguyên bởi vua Malwa Vikramaditya. Để kỷ niệm sự kiện này, Vikramaditya đã thiết lập kỷ nguyên Vikrama, một loại lịch Ấn Độ đặc biệt, cụ thể bắt đầu từ năm 57 TCN. Hơn một thế kỷ sau đó, vào năm 78, người Saka một lần nữa lại xâm chiếm Ujjain và thiết lập kỷ nguyên Saka, đánh dấu bước khởi đầu sự tồn tại lâu dài của tiểu quốc của người Saka, Phó vương Miền Tây.

Gandhara và Punjab

Một đồng tiền xu của vua Ấn-Scythia [[Azes I.]] Sự hiện diện của người Scythia ở tây bắc Ấn Độ trong thế kỷ 1 TCN cùng thời với các vương quốc Ấn-Hy Lạp ở đó, và có vẻ như ban đầu họ đã công nhận quyền lực của nhà vua Hy Lạp địa phương.

Maues đầu tiên chinh phục Gandhara và Taxila khoảng năm 80 TCN, nhưng vương quốc của ông tan rã sau khi ông chết. Ở phía đông, vị vua Ấn Độ Vikrama tái chiếm lại Ujjain từ tay người Ấn-Scythia, kỉ niệm chiến thắng của mình bằng cách sáng tạo ra kỷ nguyên Vikrama (bắt đầu từ năm 58 TCN). Các vị vua Ấn-Hy Lạp tiếp tục cai trị một lần nữa sau thời Maues, và thịnh vượng, như được chỉ ra bởi sự phong phú từ các đồng tiền của vua Apollodotos II và Hippostratos. Không lâu sau đến thời Azes I, khoảng năm 55 TCN, người Ấn-Scythia cuối cùng đã kiểm soát khu vực Tây Bắc Ấn Độ, với chiến thắng của ông trước Hippostratos.

Nghệ thuật điêu khắc

Một số tác phẩm điêu khắc đá đã được tìm thấy trong lớp địa tầng Saka sớm (lớp địa tầng số 4, tương ứng với triều đại của Azes I, trong đó rất nhiều tiền xu sau này đã được tìm thấy) trong đống đổ nát của Sirkap, trong suốt cuộc khai quật được tổ chức bởi John Marshall.

Khu vực Mathura (Các phó vương miền bắc)

nhỏ|[[Đầu cột sư tử Mathura là một vật kỷ niệm quan trọng của người Ấn-Scythia dâng hiến cho Phật giáo (Bảo tàng Anh).]] Ở miền trung Ấn Độ, người Ấn-Scythia đã chinh phục khu vực Mathura từ các vị vua Ấn Độ khoảng năm 60 trước Công Nguyên. Một số phó vương của họ là Hagamasha và Hagana, những người đã lần lượt tiếp theo được kế tục bởi Đại Phó Vương Saca Rajuvula.

Rajuvula dường như đã lật đổ vị vua cuối cùng của người Ấn-Hy Lạp là vua Strato II vào khoảng năm 10, và chiếm kinh đô của ông ta là Sagala.

Tiền đúc của thời kỳ này, chẳng hạn như của Rajuvula, có xu hướng trở nên rất thô và theo phong cách lai căng. Nó cũng mất đi rất nhiều giá trị, lượng bạc ngày càng ít dần hơn.

Chữ khắc trên đầu cột sư tử Mathura cũng chứng thực rằng Mathura đã nằm dưới sự kiểm soát của người Saka. Các chữ khắc cũng chứa những thông tin về Kharaosta Kamuio và Aiyasi Kamuia. Yuvaraja Kharostes (Kshatrapa) là con trai của Arta, cũng được chứng thực bởi các đồng tiền riêng của mình. Arta được tuyên bố là em trai của vua Moga hoặc Maues. Công chúa Aiyasi Kambojaka, cũng gọi là Kambojika, là chính cung hoàng hậu của Shaka Mahakshatrapa Rajuvula. Sự hiện diện của người Kamboja ở Mathura cũng được xác nhận từ một số câu thơ của sử thi Mahabharata được cho là đã được sáng tác vào khoảng thời gian này. Điều này có thể cho thấy giả thuyết rằng người Saka và Kamboja có thể đã cùng nhau cai trị Mathura/Uttara Pradesh.

