✨Ai Cập cổ đại

Ai Cập cổ đại

thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]]

Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nền văn minh Ai Cập được hình thành rõ nét là vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên (Narmer, thường được gọi là Menes). Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ Vương quốc thời kỳ Sơ kỳ Đồ đồng, Trung Vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân Vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.

Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực vào giai đoạn Tân Vương quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia, Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba và cuối thời kỳ Ai Cập cổ đại. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemaios I Soter, đã tuyên bố ông là một vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemaios gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.

Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũng sông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.

Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến ​​trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.

Lịch sử qua các thời kì

Bản đồ Ai Cập cổ đại, cho thấy các thành phố chính và các vị trí của thời kỳ triều đại (khoảng năm 3150 TCN tới năm 30 TCN) Sông Nile luôn là huyết mạch của khu vực này trong phần lớn chiều dài lịch sử. Các đồng bằng màu mỡ của sông Nile đã cho con người cơ hội để phát triển một nền kinh tế nông nghiệp định canh và tạo nên một xã hội tập trung, tinh vi hơn trở thành nền tảng trong lịch sử văn minh của con người. Những người du mục săn bắn hái lượm hiện đại bắt đầu sinh sống trong khu vực thung lũng sông Nile vào cuối giai đoạn Trung kỳ Pleistocen khoảng 120.000 năm trước. Vào cuối thời kỳ đồ đá cũ, khí hậu khô hạn của Bắc Phi ngày càng trở nên nóng và khô hơn, buộc cư dân của khu vực này tập trung về dọc theo lưu vực sông.

Thời kỳ Tiền triều đại

Trong thời kỳ Tiền triều đại và Sơ kỳ, khí hậu Ai Cập ít khô cằn hơn ngày nay. Một vùng rộng lớn của Ai Cập đã được bao phủ bởi những đồng cỏ xavan và những đàn động vật ăn cỏ. Hệ động thực vật từng phong phú hơn nhiều ở mọi hệ sinh thái và lưu vực sông Nile cung cấp những quần thể chim lớn. Săn bắn từng phổ biến ở Ai Cập, và đây cũng là thời kỳ nhiều loài động vật lần đầu tiên được thuần hóa.

Đến khoảng 5500 TCN, các bộ lạc nhỏ sống trong thung lũng sông Nile đã phát triển thành một loạt các nền văn hóa có khả năng làm chủ được trồng trọt và chăn nuôi, và có thể nhận biết được thông qua đồ gốm và các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như lược, vòng đeo tay, và chuỗi hạt. Lớn nhất trong số những nền văn hóa sớm ở miền thượng (phía Nam) Ai Cập là Badari, mà có lẽ có nguồn gốc từ sa mạc phía Tây; nó từng nổi tiếng với đồ gốm chất lượng cao, công cụ bằng đá, và việc sử dụng đồng. thumb|left|upright|Một chiếc vại kiểu Naqada II được trang trí với hình ảnh linh dương gazen. (Thời kỳ Tiền triều đại)Tiếp theo sau nền văn hóa Badari là các nền văn hóa Amra (Naqada I) và Gerzeh (Naqada II), với một số cải tiến về công nghệ. Ngay từ thời kỳ Naqada I, người Ai Cập tiền triều đại đã nhập khẩu đá vỏ chai từ Ethiopia, được sử dụng để tạo nên các lưỡi dao và các vật dụng khác từ các mảnh đá. Trong thời kỳ Naqada II, đã xuất hiện các bằng chứng về sự tiếp xúc ban đầu với vùng Cận Đông, đặc biệt là Canaan và bờ biển Byblos. Trong một khoảng thời gian khoảng 1.000 năm, các nền văn hóa Naqada đã phát triển từ một vài cộng đồng nông nghiệp nhỏ thành một nền văn minh hùng mạnh trong đó các nhà lãnh đạo đã kiểm soát hoàn toàn người dân và các nguồn tài nguyên ở thung lũng sông Nile. Thiết lập nên trung tâm quyền lực tại Hierakonpolis, và sau đó tại Abydos, những nhà lãnh đạo Naqada III đã mở rộng quyền kiểm soát của họ về phía bắc Ai Cập dọc theo sông Nile. Họ cũng đã giao thương với Nubia ở phía nam, các ốc đảo sa mạc phía tây, và với các nền văn hóa miền đông Địa Trung Hải và Cận Đông. Những đồ tạo tác tại nghĩa địa hoàng gia Nubia thuộc Qustul mang những biểu tượng cổ xưa nhất được biết đến của các triều đại của Ai Cập, như vương miện màu trắng của Ai Cập và chim ưng.

Nền văn hóa Naqada đã tạo ra nhiều dạng của cải vật chất khác nhau, phản ánh sức mạnh ngày càng tăng và sự giàu có của tầng lớp thượng lưu, cũng như các đồ dùng cá nhân, trong đó bao gồm lược, những bức tượng nhỏ, gốm màu, bình đá có họa tiết chất lượng cao, phiến đá để chế tạo mỹ phẩm, và đồ trang sức làm bằng vàng, lapis, ngà voi. Họ cũng phát triển một dạng gốm tráng men được gọi là đồ sứ, được sử dụng tới tận thời kỳ La Mã để trang trí ly, bùa hộ mệnh, và các bức tượng nhỏ. Trong giai đoạn cuối cùng của thời kỳ tiền triều đại, văn hóa Naqada bắt đầu sử dụng các ký hiệu viết mà về sau phát triển thành một hệ thống chữ tượng hình hoàn chỉnh để ghi lại ngôn ngữ Ai Cập cổ đại.

