✨Hor-Aha

Hor-Aha

Hor-Aha (3100 TCN—3037 TCN; hoặc Aha hay Horus Aha) được coi là vị pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng thế kỷ 31 TCN và được cho là đã có một vương triều kéo dài.

Danh tính

Tên gọi

Tên gọi thông dụng của ông Hor-Aha là một dạng chuyển thể từ tên Horus của vị pharaon này, với một phần của tước hiệu hoàng gia kết hợp với thần Horus, và ở dạng đầy đủ là Horus-Aha có nghĩa là Horus người chiến binh.

Các nhà Ai Cập học đã đồng thuận với những phát kiến của Petrie trong việc thống nhất hai cách ghi chép và kết nối giữa tên gọi Hor-Aha (theo khảo cổ) với tên nebty Ity (theo lịch sử).

Quá trình tương tự đã dẫn đến việc đồng nhất Menes (một tên nebty) với Narmer (một tên Horus) - cả hai đều được ghi lại là người đã thống nhất Ai Cập và là pharaon đầu tiên của vương triều thứ nhất- là vị vua tiền triều của Hor-Aha (vị pharaon thứ hai). Vị vua tiền triều Narmer đã thống nhất Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập thành một vương quốc thống nhất. Hor-Aha có lẽ đã lên ngôi vao giai đoạn cuối thế kỷ thứ 32 trước Công nguyên hoặc đầu thế kỷ thứ 31 trước Công nguyên.

Chính sách đối nội

Hor-Aha dường như đã tiến hành nhiều hoạt động tôn giáo. Một chuyến viếng thăm của ông đến một đền thờ của nữ thần Neith đã được ghi lại trên một số tấm bảng thuộc vương triều của ông. Thánh điện của thần Neith mà ông đến thăm nằm ở phía đông bắc của đồng bằng sông Nile tại Sais. Hơn nữa, biểu tượng chiếc thuyền Henu thiêng liêng của thần Seker lần đầu tiên được tìm thấy trên một tấm bảng năm thuộc vương triều của ông. left|thumb|Mastaba được cho là của [[Neithhotep và do Hor-Aha xây dựng.]] Những dòng chữ khắc trên các chiếc bình, nhãn hiệu và dấu ấn triện từ các ngôi mộ của Hor-Aha và nữ hoàng Neithhotep cho thấy rằng vị nữ hoàng này đã qua đời dưới vương triều của Aha. Ông đã cho an táng bà trong một mastaba tráng lệ và được Jacques de Morgan khai quật sau này. Nữ hoàng Neithhotep có vẻ như chính là mẹ của Aha Việc lựa chọn khu nghĩa địa Naqada để làm nơi an nghỉ của Neithhotep có thể là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy bà đến từ vùng đất này. Ngược lại, điều này lại trợ giúp quan điểm cho rằng Narmer đã cưới một thành viên thuộc dòng dõi hoàng gia của Naqada để nhằm củng cố sự thống trị của các vị vua Thinite đối với khu vực này. hộp ngà voi và những viên đá cẩm thạch trắng được chạm khắc đều đã chứng thực cho sự hưng thịnh của các ngành nghề thủ công trong thời kỳ Aha cai trị.

Trong thời gian cai trị của Hor-Aha, thương mại với khu vực miền Nam Levant dường như đã suy giảm. Trái ngược với vị vua tiền nhiệm của ông là Narmer, Hor-Aha đã không được chứng thực bên ngoài thung lũng sông Nile. Điều này có thể chỉ ra rằng người Ai Cập đã dần dần giảm bớt các hoạt động thương mại đường dài giữa Ai Cập với các nước láng giềng phía đông của nó và tập trung hơn vào việc khai thác trực tiếp các nguồn lực địa phương. Phân tích những mảnh bình vỡ từ một tiền đồn của người Ai Cập tại En Besor cho thấy rằng nó đã hoạt động trong suốt vương triều của Hor-Aha. Cuối cùng, những mảnh bình vỡ trong ngôi mộ Hor-Aha lại đến từ miền nam Levant.