Các phó vương Ấn-Scythia ở Mathura đôi khi được gọi là "các phó vương phía Bắc", đối lập với "các phó vương phía Tây" ở Gujarat và Malwa. Sau thời Rajuvula, những người kế tục ông một số được biết là đã cai trị như là chư hầu của người Quý Sương, chẳng hạn như " Đại Phó vương" Kharapallana và "phó vương" Vanaspara, những người được biết đến từ một câu khắc được phát hiện ở Sarnath có niên đại vào năm thứ ba của Kanishka (khoảng 130 CN), trong đó họ được ban thưởng vì lòng trung thành với người Quý Sương

Pataliputra

Tiền xu bằng bạc của [[Vijayamitra nhân danh Azes. Biểu tượng triratna của Phật giáo ở mé trái mặt sau.|right]] Các đoạn văn của Purana Yuga đã mô tả một cuộc xâm lược Pataliputra của người Scythia đôi khi trong thế kỷ 1 TCN, sau khi bảy vị vua vĩ đại đã cai trị liên tiếp ở Saketa sau sự rút lui của người Yavana. Purana Yuga giảng giải rằng vị vua của người Saka này đã giết chết 1/4 dân số, trước khi chính bản thân ông ta bị giết bởi vua Kalinga Shata và một nhóm người Sabala (Sabara hoặc Bhilla)

Những cuộc chinh phạt của người Quý Sương và Ấn-Parthia

Sau khi Azes I qua đời, sự cai trị của người Ấn-Scythia ở tây bắc Ấn Độ đã bị tan rã với sự nổi lên của vị vua Ấn-Parthia Gondophares, trong những năm cuối của thế kỷ 1 TCN.

Trong nửa sau thế kỷ 1, địa vị bá chủ của người Ấn-Parthia đã dần dần bị thay thế bởi người Quý Sương, một trong năm bộ tộc Nguyệt Chi đã sống ở Bactria trong hơn một thế kỷ, và bây giờ họ đã bành trướng mở rộng vào Ấn Độ tạo ra đế quốc Quý Sương. Người Quý Sương cuối cùng đã lưu lại Tây Bắc Ấn Độ từ khoảng năm 75 SCN, và khu vực Mathura từ khoảng năm 100 SCN, tại nơi đây họ đã phát triển thịnh vượng trong nhiều thế kỷ.

Các phó vương phía Tây

Người Ấn-Scythia tiếp tục giữ được vùng Seistan cho đến tận triều đại của Bahram II (276-293), và cũng đã giữ được một số khu vực của Ấn Độ vào thế kỷ 1: Kathiawar và Gujarat dưới sự cai trị của họ cho đến thế kỷ 5 dưới tên gọi là các phó vương phía Tây, cho đến khi họ bị chinh phục bởi hoàng đế Gupta Chandragupta II (còn gọi là Vikramaditya).

Tiền đúc của người Ấn-Scythia

thumb|Đồng tetradrachm bạc của vua Ấn-Scythia [[Maues (85–60 TCN).]] Tiền đúc của người Ấn-Scythia nói chung là có chất lượng nghệ thuật cao, mặc dù nó bị suy giảm một cách rõ ràng cùng với việc sự thống trị của người sự-Scythia sụp đổ vào khoảng năm 20 (đồng tiền của Rajuvula).

Tiền đúc của người Ấn-Scythia nói chung là khá thực tế, với sự khéo léo nghệ thuật giữa tiền xu của người Ấn-Hy Lạp và Quý Sương. Người ta thường cho rằng tiền đúc Ấn-Scythia được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của chuyên gia đúc tiền Hy Lạp (Boppearachchi).

Đồng tiền Ấn-Scythia về cơ bản tiếp tục truyền thống của người Ấn-Hy Lạp, bằng cách sử dụng ngôn ngữ Hy Lạp trên mặt trước và ngôn ngữ Kharoshthi ở mặt sau. Tuy nhiên, chân dung của nhà vua không bao giờ thể hiện và được thay thế bằng những mô tả của nhà vua trên ngựa (và đôi khi là lạc đà), hoặc đôi khi ngồi bắt chéo chân trên một tấm nệm. Mặt trái của đồng tiền của họ thường xuất hiện các vị thần Hy Lạp.