Giai đoạn Tảo vương quốc (khoảng 3150 TCN - 2686 TCN)

thumb|[[Tấm bảng Narmer miêu tả sự thống nhất của Hai Vùng Đất.]] Giai đoạn Tảo vương quốc xấp xỉ tương đương với giai đoạn đầu của nền văn minh Sumer-Akkad ở Mesopotamia và văn minh Elam cổ. Một tư tế người Ai Cập vào thế kỷ thứ III TCN có tên là Manetho đã tập hợp phả hệ các pharaon từ Menes đến thời đại của ông và chia thành 30 triều đại, tạo thành một hệ thống vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. Ông đã bắt đầu lịch sử chính thức của mình với vị vua tên là "Meni" (hoặc Menes trong tiếng Hy Lạp), người được cho là đã thống nhất cả hai vương quốc của Thượng và Hạ Ai Cập (khoảng năm 3100 trước Công nguyên).

Sự chuyển biến sang một nhà nước thống nhất xảy ra từ từ hơn cách các học giả Ai Cập trình bày, và ngày nay không còn lưu lại bất cứ ghi chép đương thời nào về Menes. Một số học giả hiện nay tin rằng vị vua Menes thần thoại này có thể là Pharaon Narmer, người được mô tả trong sắc phục hoàng gia trên bảng đá kỉ niệm của ông ta, Bảng đá Narmer, với một hành động biểu tượng cho sự thống nhất. Trong giai đoạn sơ kỳ triều đại khoảng năm 3150 trước Công nguyên, vị vua đầu tiên đã củng cố quyền kiểm soát đối với Hạ Ai Cập bằng cách thiết lập kinh đô tại Memphis, từ đó ông ta có thể kiểm soát nguồn lao động và nông nghiệp của vùng đồng bằng màu mỡ, cũng như các tuyến đường thương mại béo bở trọng yếu tới khu vực Levant. Sự gia tăng quyền lực và sự giàu có của các vị vua trong giai đoạn sơ kỳ triều đại đã được phản ánh thông qua các ngôi mộ được xây dựng công phu của họ và các kiến trúc thờ cúng mai táng tại Abydos, được sử dụng để ca tụng vị pharaon được phong thần sau khi ông ta qua đời. Các pharaon đã thiết lập nên một vương quyền hùng mạnh nhằm phục vụ cho việc hợp pháp hóa quyền kiểm soát nhà nước đối với đất đai, lao động và các nguồn tài nguyên thiết yếu cho sự sống còn và phát triển của nền văn minh Ai Cập cổ đại.

Thời kỳ Cổ Vương quốc (2686 TCN – 2181 TCN)

Những tiến bộ lớn trong kiến trúc, nghệ thuật, và công nghệ đã xuất hiện vào thời kì Cổ Vương quốc, nó được thúc đẩy bởi năng suất nông nghiệp gia tăng có thể nhờ một chính quyền trung ương phát triển tốt. Một số thành tựu đỉnh cao của Ai Cập cổ đại, kim tự tháp Giza và Tượng nhân sư vĩ đại, đã được xây dựng trong thời Cổ Vương quốc. Dưới sự chỉ đạo của tể tướng, các quan chức nhà nước thu thuế, phối hợp các dự án thủy lợi để nâng cao năng suất cây trồng, huy động nông dân làm việc trong các dự án xây dựng, và thiết lập một hệ thống tư pháp để duy trì hòa bình và trật tự. nhỏ|[[Khafre|Pharaon Khafre]]

Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng của một chính quyền trung ương, đã phát sinh một tầng lớp mới bao gồm những quan ký lục có học thức và các quan chức được ban phát đất đai bởi các pharaon để đổi lại cho sự phục vụ của họ. Các pharaon cũng thực hiện ban cấp đất đai cho các giáo phái và các đền thờ địa phương để đảm bảo rằng họ có nguồn lực để thờ cúng các vị vua sau khi ông ta qua đời. Các học giả tin rằng những điều này đã làm hao mòn một cách từ từ sức mạnh kinh tế của các pharaon trong suốt 5 thế kỷ, và cuối cùng đã khiến cho nền kinh tế không còn có đủ khả năng để hỗ trợ cho một bộ máy trung ương tập quyền hùng mạnh nữa. Khi sức mạnh của các pharaon suy giảm, các thống đốc khu vực được gọi là nomarch bắt đầu thách thức uy quyền của các pharaon. Điều này cùng với nạn hạn hán nghiêm trọng từ giữa năm 2200 tới năm 2150 TCN, được coi là nguyên nhân khiến cho đất nước Ai Cập rơi vào giai đoạn kéo dài 140 năm của nạn đói và xung đột được gọi là Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181–1991 TCN)

Sau khi chính quyền trung ương của Ai Cập sụp đổ vào cuối thời Cổ Vương quốc, chính quyền không còn có thể hỗ trợ hay giữ được sự ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Thống đốc các vùng không còn có thể dựa vào nhà vua để được giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng này, và tình trạng thiếu lương thực cùng tranh chấp chính trị leo thang gây ra nạn đói và các cuộc nội chiến quy ​​mô nhỏ. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề khó khăn, các quan chức địa phương, do không cống nạp cho các pharaon, sử dụng sự độc lập mới có được để thiết lập một nền văn hóa phát triển mạnh ở các tỉnh. Một khi kiểm soát các nguồn tài nguyên của riêng mình, các tỉnh đã trở nên giàu có hơn về kinh tế, một thực tế chứng minh bằng sự chôn cất lớn hơn và tốt hơn trong tất cả các tầng lớp xã hội

Không bị ràng buộc bởi lòng trung thành của họ với pharaon, các nhà cầm quyền địa phương đã bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị. Khoảng năm 2160 trước Công nguyên, các vị vua ở Herakleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, trong khi một gia tộc đối thủ có căn cứ tại Thebes, gia tộc Intef, nắm quyền kiểm soát vùng Thượng Ai Cập. Vì nhà Intef mạnh hơn và bắt đầu mở rộng sự kiểm soát của họ về phía bắc, một cuộc đụng độ giữa hai triều đại đối thủ đã không thể tránh khỏi. Khoảng năm 2055 trước Công nguyên, phe Thebes dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Herakleopolis, thống nhất hai vùng đất và mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung Vương quốc.