Gia đình

thumb|Mảnh đất sét vỡ với dấu triện có mang serekh của Hor-Aha cùng với ký hiệu ḥ và t, có lẽ có ý nghĩa biểu thị tên riêng Htj Chính cung của Hor-Aha là Benerib, tên của bà đã được "viết cùng tên ông trên một số mảnh vỡ[lịch sử], đặc biệt, từ ngôi mộ B14 ở Abydos, Ai Cập". Ngôi mộ B14 nằm sát ngay cạnh với ngôi mộ của Hor-Aha. Hor-Aha cũng đã có một người vợ khác, Khenthap, Các phòng chôn cất có hình chữ nhật, các bức tường được lót bằng gạch bùn. Ngôi mộ của Narmer và Ka chỉ có hai phòng chôn cất liền kề, trong khi ngôi mộ của Hor-Aha gồm ba phòng lớn hơn đáng kể và còn tách biệt nhau. Nguyên nhân của kiểu kiến trúc này là bởi vi ở thời điểm đó người Ai Cập đã gặp khó khăn trong việc xây dựng trần lớn phía trên những phòng chôn cất này. Thêm nữa, loại gỗ được sử dụng trong những công trình này thường phải nhập từ Palestine.

Một đặc điểm nổi bật khác của ngôi mộ Hor-Aha đó là toàn bộ những người hầu của hoàng gia đã bị chôn theo cùng với pharaon, đây là lần đầu tiên, tục lệ hiến tế người hầu được biết đến ở Ai Cập. Không rõ là họ đã bị giết hay là đã tự sát. Những người bị chôn theo bao gồm người hầu, người lùn, phụ nữ và thậm chí cả những chú chó. Tổng cộng có 36 ngôi mộ con đã được bố trí thành ba hàng song song nằm về phía đông bắc căn phòng chôn cất chính của Hor-Aha.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hor-Aha** (3100 TCN—3037 TCN; hoặc **Aha** hay **Horus Aha**) được coi là vị pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng thế kỷ 31 TCN và
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
**Narmer** (3273 TCN—2987 TCN) là một vị vua Ai Cập cổ đại trong giai đoạn Sơ triều đại Ai Cập. Ông có lẽ là người đã kế vị vua Scorpion II hoặc Ka và còn
**Khenthap** (cũng được viết là **Khenet-Hapi**) được cho là nữ hoàng của Ai Cập cổ đại. Bà được cho là đã sống trong triều đại thứ 1. Tiểu sử của bà rất mù mờ, vì
**Djer** (3115?—3040 TCN?) được coi là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều đầu tiên của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng giữa thế kỷ 31 TCN và cai trị trong khoảng 40
**Ramesses II** (hay **Ramesses đại đế**, **Ramses II**, **Rameses II**, ông cũng được biết đến với tên **Ozymandias** theo tiếng Hy Lạp, từ sự chuyển ký tự từ tiếng Hy Lạp sang một phần tên
**Manetho** là một nhà sử học đồng thời là giáo sĩ Ai Cập cổ đại, sinh trưởng ở miền Heliopollis vào khoảng thế kỷ 4 TCN. Dưới sự bảo trợ của vua Ptolemée I, ông
**Abydos** (Tiếng Ả Rập: أبيدوس) là một thành phố cổ của Ai Cập cổ đại, và cũng là nome (tương đương một quận) thứ 8 của Thượng Ai Cập, nằm cách bờ tây sông Nin
thumb|Cổ vật Ai Cập từ thời tiền sử, khoảng [[4400 TCN|4400 - 3100 TCN. Hàng đầu tiên từ trên cùng bên trái: Tượng ngà voi, Bình Naqada, Tượng dơi. Hàng hai: bình diorite, đá lửa,
**Vương triều thứ Nhất của Ai Cập** cổ đại (hoặc **vương triều thứ Nhất**, ký hiệu: **Triều I**) bao gồm một loạt các vị vua Ai Cập đầu tiên đã cai trị một vương quốc
**Thời kỳ vương triều Cổ xưa** hoặc **Sơ kỳ vương triều của Ai Cập** hay **Thời kỳ Tảo Vương quốc** bắt đầu ngay sau khi diễn ra sự thống nhất Hạ và Thượng Ai Cập
**Seth-Peribsen** (còn được gọi là **Ash-Peribsen, Peribsen** và **Perabsen)** là tên serekh của một vị vua Ai Cập thuộc vương triều thứ hai (khoảng từ năm 2890- năm 2686 trước Công nguyên) Tên hoàng gia