Biểu tượng Phật giáo có mặt khắp các tiền đúc Ấn-Scythia. Đặc biệt, họ chấp nhận các thông lệ của người Ấn-Hy Lạp kể từ khi Menandros I sử dụng biểu tượng các vị thần thủ ấn với bàn tay phải của họ (như đối với hình tượng Zeus thủ ấn trên các đồng tiền của Maues hoặc Azes II), hoặc sự hiện diện hình con sư tử của Phật giáo trên các đồng tiền của cùng hai vị vua, hoặc biểu tượng tam bảo trên các đồng tiền của Zeionises.

Miêu tả về người Ấn-Scythia

thumb|[[Azilises cưỡi ngựa và mặc áo chẽn.]] Bên cạnh tiền xu, một vài tác phẩm nghệ thuật cũng được biết như là minh chứng rõ ràng về người Ấn-Scythia. Các vị vua Ấn-Scythia thường được mô tả trên lưng ngựa và mặc áo giáp, nhưng trên các đồng tiền của Azilises cho thấy rằng nhà vua mặc trang phục một cách đơn giản, không trang hoàng mà mặc áo chẽn.

Một số tác phẩm điêu khắc Gandhara cũng cho thấy những người ngoại quốc này trong trang phục áo chẽn mềm mại, đôi khi đội chiếc mũ Scythia điển hình. Đối lập với họ, những người Quý Sương dường như ăn mặc dày, thô cứng hơn, với nhiều áo chẽn và những người này thường được thể hiện một cách đơn giản hơn nhiều.

Trụ ngạch Buner

Binh sĩ Ấn-Scythia trong trang phục quân sự đôi khi lại hiện diện trên những trụ gạch Phật giáo trong nghệ thuật Gandhara (đặc biệt là ở các bức phù điêu Buner). Họ được mô tả trong những bộ áo chẽn phong phú với quần dài, và có thanh kiếm dài nặng làm vũ khí. Họ đội một chiếc mũ trùm nhọn (mũ Scythia hoặc bashlyk), mà giúp phân biệt họ với người Ấn-Parthia vốn chỉ dùng một dải lụa đơn giản cho mái tóc rậm rạp của mình, đó cũng là kiểu mẫu được các vị vua Ấn-Scythia đội ở trên đồng tiền của họ. Với bàn tay phải, một số trong số họ đang tạo thành kết ấn chống lại linh hồn ma quỷ. Ở Gandhara, những trụ gạch như vậy được sử dụng để trang trí trên bệ tháp của Phật giáo. Chúng cùng thời với những trụ gạch khác mà trên đó có sự hiện diện của những người trong trang phục hoàn toàn Hy Lạp, ám chỉ một sự hòa hợp giữa người Ấn-Scythia (nắm giữ quyền lực quân sự) và người Ấn-Hy Lạp (chiếm thiểu số, nằm dưới sự cai trị của người Ấn-Scythia).

Những phù điêu khác còn được biết tới với cùng kiểu binh sĩ đang chơi nhạc cụ và nhảy múa, ngoài ra người Ấn-Scythia còn được thể hiện rộng rãi ở những nơi khác trong nghệ thuật Gandhara với hình ảnh họ đang say sưa chè chén.

File:IndoScythiansDyonisos.jpg|Người Ấn-Scythia đẩy xe thần Hy Lạp Dyonisos với Ariadne File:SoldiersBattllingAnimals.jpg|Cảnh săn băn. File:SoldiersBattllingAnimals2.jpg|Cảnh săn băn. File:SoldiersBattllingAnimals5.jpg|Cảnh săn băn.

Bảng đá

Nhiều bảng đá được tìm thấy ở Gandhara và được coi là minh chứng tuyệt vời của nghệ thuật Ấn-Scythia. Những tấm bảng đá này kết hợp ảnh hưởng của cả Hy Lạp và Iran, và thường được thể hiện một cách đơn giản, theo phong cách cổ xưa. Những tấm bảng đá này chỉ được tìm thấy trong các lớp khảo cổ học tương ứng với thời kì cai trị của người Ấn-Hy Lạp, Ấn-Scythia và Ấn-Parthia, và về cơ bản nó không hề xuất hiện trong thời kì Maurya trước đó hoặc thời kì Quý Sương sau này.

Những người được mô tả trên các tấm bảng đá này thường mặc sắc phục và bối cảnh thần thoại Hy Lạp, một vài trong số đó mặc sắc phục Parthia (với dải băng đầu trên mái tóc rậm rạp, đồ trang sức, thắt lưng, quần rộng), và thậm chí ít hơn là trong sắc phục Ấn-Scythia (mũ Phrygian, áo dài và quần dài tương đối thẳng). Một tấm bảng đá được tìm thấy ở Sirkap và hiện nay đang nằm tại bảo tàng New Delhi cho thấy một kỵ sĩ Ấn-Scythia đang cưỡi một con hươu có cánh, và đang bị tấn công bởi một con sư tử.