Thời kỳ Trung Vương quốc (2134 TCN – 1690 TCN)

nhỏ|[[Amenemhat III, vị vua vĩ đại cuối cùng của Trung Vương quốc|260x260px]] Các pharaon thời Trung Vương quốc đã phục hồi sự thịnh vượng của đất nước và sự ổn định, qua đó tạo động lực cho sự hồi sinh của nghệ thuật, văn học, và các dự án xây dựng hoành tráng Mentuhotep II và các vị vua kế tục của vương triều thứ 11 cai trị từ Thebes, nhưng khi viên tể tướng Amenemhat I lên ngôi mở đầu cho triều đại thứ 12 khoảng năm 1985 trước Công nguyên, ông ta đã chuyển kinh đô của quốc gia tới thành phố Itjtawy nằm trong ốc đảo Faiyum. Từ Itjtawy, các pharaon triều đại thứ 12 đã tiến hành một chương trình cải tạo đất đai và thủy lợi nhằm tăng sản lượng nông nghiệp trong khu vực. Hơn nữa, quân đội còn tiến hành các chiến dịch quân sự tái chiếm lại vùng lãnh thổ Nubia vốn giàu các mỏ đá và mỏ vàng, trong khi người dân xây dựng một công trình phòng thủ ở phía đông vùng đồng bằng châu thổ, được gọi là "Trường thành của nhà vua", để bảo vệ vùng đất này khỏi các cuộc tấn công đến từ bên ngoài.

Với việc các vị vua sau khi củng cố được bộ máy quân sự và chính quyền cùng với sự giàu có đến từ nông nghiệp và khoáng sản, dân số của đất nước, nghệ thuật và tôn giáo đã phát triển mạnh mẽ. Trái ngược với quan điểm ưu đẳng đối với các vị thần thời Cổ Vương quốc, thời kỳ Trung Vương quốc đã diễn ra một quá trình gia tăng những biểu hiện của đạo đức cá nhân và những gì có thể được gọi là dân chủ hóa của thế giới bên kia, trong đó tất cả mọi người sở hữu một linh hồn và có thể được chào đón ở thế giới các vị thần sau khi qua đời. Văn học thời Trung Vương quốc mang đặc trưng là các chủ đề phức tạp với các nhân vật được thể hiện với sự tự tin, và phong cách hùng hồn. Phù điêu và các bức tác phẩm điêu khắc chân dung của thời kỳ này mang sự tinh tế, các chi tiết mang tính cá nhân đạt đến tầm cao mới với kỹ thuật hoàn hảo.

Vị vua vĩ đại cuối cùng của thời kỳ Trung Vương quốc, Amenemhat III, đã cho phép những người châu Á định cư trong khu vực đồng bằng để cung cấp một lực lượng lao động đủ để cho việc khai thác mỏ và đặc biệt là các công trình xây dựng của ông. Tuy nhiên các hoạt động xây dựng và khai thác mỏ đầy tham vọng, kết hợp với lũ lụt nghiêm trọng của sông Nile dưới triều đại của ông sau này đã gây nên căng thẳng kinh tế và dẫn đến sự suy yếu dần dần trong thời kỳ chuyển tiếp thứ hai dưới triều đại thứ mười ba và mười bốn sau này. Trong giai đoạn suy yếu này, những người định cư Canaan bắt đầu nắm quyền kiểm soát khu vực đồng bằng châu thổ, cuối cùng thì họ chiếm lấy quyền lực ở Ai Cập và được biết đến với tên gọi là người Hyksos.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ hai (1674 TCN – 1549 TCN) và người Hyksos

Khoảng năm 1785 trước Công nguyên, khi mà sức mạnh của các vị vua thời Trung Vương quốc suy yếu, những cư dân châu Á sinh sống tại thành Avaris ở miền đông đồng bằng châu thổ đã nắm quyền kiểm soát khu vực và buộc chính quyền trung ương phải rút lui về Thebes, nơi các vị vua bị coi là một chư hầu và đặc biệt là phải cống nạp. Người Hyksos ("Các vị vua ngoại quốc") bắt chước mô hình của chính quyền Ai Cập và tự miêu tả mình là pharaon, do đó tích hợp các yếu tố Ai Cập vào nền văn hóa thời đại đồ đồng của họ. Họ và những dân tộc Semite xâm lược khác đã giới thiệu những công cụ chiến tranh mới tới Ai Cập, đáng kể nhất là loại cung hỗn hợp và chiến xa.

Thời kỳ Tân Vương quốc (1549 TCN – 1069 TCN)

Các vị pharaon thời Tân Vương quốc đã thiết lập nên một thời kỳ thịnh vượng chưa từng có bằng cách củng cố chắc chắn biên giới của họ và tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, bao gồm cả đế quốc Mitanni, Assyria, và Canaan. Các chiến dịch quân sự được tiến hành dưới triều đại Tuthmosis I và cháu trai của ông Tuthmosis III đã tạo nên một đế quốc Ai Cập lớn chưa từng thấy. Vào giai đoạn giữa triều đại của họ, Hatshepsut đã thúc đẩy hòa bình và khôi phục lại các tuyến đường thương mại bị gián đoạn trong thời kỳ người Hyksos cai trị, cũng như mở rộng tới các vùng đất mới. Khi Tuthmosis III qua đời năm 1425 TCN, Ai Cập đã có một đế chế trải dài từ Niya ở tây bắc Syria tới tận thác thứ tư của sông Nile ở Nubia.

