✨Menes

Menes

Menes (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết cổ đại thì ông được coi là người đã thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập và cũng là người đã sáng lập nên Vương triều thứ Nhất.

Danh tính của Menes hiện vẫn là chủ đề được tranh luận, mặc dù vậy xu thế đồng thuận chung trong ngành Ai Cập học đó là đồng nhất Menes với vị vua thuộc thời kỳ Naqada III là Narmer (nhiều khả năng) hoặc là với vị pharaoh thuộc vương triều thứ Nhất là Hor-Aha.

Tên gọi và danh tính

Cách viết trong tiếng Ai Cập, mnj, được ghi lại trong các bản danh sách vua Turin và Danh sách vua Abydos, chúng có niên đại thuộc về Vương triều thứ Mười Chín, cách phát âm của nó được phục dựng lại là . Vào giai đoạn đầu thời kỳ Tân Vương quốc, những thay đổi trong tiếng Ai Cập khiến cho tên của ông đã được phát âm thành . Tên gọi mnj có nghĩa là "Ngài là người tồn tại", và vì thế I.E.S. Edwards (1971) đề xuất rằng nó có thể đã được tạo ra như là "một biệt danh mang tính mô tả đơn thuần để chỉ một vị anh hùng bán truyền thuyết [...] có tên đã bị mất". Thay vì là chỉ một người cụ thể, tên gọi này có thể dùng để che giấu đi các vị vua Naqada III: Ka, Scorpion II và Narmer.

Tên gọi thường được sử dụng Menes bắt nguồn từ Manetho, một nhà sử học và vị tư tế người Ai Cập sống vào thời kỳ nhà Ptolemaios. Manetho đã chú giải rằng tên gọi này trong tiếng Hy Lạp là Μήνης (chuyển ngữ: Mênês). Một cách viết khác bằng tiếng Hy Lạp là Μιν (chuyển ngữ: Min) đã được trích dẫn bởi nhà sử học sống vào thế kỷ thứ 5 TCN là Herodotos, nhưng hiện nay nó không còn được chấp nhận nữa; nó dường như là kết quả của việc hợp nhất với tên gọi của vị thần Min.

Narmer và Menes

thumb|Hai tên Horus của [[Hor-Aha (bên trái) và một tên của Menes (bên phải) bằng chữ tượng hình.]]

Gần như hoàn toàn không có bất cứ sự đề cập nào tới Menes trong các ghi chép khảo cổ học trong khi các bằng chứng về Narmer thì lại tương đối phong phú, ông ta là một nhân vật thuộc thời kỳ tiền vương triều được hậu thế công nhận và được xác nhận chắc chắn trong ghi chép khảo cổ học là người đã thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập, điều này đã dẫn đến việc xuất hiện giả thuyết đồng nhất Menes với Narmer.

Tham chiếu duy nhất về mặt khảo cổ học đối với Menes đó là một tấm thẻ ngà voi đến từ Nagada, nó cho thấy tên Horus hoàng gia Aha (của pharaoh Hor-Aha) nằm cạnh một tòa nhà mà bên trong nó có tên nebty hoàng gia mn, thường được đọc là Menes. Từ điều này, nhiều giả thuyết khác nhau về bản chất của tòa nhà này (một buồng tang lễ hoặc một điện thờ), ý nghĩa của từ mn (một tên gọi hoặc động từ tồn tại) và mối quan hệ giữa Hor-Aha và Menes (như là cùng một người hoặc là các vị pharaon kế tiếp nhau) đã phát sinh.

Hai bản danh sách vua Turin và Abydos, mà thường được chấp thuận là chính xác, ghi lại tên nesu-bit của các vị pharaoh chứ không phải là Horus của họ,, chúng có vai trò quan trọng đối với sự hòa hợp có thể của các ghi chép khác nhau: tên nesu-bit của các bản danh sách vua, tên Horus của các ghi chép khảo cổ học và số lượng các vị pharaon thuộc vương triều thứ Nhất theo Manetho và các nguồn sử liệu khác.

Flinders Petrie là người đầu tiên thực hiện điều này, ông ta đã kết hợp Iti với Djer như là vị pharaon thứ ba của vương triều thứ Nhất, Teti (Turin) (hoặc Iti (Abydos)) với Hor-Aha là vị pharaon thứ hai, và Menes (một tên nebty) với Narmer (một tên Horus) với tư cách là vị pharaon đầu tiên của vương triều thứ nhất. Lloyd (1994) nhận xét rằng trình tự này "rất dễ có khả năng sảy ra", và Cervelló-Autuori (2003) thẳng thừng tuyên bố rằng "Menes là Narmer và vương triều thứ Nhất bắt đầu bằng ông ta". Tuy nhiên, Seidlmayer (2004) thì lại đưa ra "một kết luận tương đối an toàn hơn" đó là Menes là Hor-Aha.