Người Ấn-Scythia và Phật giáo

Người Ấn-Scythia dường như là những tín đồ Phật giáo, và rất nhiều thông lệ của họ dường như vẫn giống như của những người Ấn-Hy Lạp. Họ được biết đến với lòng nhiệt thành Phật giáo của mình, vốn được ghi nhận thông qua các tài liệu chữ cổ như các chữ khắc trên tấm đồng Taxila hoặc các dòng chữ khắc trên đầu cột sư tử Mathura.

Bảo tháp Butkara

left|thumb|[[Buddhist stupas during the late Indo-Greek/Indo-Scythian period were highly decorated structures with columns, flights of stairs, and decorative Acanthus leaf friezes. Butkara stupa, Swat, 1st century BC.]] thumb|Possible Scythian devotee couple (extreme left and right, often described as "Scytho-Parthian"), around the Buddha, [[Brahma và Indra.]] Quá trình khai quật bảo tháp Butkara ở Swat bởi một nhóm khảo cổ học người Ý đã giúp phát hiện được nhiều tác phẩm điêu khắc Phật giáo khác nhau và được cho là thuộc về thời kỳ Ấn-Scythia. Trong đó, một đầu cột Ấn-Corinthian miêu tả hình tượng một tín đồ Phật giáo và các trang trí hoa lá đã được tìm thấy cùng với một vật chứa xá lợi và các đồng tiền xu của Azes được chôn cất cùng với nó, công trình này có niên đại một cách chắc chắn là vào khoảng năm 20 trước Công nguyên. Một trụ bổ tường cùng thời với hình ảnh những tín đồ Phật giáo trong trang phục Hy Lạp đã được tìm thấy tại cùng nơi này, cho thấy sự hòa trộn giữa hai dân tộc. Nhiều phù điêu khác nhau tại cùng nơi cho thấy người Ấn-Scythia với áo chẽn đặc trưng và mũ trùm đầu nhọn trong khung cảnh Phật giáo, và bên cạnh những phù điêu Đức Phật đứng.

Nghệ thuật điêu khắc Gandhara

Trong các bức phù điêu khác được tìm thấy, những người đàn ông Ấn-Scythia được khắc họa với mũ nhọn của họ và đang đẩy một chiếc xe mà trên đó vị thần Hy Lạp Dionysos đang nằm ngả người cùng với người vợ của mình,Ariadne.

Đầu cột sư tử Mathura

Trên đầu cột sư tử Mathura có nhắc tới rất nhiều các vị vua người Ấn-Scythia từ Maues tới Rajuvula, nó đã đề cập đến sự dâng tặng một xá lợi của Đức Phật trong một bảo tháp. Nó cũng còn mang theo biểu tượng tam bảo của phật giáo nằm ở chính giữa, và cũng có thể được lấp đầy bằng những Bà Ca Vãn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và những cụm từ đặc trưng của Phật giáo như:

:"sarvabudhana puya dhamasa puya saghasa puya" :"Tôn kính tất cả chư Phật, tôn kính Phật pháp, tôn kính Tăng đoàn" :(Đầu cột sư tử Mathura, dòng chữ O1 / O2)