Các vị pharaon thời kỳ này đã bắt đầu một chiến dịch xây dựng quy mô lớn để tôn vinh thần Amun, vị thần được thờ cúng tại Karnak. Họ cũng xây dựng những tượng đài để vinh danh những thành tựu của mình, cả trong thực tế và tưởng tượng. Ngôi đền Karnak là ngôi đền Ai Cập lớn nhất từng được xây dựng. Hatshepsut cũng đã sử dụng cường điệu tương tự và tạo nên sự huy hoàng trong suốt triều đại của gần hai mươi năm của bà. Triều đại của bà đã rất thành công, nó được đánh dấu bởi một thời gian dài hòa bình và các công trình xây dựng giàu có, các cuộc thám hiểm thương mai tới Punt, khôi phục lại mạng lưới thương mại nước ngoài và các dự án xây dựng lớn, trong đó có một ngôi đền mai táng thanh lịch sánh ngang với các kiến ​​trúc Hy Lạp của một ngàn năm sau đó, một cặp cột tháp tưởng niệm khổng lồ, và một nhà nguyện tại Karnak. Bất chấp những thành tựu này của bà, Amenhotep II, vị vua kế vị của Tuthmosis III, đã tìm cách xóa bỏ di sản của bà vào giai đoạn gần cuối triều đại của cha ông và trong suốt triều đại của ông. Ông cũng đã cố gắng để thay đổi nhiều truyền thống đã được thiết lập và phát triển qua nhiều thế kỷ, mà một số được cho là một nỗ lực vô ích nhằm ngăn chặn những người phụ nữ khác trở thành pharaon và hạn chế ảnh hưởng của họ trong vương quốc.

thumb|left|[[Djeser-Djeseru là công trình chính của tổ hợp đền thờ lăng mộ Pharaon Hatshepsut tại Deir el-Bahri, tòa nhà này là một ví dụ hoàn hảo cho kiến trúc cân xứng, xuất hiện sớm hơn cả đền Parthenon một nghìn năm.]]Khoảng năm 1350 TCN, sự ổn định của Tân Vương quốc dường như đã bị đe dọa một lần nữa khi Amenhotep IV lên ngôi và tiến hành một loạt các cải cách triệt để và hỗn loạn. Ông đã đổi tên thành Akhenaten, và đưa vị thần mặt trời trước đó ít người biết đến là Aten trở thành vị thần tối cao, ngăn cấm hầu hết các vị thần khác, và tấn công vào quyền lực của các giáo sĩ Amun ở Thebes, những người mà ông xem là tham nhũng. Di chuyển kinh đô tới thành phố mới Akhetaten (ngày nay là Amarna), Akhenaten đã bỏ ngoài tai các sự kiện đang diễn ra ở vùng Cận Đông (nơi người Hittite, Mitanni và Assyria đang tranh giành quyền kiểm soát). Ông đã dành toàn lực cho tôn giáo mới của mình và phong cách nghệ thuật. Sau khi ông qua đời, sự thờ cúng thần Aten đã nhanh chóng bị từ bỏ và các giáo sĩ của Amun sớm giành lại được quyền lực và trở lại kinh đô Thebes. Dưới ảnh hưởng của họ, các pharaon như Tutankhamun, Ay và Horemheb sau đó đã tiến hành xóa bỏ tất cả những gì đề cập đến vị vua Akhenaten, mà ngày nay được gọi là thời kỳ Amarna. thumb|upright|Bốn bức tượng khổng lồ của Pharaon [[Ramesses II án ngữ bên cạnh lối vào ngôi đền Abu Simbel.]] Khoảng năm 1279 TCN, Ramesses II, còn được gọi là Ramesses Đại đế, lên ngôi vua và ông tiếp tục cho xây dựng nhiều ngôi đền cùng với nhiều bức tượng và tháp bia tưởng niệm khác, ông cũng là vị pharaon có nhiều con trai nhất trong lịch sử. Ông còn là một nhà lãnh đạo quân sự táo bạo, Ramesses II đã lãnh đạo quân đội của ông chống lại người Hittite trong trận Kadesh (tại Syria ngày nay) và sau một cuộc chiến tranh bất phân thắng bại, cuối cùng hai bên đã đồng ý ký kết hiệp ước hòa bình đầu tiên được ghi nhận, khoảng năm 1258 TCN. Với việc cả người Ai Cập và Hittite đều không thể chiếm được ưu thế hơn đối thủ và cả hai cường quốc cũng đều sợ hãi sự bành trướng của đế quốc Trung Assyria, Ai Cập sau đó đã rút khỏi nhiều vùng ở Cận Đông. Do đó người Hittite đã phải đơn độc chống đỡ với người Assyria hùng mạnh và người Phrygia mới đến.

Tuy nhiên sự giàu có của Ai Cập đã khiến cho nó trở thành một mục tiêu hấp dẫn cho các cuộc xâm lược, đặc biệt bởi người Berber Libya từ phía tây, và các dân tộc vùng biển, được cho là một liên minh của những người đi biển đến từ Aegea. Ban đầu, quân đội đã có thể đẩy lùi các cuộc xâm lược, nhưng cuối cùng Ai Cập đã đánh mất quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ còn lại của mình ở miền nam Caanan, phần lớn rơi vào tay của người Assyria. Những ảnh hưởng từ các mối đe dọa bên ngoài còn trở nên trầm trọng hơn bởi các vấn đề nội bộ như tham nhũng, nạn cướp mộ, và tình trạng xã hội bất ổn. Sau khi giành lại quyền lực của mình, các đại tư tế Amun ở Thebes đã nắm trong tay những vùng đất rộng lớn và giàu có, và mở rộng quyền lực của họ ra khắp đất nước trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1069 TCN – 653 TCN)

Sau khi Ramesses XI qua đời trong năm 1078 TCN, Smendes đã trở thành pharaon cai trị phần phía bắc của Ai Cập, đóng đô ở thành phố Tanis. Miền nam thì lại nằm dưới sự kiểm soát một cách hiệu quả của các đại tư tế Amun ở Thebes, họ chỉ công nhận Smendes trên danh nghĩa. Trong thời gian này, các bộ lạc Berber đến từ Libya đã bắt đầu định cư ở vùng đồng bằng châu thổ phía tây, và tù trưởng của những người định cư đã bắt đầu gia tăng quyền tự chủ của họ. Các hoàng tử Libya này bắt đầu nắm quyền kiểm soát vùng đồng bằng châu thổ dưới thời Shoshenq I vào năm 945 TCN, thiết lập nên triều đại Libya của người Berber, hoặc triều đại Bubastite, cai trị trong khoảng 200 năm. Shoshenq cũng giành quyền kiểm soát miền nam Ai Cập bằng cách đưa các thành viên thuộc hoàng gia nắm giữ các vị trí tư tế quan trọng.