Niên đại

Các nhà Ai Cập học, khảo cổ học, và học giả từ thế kỷ thứ 19 đã đưa ra nhiều niên đại khác nhau cho thời đại của Menes, hoặc là niên đại cho vương triều thứ Nhất:

  • John Gardner Wilkinson (1835) – 2320 TCN
  • August Böckh (1845) – 5702 TCN
  • Christian Charles Josias Bunsen (1848) – 3623 TCN
  • Reginald Stuart Poole (1851) – 2717 TCN
  • Karl Richard Lepsius (1856) – 3892 TCN
  • Heinrich Karl Brugsch (1859) – 4455 TCN
  • Franz Joseph Lauth (1869) – 4157 TCN
  • Auguste Mariette (1871) – 5004 TCN
  • James Strong (1878) – 2515 TCN
  • Flinders Petrie (1887) – 4777 TCN

Niên đại đồng thuận mới cho thời đại của Menes hoặc cho sự bắt đầu của vương triều thứ Nhất là giữa khoảng năm 3200–3030 TCN; một số tài liệu học thuật sử dụng niên đại là khoảng năm 3000 TCN.

Truyền thuyết cổ đại gán cho Menes vinh dự là người đã thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập thành một vương quốc duy nhất và trở thành vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ Nhất. Tuy nhiên, tên của ông lại không xuất hiện trên những mảnh vỡ còn sót lại của Biên niên sử Hoàng gia (Bia đá Cairo và Bia đá Palermo), bản danh sách vua rời rạc này xưa kia vốn được khắc trên một tấm bia đá dưới thời Vương triều thứ Năm. Ông thường xuất hiện trong các nguồn sử liệu sau này với tư cách là vị vua con người đầu tiên của Ai Cập và được thừa hưởng ngai vàng trực tiếp từ thần Horus. Ông cũng còn xuất hiện trong các bản danh sách vua sau này với tư cách là vị pharaon đầu tiên là con người của Ai Cập. Menes cũng xuất hiện trong các câu chuyện viết bằng chữ bình dân thuộc thời kỳ Hy Lạp hóa, điều này chứng tỏ rằng kể cả trong giai đoạn say này ông vẫn được coi là một nhân vật quan trọng.

Menes được xem như là một người đặt nền móng trong suốt phần lớn lịch sử của Ai Cập cổ đại tương tự như Romulus ở La Mã cổ đại. Manetho ghi lại rằng Menes "đã dẫn quân vượt qua biên giới và giành được vinh quang vĩ đại". sau khi chuyển hướng dòng chảy của sông Nile thông qua việc xây dựng một con đê. Manetho quy việc xây dựng Memphis cho con trai của Menes, Athothis, và không gọi bất cứ vị pharaon nào trước thời vương triều thứ Ba là một "Memphite".

Các câu chuyện của Herodotos và Manetho về việc xây dựng thành Memphis có lẽ đã được sáng tác sau này: vào năm 2012, một bức phù điêu đề cập tới chuyến viếng thăm Memphis của Iry-Hor— một vị vua thuộc giai đoạn tiền vương triều ở Thượng Ai Cập mà trị vì trước thời Narmer— đã được phát hiện ở bán đảo Sinai, điều này chỉ ra rằng thành phố này đã tồn tại vào đầu thế kỷ thứ 32 TCN.

Ảnh hưởng văn hóa

thumb|Những tấm thẻ đến từ ngôi mộ của Menes Diodorus Siculus tuyên bố rằng Menes đã mở đầu cho phong tục thờ cúng các vị thần và tập tục tế lễ cũng như là phong cách sống tao nhã và xa hoa hơn.Vì lý do này, sự tưởng nhớ Menes đã bị vị pharaon thuộc Vương triều thứ Hai Mươi Bốn là Tefnakht xỉ nhục và Plutarchus nhắc đến một cây cột trụ ở Thebes có khắc một câu nguyền rủa chống lại Menes vì là người mở đầu cho sự xa hoa.

Câu chuyện cá sấu

Diodorus Siculus ghi lại một câu chuyện về Menes mà có liên quan đến vị tư tế của thần cá sấu Sobek ở Crocodilopolis, trong câu chuyện này pharaon Menes bị những chú chó của mình tấn công trong khi đang đi săn, sau đó ông đã băng qua hồ Moeris trên lưng của một con cá sấu và để trả ơn cho điều này ông đã thành lập nên thành phố Crocodilopolis.