File:PilarImage4.jpg|Đầu cột Ấn-Corinthian từ Bảo tháp Butkara, có niên đại vào năm 20 TCN, dưới triều đại của Azes II. Bảo tàng nghệ thuật cổ đại thành phố Turin. File:DancingIndoScythians.jpg|Những người Ấn-Scythia đang nhảy múa(trên đỉnh) và cảnh săn bắn (phần dưới). Phù điêu Phật giáo từ Swat, Gandhara. File:ButkaraDoorJamb.jpg|Butkara doorjamb, with Indo-Scythians dancing and reveling. On the back side is a relief of a standing Buddha ## Người Ấn-Scythia trong các tác phẩm phương Tây Sự hiện diện lãnh thổ của người Scythia trong khu vực Pakistan, và đặc biệt là xung quanh cửa sông Ấn gần thành phố Karachi ngày nay được đề cập rộng rãi trong các bản đồ phương Tây và trong các cẩm nang du hành của thời kỳ này. Bản đồ thế giới của Ptolemy, cũng như tác phẩm Periplus của biển Erythraean đã đề cập một cách đáng chú ý đến người Scythia trong khu vực Indus, cũng như trong Tabula Peutingeriana của La Mã. Trong Periplus ghi lại rằng Minnagara là kinh đô của người Scythia, và vua Parthia đang tiến đánh thành phố này vào thế kỷ 1 SCN. Nó cũng phân biệt Scythia với Ariaca xa hơn về phía đông (trung tâm là ở Gujarat và Malwa), mà nằm dưới sự cai trị của vị phó vương miền Tây Nahapana. ## Người Ấn-Scythia trong thơ ca Ấn Độ Người Ấn-Scythia được gọi tên là "Shaka" ở Ấn Độ, một biến thể của tên gọi Saka được người Ba Tư dùng để chỉ người Scythia. Người Shakas đã được nhiều lần đề cập đến trong các tác phẩm như Puranas, Manusmriti, Ramayana, Mahabharata, Mahabhasiya của Patanjali, Brhat Samhita của Vraha Mihira, Kavyamimamsa, Brihat-Katha-Manjari, Katha-Saritsagara và một số tác phẩm cũ khác. Họ được mô tả như là một phần của tập hợp các bộ lạc hiếu chiến tới từ phía tây bắc. ## Bộ lạc Sai-Wang người Scythia của Chipi thumb|Coin of Azes, with king seated, holding a drawn sword and a whip. Một bộ phận của những người Scythia Trung Á (dưới sự lãnh đạo của Sai-Wang) được cho là đã tiến về hướng phía nam và sau khi vượt qua dãy Pamir, họ đã tiến vào Chipin hoặc Kipin và sau khi vượt qua Hasuna-tu nằm trên khu vực thung lũng Kanda thuộc vùng đất Swat. Chipin đã được xác định bởi Pelliot, Bagchi, Raychaudhury và một số người khác là khu vực Kashmir trong khi các học giả khác xác định nó là Kapisha (Kafirstan). Người Sai-Wang đã thành lập vương quốc của mình ở Kipin. S. Konow dịch Sai-Wang như là Saka Murunda trong văn học Ấn Độ, Murunda tương ứng với Wang tức là vua, chủ nhân hoặc lãnh chúa, nhưng Bagchi lại dẫn dắt ra rằng Wang mang ý nghĩa là vua Scythia nhưng ông lại phân biệt Sai Sakas với Murunda Sakas. Có nhiều lý do để tin rằng người Sai Scythia là người Scythia Kamboja và do đó Sai-Wang thuộc về người _Kamboja Scythia_ (tức là Parama-Kambojas) của khu vực Transoxiana và quay trở lại để định cư cùng thần dân của mình sau khi bị đuổi khỏi quê cha đất tổ của ông ta nằm ở _Scythia_ hoặc _Shakadvipa_. Vua Moga hoặc Maues có thể thuộc về nhóm người Scythia này, họ đã di cư từ vùng đất _Sai_ (Trung Á) tới Chipin. Các chữ khắc trên đầu cột sư tử Mathura chứng thực rằng các thành viên trong gia đình của vua Moga có tên họ là Kamuia hoặc Kamuio (qv) mà theo ngôn ngữ Khroshthi là Kamboja hoặc Kambojaka. Như vậy, Sai-Wang và bộ lạc du mục của ông ta mà đã đến định cư ở thung lũng Kabol trong _Kapisha_ có thể thực sự đến từ người Parama Kambojas Tranxonia sống ở _Shakadvipa_ hoặc vùng đất Scythia.

Nhiều học giả cho rằng người Kamboja là một hoàng tộc của người Saka hoặc người Scythia. Điều này dường như cũng được chứng thực trên đầu cột sư tử Mathura của Mahaksatrapa Rajuvula và sắc lệnh thứ V và XIII của vua Asoka. or Aspavarma (AD 15 - 45)

  • Sasan

Pāratas (Balochistan, Pakistan)

thumb|Bi-[[drachm của Parataraja Bhimajhunasa.
Obv: Robed bust of Bhimajhunasa left, wearing tiara-shaped diadem.
Rev: Swastika with legend around.
1.70g. Senior (Indo-Scythian) 286.1]]