Vào giữa thế kỷ IX TCN, Ai Cập đã tiến hành một nỗ lực bất thành nhằm giành lại địa vị xưa kia ở Tây Á một lần nữa. Pharaon Osorkon II của Ai Cập, cùng với một liên minh lớn bao gồm nhiều quốc gia và dân tộc khác trong đó có người Ba Tư, Israel, Hamath, Phoenicia / Caana, người Ả Rập, người Aramea, và Tân Hittite, tham gia vào trận Karkar chống lại vị vua Assyria hùng mạnh Shalmaneser III diễn ra trong năm 853 TCN. Tuy nhiên, liên minh này đã thất bại và đế quốc Tân Assyria tiếp tục thống trị Tây Á.

Sự cai trị của người Berber Libya bắt đầu suy yếu bắt đầu khi xuất hiện một triều đại đối thủ ở Leontopolis thuộc khu vực đồng bằng châu thổ. Ngoài ra, người Nubia của Kush cũng đe dọa Ai Cập từ các vùng đất phía Nam. thumb|upright|Suốt năm 730 TCN, người Libya từ phía tây đã bức đổ nền thống nhất chính trị của vương quốc

Trải qua hàng thiên niên kỷ tương tác (thương mại, tiếp xúc văn hóa, chiếm đóng, đồng hóa, và chiến tranh ) với Ai Cập, vị vua Piye của người Kush xuất phát từ kinh đô Napata ở Nubia của ông và tiến đánh Ai Cập khoảng năm 727 TCN. Piye dễ dàng chiếm được Thebes và cuối cùng là khu vực đồng bằng sông Nile. Ông đã cho ghi lại quá trình này trên tấm bia chiến thắng của mình. Piye sau đó thiết lập nên triều đại thứ 25, để thống nhất lại "Hai vùng đất" của miền Bắc và miền Nam Ai Cập. Đế chế thung lũng sông Nile một lần nữa lại trở nên rộng lớn như thơi Tân Vương quốc.

Triều đại thứ 25 đã mở ra một thời kỳ phục hưng cho Ai Cập cổ đại. Tôn giáo, nghệ thuật, kiến ​​trúc đã được khôi phục lại vẻ huy hoàng như thời Cổ, Trung, và Tân Vương quốc. Các pharaon chẳng hạn như Taharqa, đã cho xây dựng hoặc phục hồi lại các đền thờ và tượng đài khắp toàn bộ khu vực thung lũng sông Nile, bao gồm cả ở Memphis, Karnak, Kawa, Jebel Barkal, vv Triều đại thứ 25 cũng là triều đại đầu tiên cho xây dựng nhiều kim tự tháp (phần lớn nằm tại Sudan ngày nay) ở thung lũng Nile kể từ thời Trung Vương quốc.

Piye đã tiến hành nhiều nỗ lực để mở rộng ảnh hưởng của Ai Cập ở vùng Cận Đông, vốn đang nằm dưới sự kiểm soát của Assyria, nhưng đều không thành công. Năm 720 TCN, ông phái một đội quân đến hỗ trợ của một cuộc khởi nghĩa chống lại Assyria, đang xảy ra tại Philistia và Gaza. Tuy nhiên, Piye đã bị Sargon II đánh bại và cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Năm 711 TCN, Piye lại ủng hộ một cuộc khởi nghĩa khác của người Do Thái ở Ashdod chống lại người Assyria và lại một lần nữa bị đánh bại bởi vua Assyria Sargon II. Sau đó, Piye đã buộc phải từ bỏ vùng Cận Đông.

Từ thế kỷ X TCN trở đi, Assyria đã tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm kiểm soát miền Nam Levant. Các thành phố và các vương quốc miền nam Cận Đông thường xuyên kêu gọi Ai Cập trợ giúp họ trong cuộc chiến chống lại quân đội Assyria hùng mạnh. Taharqa đã đạt được một số thành công bước đầu trong nỗ lực nhằm giành lại một chỗ đứng ở Cận Đông. Taharqa đã trợ giúp cho vua Judea Hezekiah khi Hezekiah và Jerusalem bị vua Assyria, Sennacherib, vây hãm. Các học giả đã không đi đến thống nhất với nhau về lý do chính khiến cho người Assyria từ bỏ cuộc vây hãm Jerusalem của họ. Có thể nguyên nhân khiến cho người Assyria tránh một cuộc chiến với đội quân can thiệp Ai Cập / Kush có thể là do dịch bệnh hoành hành. Henry Aubin lại lập luận rằng quân đội Kush / Ai Cập đã cứu thoát Jerusalem khỏi tay người Assyria và ngăn cản người Assyria quay trở lại đánh chiếm Jerusalem suốt phần đời còn lại của Sennacherib (20 năm). Tuy nhiên biên niên sử của Senacherib khẳng định rằng Judea đã được buộc vào cống nạp.