Gaston Maspero (1910) bác bỏ ý kiến của những nhà bình luận cho rằng câu chuyện này nên được chuyển sang cho vị pharaon thuộc vương triều thứ Mười Hai là Amenemhat III và nhận thấy không có lý do gì để nghi ngờ rằng Diodoros không ghi chép lại chính xác một truyền thuyết của Menes, ông ta cũng thừa nhận khả năng rằng những câu chuyện truyền thuyết mà liên quan đến các vị vua khác có thể đã bị lẫn lộn với câu chuyện này. Sau đó, Edwards (1974) tuyên bố rằng "truyền thuyết rõ ràng chứa đầy sự sai lệch về niên đại, hiển nhiên không có giá trị về mặt lịch sử".

Qua đời

Theo Manetho, Menes đã cai trị trong 62 năm và bị một con hà mã giết chết.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
thumb|Tiền xu của Alexandros Đại đế (336-323 TCN) được đúc dưới thời [[Balakros hoặc Menes ở xưởng đúc tiền Tarsos vào khoảng năm 332/1-327 TCN.]] thumb|Tiền xu của Alexandros Đại đế (336-323 TCN) được đúc
**_Nyctemera menes_** là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
**Narmer** (3273 TCN—2987 TCN) là một vị vua Ai Cập cổ đại trong giai đoạn Sơ triều đại Ai Cập. Ông có lẽ là người đã kế vị vua Scorpion II hoặc Ka và còn
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Manetho** là một nhà sử học đồng thời là giáo sĩ Ai Cập cổ đại, sinh trưởng ở miền Heliopollis vào khoảng thế kỷ 4 TCN. Dưới sự bảo trợ của vua Ptolemée I, ông
**Thời kỳ vương triều Cổ xưa** hoặc **Sơ kỳ vương triều của Ai Cập** hay **Thời kỳ Tảo Vương quốc** bắt đầu ngay sau khi diễn ra sự thống nhất Hạ và Thượng Ai Cập
thumb|upright=1.37|Đồng tiền xu của Alexandros được Balakros hoặc Menes đúc vào khoảng năm 333-327 TCN. Chữ cái "B" nằm ở dưới ngai vàng của thần Zeus. **Balakros** (), còn gọi là **Balacrus**, ông là một
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Hor-Aha** (3100 TCN—3037 TCN; hoặc **Aha** hay **Horus Aha**) được coi là vị pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng thế kỷ 31 TCN và
nhỏ|[[Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà]] **Lịch sử Ai Cập** là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng Thung lũng sông Nin tạo một khối địa
**Manetho** là một nhà sử học đồng thời là giáo sĩ Ai Cập cổ đại, sống vào thời Ptolemaios. Ông đã có nhiều đóng góp lớn về nghiên cứu lịch sử Ai Cập. Ông cho
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Memphis** (; ) từng là kinh đô của Aneb-Hetch - vùng đầu tiên của Hạ Ai Cập - từ khi thành lập cho đến khoảng năm 2200 trước Công nguyên. Tên của thành phố trong
nhỏ|phải|Gaston Bonnier **Gaston Eugène Marie Bonnier** (9 tháng 4 năm 1853 tại Paris - 2 tháng 1 năm 1922) là một nhà thực vật học và sinh thái học người Pháp. Ban đầu Bonnier nghiên
**Minerva** (tiếng Anh /mɪˈnɜːrvə/ (tiếng Latin: [mɪˈnɛrwa]; tiếng Etrusca: _Menrva_) là nữ thần La Mã của lý trí, chiến tranh, nghệ thuật và khoa học. Từ thế kỉ thứ II TCN, người La Mã đánh
**Abydos** (Tiếng Ả Rập: أبيدوس) là một thành phố cổ của Ai Cập cổ đại, và cũng là nome (tương đương một quận) thứ 8 của Thượng Ai Cập, nằm cách bờ tây sông Nin
nhỏ|215x215px|Vương miện Pschent **Pschent**, hay **vương miện Kép**, là vương miện kết hợp giữa vương miện Trắng Hedjet và vương miện Đỏ Deshret. Pschent đại diện cho quyền lực thống nhất của các pharaon trên
**HMS _Parthian_ (N75)** là một tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Anh, là chiếc dẫn đầu của , được chế tạo vào cuối thập niên 1920. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của
thumb|Cổ vật Ai Cập từ thời tiền sử, khoảng [[4400 TCN|4400 - 3100 TCN. Hàng đầu tiên từ trên cùng bên trái: Tượng ngà voi, Bình Naqada, Tượng dơi. Hàng hai: bình diorite, đá lửa,