  • Yolamira, con trai của Bagareva (khoảng năm 125–150)
  • Bagamira, con trai của Yolamira (khoảng 150)
  • Ajuna, con trai thứ hai của Yolamira (khoảng năm 150–160)
  • Hvaramira, con trai thứ ba của Yolamira (khoảng năm 160–175)
  • Mirahvara, con trai của Hvaramira (khoảng năm 175–185)
  • Miratakhma, một người con khác của Hvaramira (khoảng năm 185–200)
  • Kozana, con trai của Bagavharna (và có lẽ là cháu nội của Bagamira?) (khoảng năm 200–220)
  • Bhimajuna, con trai của Yolatakhma (và có lẽ là cháu nội của Ajuna?) (khoảng năm 220–235)
  • Koziya, con trai của Kozana (khoảng năm 235–265)
  • Datarvharna, con trai của Datayola I (có thể là cháu nội của Bhimajuna) (khoảng năm 265–280)
  • Datayola II, con trai của Datarvharna (khoảng năm 280–300)

"Phó vương Miền Bắc" (Vùng đất Mathura)

  • Hagamasha (phó vương, thế kỷ 1 TCN)
  • Hagana (phó vương, thế kỷ 1 TCN)
  • Rajuvula, khoảng năm 10 (Đại Phó Vương)
  • Sodasa, con trai của Rajuvula
  • "Đại Phó Vương" Kharapallana (khoảng năm 130)
  • "Phó vương" Vanaspara (khoảng năm 130)