Sennacherib sau đó đã bị những người con trai của mình sát hại bởi vì ông ta đã phá hủy thành phố Babylon nổi loạn, một thành phố thiêng liêng đối với toàn bộ người dân Mesopotamia, bao gồm cả Assyria. Năm 674 TCN, Esarhaddon tiến hành một cuộc xâm lược mở đầu vào Ai Cập, tuy nhiên nỗ lực này đã bị Taharqa đẩy lùi. Tuy nhiên, vào năm 671 TCN, Esarhaddon đã phát động một cuộc xâm lược toàn diện. Một phần quân đội của ông ta đã lưu lại để đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở Phoenicia, và Israel. Phần còn lại tiến về phía nam tới Rapihu, rồi băng qua Sinai, và tiến vào Ai Cập. Esarhaddon giành một chiến thắng quyết định trước Taharqa, rồi chiếm lấy Memphis, Thebes và tất cả các thành phố lớn của Ai Cập, còn Taharqa bị đánh đuổi trở lại quê hương Nubia của ông. Esarhaddon lúc bây giờ tự gọi bản thân ông ta là "vua của Ai Cập, Patros, và Kush", và trở về với một lượng lớn chiến lợi phẩm từ các thành phố ở vùng đồng bằng; ông ta đã cho dựng lên một tấm bia chiến thắng vào thời điểm này và tiến hành một cuộc diễu hành với vị hoàng tử tù binh Ushankhuru, con trai của Taharqa ở Nineveh. Esarhaddon cho đóng một đội quân nhỏ ở miền bắc Ai Cập và mô tả cách "Tất cả người Ethiopia (cách gọi người Nubia / Kushi) đã bị ta trục xuất khỏi Ai Cập, để không còn kẻ nào không thần phục ta". Ông ta còn thiết lập các chư hầu Ai Cập bản xứ để cai trị thay mặt mình. Cuộc chinh phục của Esarhaddon đã đánh dấu sự kết thúc hoàn toàn của đế chế Kush ngắn ngủi.

Tuy nhiên, các chư hầu Ai Cập được Esarhaddon dựng lên đã không thể giữ được quyền kiểm soát toàn bộ đất nước một cách lâu dài. Hai năm sau, Taharqa quay trở lại từ Nubia và nắm quyền kiểm soát miền nam Ai Cập xa về phía bắc tới Memphis. Esarhaddon đã chuẩn bị để quay lại Ai Cập và một lần nữa để đánh đuổi Taharqa, tuy nhiên ông ta đã lâm bệnh và qua đời tại Nineveh, trước khi có thể rời Assyria. Vị vua kế vị, Ashurbanipal, đã phái một vị tướng Assyria có tên là Sha-Nabu-shu cùng với một đạo quân nhỏ, nhưng được huấn luyện tốt và đã đánh bại Taharqa tại Memphis, một lần nữa lại đánh đuổi ông ta ra khỏi Ai Cập. Taharqa qua đời ở Nubia hai năm sau đó.thumb|left|upright|[[Vương triều thứ Hai mươi lăm của Ai Cập|Vương triều thứ Hai mươi lăm]]

Vị vua kế vị ông, Tanutamun, cũng đã tiến hành một nỗ lực nhằm giành lại Ai Cập cho Nubia nhưng không thành công. Bước đầu ông đã đánh bại thành công Necho, vị vua chư hầu Ai Cập được Ashurbanipal dựng lên, chiếm lấy Thebes trong quá trình này. Assyria sau đó đã phái một đội quân lớn tiến về phía nam. Tantamani (Tanutamun) bị đánh tan tác và phải chạy trốn trở lại Nubia. Quân đội Assyria sau đó cướp phá Thebes đến mức nó không bao giờ thực sự hồi phục lại được nữa. Một vị vua bản xứ, Psammetichus I đã được đưa lên ngôi, như là một chư hầu của Ashurbanipal, và Nubia không bao giờ trở thành một mối de dọa cho cả Assyria và Ai Cập nữa.

Thời hậu nguyên (672 TCN – 332 TCN)

Do không có kế hoạch lâu dài cho cuộc chinh phục, người Assyria tổ chức việc cai trị Ai Cập thông qua một loạt các chư hầu được biết đến như là các vị vua Saite của triều đại thứ 26. Năm 653 TCN, vua Saite Psamtik I (lợi dụng thời điểm Assyria đang tham gia vào một cuộc chiến tranh khốc liệt nhằm chinh phục Elam và chỉ có một đội quân Assyria nhỏ đóng ở Ai Cập) đã có thể giành lại độc lập cho Ai Cập thoát khỏi ách thống trị của người Assyria với sự giúp đỡ của người Lydia và lính đánh thuê Hy Lạp, những người sau đó đã được tuyển mộ để tạo thành lực lượng hải quân đầu tiên của Ai Cập. Tuy nhiên, Psamtik và những vị vua kế vị ông đã cẩn trọng trong việc duy trì quan hệ hòa bình với Assyria. Ảnh hưởng của người Hy Lạp đã mở rộng một cách đáng kể và thành phố Naukratis đã trở thành khu định cư của người Hy Lạp ở vùng đồng bằng.

Năm 609 TCN, Necho II đã tiến hành chiến tranh với Babylon, người Chaldea, người Medes và Scythia trong một nỗ lực nhằm cứu lấy Assyria, vốn vừa trải qua một cuộc nội chiến tàn khốc lại đã bị liên minh các cường quốc này giày xéo. Tuy nhiên, những nỗ lực của Ai Cập đã thất bại. Nhưng người Ai Cập lại đã trì hoãn sự can thiệp quá lâu và khi Necho II phái quân đội của ông tiến về phía bắc thì lúc đó thành Nineveh đã thất thủ và vua Sinsharishkun cũng đã tử trận. Tuy nhiên, Necho đã dễ dàng đánh bại một đội quân Israel của vua Josiah nhưng ông và người Assyria sau đó lại bại trận tại Harran trước người Babylon, Medes và người Scythia. Necho II và Ashur-uballit II của Assyria cuối cùng đã bị đánh bại tại Carchemish ở Aramea (Syria ngày nay) vào năm 605 TCN. Người Ai Cập sau dó vẫn còn tiếp tục tranh giành khu vực này trong một vài thập kỷ nữa với các vị vua Babylon như Nabopolassar và Nebuchadnezzar II để kiểm soát những vùng đất còn lại của cựu đế quốc Assyria ở Levant. Tuy nhiên, họ đã dần dần bị đẩy lùi về Ai Cập, và Nebuchadnezzar II thậm chí đã xâm lược Ai Cập vào năm 567 TCN.

Sau khi bị sáp nhập vào đế quốc Ba Tư, Ai Cập cùng với Síp và Phoenicia (Lebanon ngày nay) tạo thành satrap thứ sáu của Đế quốc Achaemenid. Giai đoạn đầu tiên mà người Ba Tư thống trị Ai Cập, còn được biết đến như là triều đại thứ 27, kết thúc vào năm 402 TCN, và từ năm 380-343 TCN đánh dấu triều đại Ai Cập bản địa cuối cùng, được biết đến là triều đại thứ 30, kết thúc với sự trì vì của vua Nectanebo II. Sự thống trị của người Ba Tư được phục hồi sau đó, đôi khi được gọi là triều đại thứ 31, bắt đầu từ năm 343 TCN, nhưng không lâu sau, năm 332 TCN, viên phó vương Ba Tư Mazaces đã đầu hàng và đem dâng Ai Cập cho vua Alexander Đại đế của Macedonia.

Thời kỳ thuộc Hy Lạp

thumbnail|Alexander Đại đế, 100 TCN – 100 CN, 54.162, [[Bảo tàng Brooklyn]] Năm 332 trước Công nguyên, Alexander Đại đế chinh phục Ai Cập mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào từ đế chế Ba Tư và được người Ai Cập chào đón như là người giải phóng. Chính quyền được những người kế tục Alexander thành lập, triều đại Ptolemaios của Macedonia, dựa trên một mô hình của Ai Cập và trung tâm đặt tại kinh đô mới Alexandria. Thành phố đã trở thành một trung tâm về học thuật và văn hóa, với thư viện Alexandria nổi tiếng. Ngọn hải đăng Alexandria đã thắp sáng chỉ đường cho những con thuyền mà mang đến sự phồn vinh về thương mại cho thành phố.

Văn hóa Hy Lạp đã không thay thế văn hóa Ai Cập bản địa, bởi vì nhà Ptolemaios đã ủng hộ những truyền thống lâu đời nhằm đảm bảo sự trung thành của dân chúng. Họ đã xây dựng những ngôi đền mới theo phong cách Ai Cập, ủng hộ tôn giáo truyền thống, và miêu tả bản thân là pharaon. Một số truyền thống đã hợp nhất với nhau, ví dụ như các vị thần Hy Lạp và Ai Cập đã hợp nhất với nhau thành các vị thần được thờ phụng chung, như Serapis, và các hình mẫu cổ điển của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã chịu ảnh hưởng từ các họa tiết truyền thống của Ai Cập. Bất chấp những nỗ lực của họ để xoa dịu người dân Ai Cập, nhà Ptolemaios đã bị thách thức bởi cuộc khởi nghĩa của cư dân bản địa, tranh chấp nội bộ, và bởi cả đông đảo cư dân Alexandria sau khi Ptolemaios IV qua đời.

Ngoài ra, bởi vì La Mã ngày càng dựa nhiều hơn vào ngũ cốc nhập khẩu từ Ai Cập, người La Mã đã dành sự quan tâm rất lớn đối với tình hình chính trị ở Ai Cập. Những cuộc khởi nghĩa của người Ai Cập tiếp tục nổ ra, các chính trị gia đầy tham vọng, và các đối thủ hùng mạnh tới từ vùng Cận Đông càng làm cho tình hình trở nên mất ổn định, dẫn đến việc Rome phái quân đến bảo vệ Ai Cập như là một tỉnh thuộc đế chế.

Thời kì thuộc La Mã

upright|[[Chân dung xác ướp Fayum, hình ảnh hội tụ cả văn hóa Ai Cập và La Mã.]] Ai Cập trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã vào năm 30 trước Công nguyên, sau thất bại của Marcus Antonius và nữ hoàng Cleopatra VII trước Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) trong trận Actium. Người La Mã phụ thuộc chủ yếu vào các chuyến hàng ngũ cốc từ Ai Cập, và quân đội La Mã, thuộc thẩm quyền của thái thú được bổ nhiệm bởi Hoàng đế, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa, thi hành nghiêm túc việc thu thuế nặng, và ngăn chặn cuộc tấn công của bọn cướp, mà đã trở thành một vấn đề nổi tiếng trong giai đoạn này Alexandria đã trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng trên tuyến đường thương mại với phương đông, vì những của cải xa hoa kỳ lạ có nhu cầu cao tại Rome.

Mặc dù người La Mã đã có một thái độ thù địch hơn so với người Hy Lạp đối với người Ai Cập, một số truyền thống như ướp xác và thờ cúng các vị thần truyền thống vẫn tiếp tục. Nghệ thuật vẽ chân dung xác ướp phát triển rực rỡ, và một số của các hoàng đế La Mã đã tự mô tả mình như pharaon, mặc dù không đến mức độ như nhà Ptolemaios trước đây.