Những vị vua nhỏ địa phương

  • Bhadayasa
  • Mamvadi
  • Arsakes

Các Phó vương Miền Tây

  • Nahapana (119–124)
  • Chastana (khoảng năm 120), con trai của Ghsamotika Tập tin:ChastanaCoin.jpg
  • Jayadaman, con trai của Chastana
  • Rudradaman I (khoảng năm 130–150), con trai của Jayadaman Tập tin:Coin of Rudradaman.jpg
  • Damajadasri I (170–175)
  • Jivadaman (175, mất năm 199)
  • Rudrasimha I (175–188 mất năm 197)
  • Isvaradatta (188–191)
  • Rudrasimha I (phục chức) (191–197)
  • Jivadaman (phục chức) (197–199)
  • Rudrasena I (200–222) Tập tin:Coin of Rudrasena.jpg
  • Samghadaman (222–223)
  • Damasena (223–232)
  • Damajadasri II (232–239) cùng
  • Viradaman (234–238)
  • Yasodaman I (239)
  • Vijayasena (239–250)
  • Damajadasri III (251–255)
  • Rudrasena II (255–277)
  • Visvasimha (277–282)
  • Bhratadarman (282–295)
  • Visvasena (293–304)
  • Rudrasimha II, con trai của vua (Svami) Jivadaman (304–348) cùng
  • Yasodaman II (317–332)
  • Rudradaman II (332–348)
  • Rudrasena III (348–380)
  • Simhasena (380– ?)
  • Rudrasena IV (382–388)
  • Rudrasimha III (388–395) Tập tin:Coin of Rudrasimha III.jpg
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
Phạm vi gần đúng của Scythia và [[tiếng Scythia (màu da cam) trong thế kỷ 1 TCN.]] Trong thời kỳ cổ đại, **Scythia** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Σκυθία "Skythia") là một khu vực tại
**Dionysios Soter**(Tiếng Hy Lạp: ; "Vị cứu tinh") là một vị vua Ấn-Hy Lạp tại khu vực phía đông Punjab. ## Triều đại Theo Osmund Bopearachchi, ông trị vì từ khoảng năm 65-55 TCN) và
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
[[Tập tin:Coin of Rajuvula.jpg|thumb|Billon drachm of the Indo-Scythian king Rajuvula (c. 10-25 CE). Weight: 2.21 gm, diameter: 12 mm
**Obv:** Bust of king Rajuvula, with Greek legend.
**Rev:** Pallas standing right (crude). Kharoshthi legend:
**Azes II** (trị vì vào khoảng từ năm 35- năm 12 TCN), có thể là vị vua Ấn-Scythia cuối cùng ở miền Bắc tiểu lục địa Ấn Độ (ngày nay là Pakistan). Tuy nhiên, theo
**Maues** (ΜΑΥΟΥ Mauou, r. 85-60 TCN) là một vị vua của người Ấn-Scythia, những người đã xâm chiếm các vùng đất của người Ấn-Hy Lạp. ## Người chinh phục Gandhara Maues đã đặt kinh đô
nhỏ|upright=1.5|Tiền xu của **Azes I** (48/[[47 TCN|47-25 TCN).
**Obv:** Azes I mặc giáp phục, cưỡi ngựa, cầm một ngọn giáo nằm ngang. Dòng chữ khắc Hy Lạp: BASILEOS BASILEON MEGALOU AZOU " của Đại đế
thumb|Tiền xu của **Zeionises** (khoảng năm 10 TCN – năm 10 CN).
**Obv:** Vị vua cưỡi ngựa và cầm một cây roi da, cùng với cây cung ở phía sau. Dòng chữ Hy Lạp MANNOLOU UIOU
[[Hình:Coin of Spalirises.jpg|thumb|Tiền xu của **Spalirises** (50–47 TCN).
**Obv**:Spalirises mặc giáp và ngồi trên lưng ngựa. Chữ khắc Hy Lạp BASILEUS MEGALOU SPALIRISOU "Đại đế Spalirises".
**Rev**: thần Zeus cầm sấm sét. chữ khắc bằng
**Liaka Kusulaka** (tiếng Hy Lạp: Λιακο Κοζουλο, _Liako Kozoulo_, trên đồng tiền của ông, tiếng Pali: Liaka Kusulaka hoặc Liako Kusuluko) là một phó vương người Ấn-Scythia của vùng đất Chukhsa nằm ở tây bắc
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
Tượng của những người Dacia vượt qua [[Khải hoàn môn Constantinus]] **Người Daci**(; ; ) là một tộc người Ấn-Âu, có quan hệ rất gần hoặc là một nhánh của người Thracia. Người Daci là
thumb|Tranh miêu tả cảnh người Bulgar theo gót [[Hãn Krum truy đuổi quân Byzantine tại Trận Versinikia (năm 813)]] **Người Bulgar** là những chiến binh người Turk sinh sống theo lối bán du mục ở
**Triều đại Gondophares**, và hay còn được gọi là các vị vua **Ấn-Parthia** là một nhóm các vị vua cổ đại cai trị vùng đất ngày nay là Afghanistan, Pakistan và Bắc Ấn Độ, trong
**Phó vương Miền Tây**, **Tây Kshatrapas**, hoặc **Kshaharatas** (35-405) là tên gọi các vị vua Saka cai trị của một phần phía tây và miền trung của Ấn Độ (Saurashtra và Malwa: Gujarat ngày nay,
**Zoilos I Dikaios** (tiếng Hy Lạp: ; có nghĩa là "Người công bằng") là một vị vua Ấn-Hy Lạp cai trị ở miền Bắc Ấn Độ và nắm giữ khu vực bao gồm Paropamisade và
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
Một **người lai Âu Á** () là một người có nguồn gốc chủng tộc pha trộn giữa châu Á và châu Âu. ## Tổng quan Thuật ngữ _Eurasian_ lần đầu tiên được đặt ra ở
**Dahae** hay **Daha** (tiếng La Tinh; tiếng Hy Lạp __) là một liên minh của ba bộ lạc sinh sống trong khu vực ngay phía đông biển Caspi. Họ nói tiếng Đông Iran. Đề cập
**Gondophares I** là một thành viên của gia tộc Suren ở Balochistan , ông còn là người sáng lập và là vị vua đầu tiên của vương quốc Ấn-Parthia. Ông dường như đã cai trị
**Hippostratos** (Tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua của vương quốc Ấn-Hy Lạp cai trị khu vực miền trung và tây bắc Punjab cùng với vùng đất Pushkalavati. Bopearachchi cho rằng triều đại của
**Spalahores** là một vị vua Ấn-Scythia, em trai của vua Vonones. Họ cai trị vùng đất Tây Bắc Nam Á vào giữa khoảng từ năm 75 TCN đến năm 65 TCN. Spalahores đã được nhắc
nhỏ|Ông lão người do thái Ashkenazi **Người Do Thái Ashkenazi** ( ), hay còn gọi là **Ashkenazic Do Thái** trong tiếng Hebrew số nhiều có hậu tố _-im,_ **Ashkenazim** là một Cộng đồng người Do
**Apollophanes Soter** (Tiếng Hy Lạp: , Soter có nghĩa là "Vị cứu tinh, trị vì khoảng từ năm 35 TCN - 25 TCN) là một vị vua Ấn-Hy Lạp ở khu vực miền đông và
**Người Pháp** () là một dân tộc chủ yếu sinh sống ở Tây Âu, có chung nền văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ Pháp, gắn liền với đất nước Pháp. Người Pháp, đặc biệt
**Người Ossetia** hoặc **người Osset** (tiếng Ossetia: ир, ирæттæ; _ir, irættæ_; và дигорӕ, дигорӕнттӕ, _digoræ, digorænttæ_) là một dân tộc bản địa thuộc Nhóm sắc tộc Iran, cư trú chủ yếu tại vùng được gọi
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Apollodotos II** (tiếng Hy Lạp: ), là một vị vua Ấn-Hy Lạp, ông đã cai trị ở các vùng đất phía tây và phía đông Punjab. Bopearachchi xác định niên đại của ông vào khoảng
**Lịch sử của Afghanistan,** (**' **' **' **') với tư cách là một nhà nước bắt đầu vào năm 1747 với sự thành lập của Ahmad Shah Durrani. Văn bản ghi lại lịch sử của
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
**Chùa Bạch Mã** (Chữ Hán giản thể: 白马寺; Chữ Hán phồn thể: 白馬寺; Bính âm Hán ngữ: _Báimǎ Sì_; Wade–Giles: _Pai-ma szu_) theo truyền thuyết là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được
thumb|Bản đồ của [[Dacia thuộc La Mã cho biết **Carpi** bao phủ khu vực giữa hai con sông Siret và Prut ở Moldavia (đông Rumani)]] **Người Carpi** hoặc **Carpiani** là một tộc người cổ đại
nhỏ|350x350px|_Trận chiến giữa [[người Slav và người Scythia_ — tranh của Viktor Vasnetsov (1881)]] Những người **Slav Sơ Khai** là một dân tộc bộ lạc đa dạng sống trong Thời kỳ di cư và Thời
nhỏ|Cung hoàng đạo bằng tiếng Khotan BLI6 OR11252 1R2 1 nhỏ|Những câu thơ tiếng Khotan BLE4 IOLKHOT50 4R1 1 nhỏ|Sách của Zambasta BLX3542 OR9614 5R1 1 **Tiếng Saka** là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
Sự phân bố của văn hóa Andronovo. Mày đỏ sẫm là hệ tầng Sintashta-Petrovka-Arkaim. Màu tím là các nơi mai táng, trong đó phát hiện các cỗ xe gia súc kéo với nan hoa tại
thumb|316x316px|Bầu trời xanh biếc trên thảo nguyên Ukraina. **_*Dyḗus_** (nghĩa đen: "thần-bầu trời-ban ngày") hoặc **_*Dyḗus ph₂tḗr_** (nghĩa đen: "cha thần-bầu trời-ban ngày"), là tên gọi của vị thần ban ngày-bầu trời trong thần thoại
**Hermaeos Soter** (tiếng Hy Lạp: , nghĩa là "Vị cứu tinh") là vị vua Ấn-Hy Lạp miền tây thuộc triều đại Eucrates, ông trị vì vùng đất Paropamisade trong khu vực Hindu Kush, kinh đô
phải|nhỏ|314x314px|Một [[Tì-kheo|nhà sư Trung Á đang giảng cho một nhà sư Trung Hoa. Hang động Bezeklik, thế kỷ 9–10; mặc dù Albert von Le Coq (1913) cho rằng nhà sư tóc đỏ, mắt xanh là
**Các dân tộc Iran** hay **các dân tộc Iranic** là nhóm dân tộc ngôn ngữ Ấn-Âu đa dạng, được xác định theo việc sử dụng các ngôn ngữ Iran và các điểm tương đồng văn
**Artemidoros Aniketos** (Tiếng Hy Lạp: , nghĩa là Người bất khả chiến bại) là một vị vua đã cai trị ở khu vực Gandhara và Pushkalavati, ngày nay thuộc phía bắc Pakistan và Afghanistan. ##
**Strato II** "**Soter**" (, _Strátōn B΄ ho Sotḗr_; có nghĩa là "Người Bảo Trợ") là một vị vua Ấn-Hy Lạp. Ông cai trị từ khoảng năm 25 TCN cho đến năm 10 CN theo Bopearachchi.
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
**Zoilos II Soter** (Tiếng Hy Lạp: , Soter có nghĩa là "Vị cứu tinh") là một vị vua Ấn-Hy Lạp, ông đã cai trị ở miền đông Punjab. Bopearachchi xác định niên đại của ông