Từ giữa thế kỷ thứ nhất, Kitô giáo đã bắt đầu bén rễ ở Ai Cập và ban đầu được xem như một tôn giáo có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, đây là một tôn giáo không thỏa hiệp và luôn cố gắng cải đạo những người theo tôn giáo truyền thống của Ai Cập và tôn giáo Hy Lạp-La Mã cổ đại, và đe dọa các truyền thống tôn giáo lâu đời. Điều này dẫn đến những cuộc đàn áp những người cải đạo sang Kitô giáo, mà đỉnh cao là cuộc đại thanh trừng của Diocletianus bắt đầu vào năm 303, nhưng cuối cùng Kitô giáo đã thắng thế. Năm 391, hoàng đế Theodosius ban pháp lệnh nghiêm cấm các nghi thức thờ cúng đa thần giáo và đóng cửa các ngôi đền. Còn tại thành Alexandria thì đã diễn ra cuộc bạo loạn lớn chống lại đa thần giáo với việc phá hủy những hình tượng tôn giáo công cộng và tư nhân. Như là một hệ quả của điều này, văn hóa tôn giáo bản địa của Ai Cập đã dần biến mất. Trong khi những cư dân bản địa tiếp tục nói ngôn ngữ của họ, thì khả năng đọc những ghi chép bằng chữ tượng hình dần dần biến mất bởi vì vai trò của các giáo sĩ và nữ tư tế trong các ngôi đền Ai Cập ngày càng suy giảm. Các ngôi đền cổ bị chuyển đổi thành những nhà thờ Kitô giáo hoặc bị bỏ hoang trong sa mạc.

Chính quyền và kinh tế

Tổ chức chính quyền và thương nghiệp

thumb|upright|Pharaon thường được miêu tả mang những biểu tượng của hoàng gia và quyền lực.Pharaon là người nắm giữ toàn bộ quyền lực tối cao của vương quốc, và ít nhất là trên lý thuyết sở hữu toàn bộ đất đai cùng tất cả các nguồn tài nguyên của nó. Nhà vua là tổng tư lệnh tối cao của quân đội và là người đứng đầu nhà nước, dựa vào một bộ máy quan lại giúp ông quản lý công việc của mình. Đứng đầu chính quyền của nhà nước chỉ sau nhà vua là tể tướng, người đóng vai trò là đại diện và quản lý toàn bộ đất đai, quốc khố, các công trình xây dựng, hệ thống pháp luật, và các tài liệu lưu trữ. Ở cấp độ khu vực, đất nước được chia thành 42 khu vực hành chính gọi là các nome nằm dưới sự cai trị bởi một nomarch, những người nằm dưới sự giám sát của tể tướng. Các ngôi đền hình thành nên xương sống của cả nền kinh tế. Không chỉ là nơi thờ cúng, chúng còn giữ nhiệm vụ thu gom và tích trữ của cải của vương quốc trong một hệ thống các kho thóc và Kho bạc được quản lý bởi những đốc công, họ giữ trọng trách phân phối thóc lúa và hàng hóa.

Phần lớn nền kinh tế được tổ chức một cách tập trung và nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Mặc dù những người Ai Cập cổ đại không sử dụng tiền đúc cho đến thời kỳ hậu nguyên, họ đã sử dụng một loại hệ thống trao đổi hàng hóa, sử dụng các bao tải thóc để làm tiêu chuẩn và deben, trọng lượng khoảng 91 gram (3 oz) bằng đồng hoặc bạc để tạo nên một đơn vị đo lường chung. Người lao động được trả bằng thóc và một người lao động bình thường có thể kiếm được 5 ½ bao tải (200 kg hoặc 400 lb) thóc mỗi tháng, trong khi một quản đốc có thể kiếm được 7½ bao tải (250 kg hoặc 550 lb). Giá cả được cố định trên toàn quốc và được ghi vào sổ sách để tạo điều kiện cho việc kinh doanh; ví dụ như một chiếc áo có giá năm deben đồng, trong khi một con bò có giá 140 deben.

Địa vị xã hội

Xã hội Ai Cập đã có sự phân chia giai cấp ở mức độ cao, và địa vị xã hội đã được phân biệt rõ ràng. Nông dân chiếm phần đông trong xã hội, nhưng nông sản lại thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước, đền thờ, hay các gia đình quý tộc mà sở hữu đất đai. Nông dân cũng phải chịu thuế lao động và bị buộc phải tham gia lao động trong các dự án thủy lợi, các công trình xây dựng theo một hệ thống sưu dịch. Nghệ sĩ và thợ thủ công lại có địa vị cao hơn nông dân, nhưng họ cũng nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, làm việc tại các phân xưởng gắn với những ngôi đền và được trả lương trực tiếp từ quốc khố. Các viên ký lục và quan lại hình thành nên tầng lớp thượng lưu ở Ai Cập cổ đại, được gọi là "tầng lớp váy trắng", một sự ám chỉ đến việc sử dụng quần áo bằng vải lanh màu trắng như là một dấu hiệu cho địa vị của họ. Tầng lớp thượng lưu này còn làm nổi bật địa vị xã hội của họ thông qua nghệ thuật và văn học. Bên dưới giới quý tộc là các giáo sĩ, thầy thuốc, và các kỹ sư được đào tạo một cách chuyên môn trong lĩnh vực của họ. Nô lệ cũng đã được biết đến ở Ai Cập cổ đại, nhưng mức độ và tỷ lệ của nó lại không rõ ràng. left|thumb|Trừng phạt ở Ai Cập cổ đại. thumb|Những lao động trẻ tuổi người Ai Cập đang được thầy thuốc chữa trị. Người Ai Cập cổ đại coi đàn ông và phụ nữ, kể cả tất cả mọi người đến từ tất cả các tầng lớp xã hội, ngoại trừ nô lệ, về cơ bản là bình đẳng với nhau theo quy định của pháp luật, và ngay cả những người nông dân dưới đáy cũng được quyền kiến ​​nghị tới tể tướng và triều đình. Mặc dù, nô lệ được sử dụng chủ yếu như là những người hầu chịu sự ràng buộc. Họ có thể bị mua và bán, hoặc có thể làm việc tự do và thường được điều trị bởi các thầy thuốc tại nơi làm việc. Cả đàn ông và phụ nữ đều có quyền sở hữu và mua bán tài sản, ký kết hợp đồng, kết hôn và ly hôn, nhận thừa kế, và theo đuổi các tranh chấp pháp lý tại tòa án. Các cặp vợ chồng có thể sở hữu tài sản chung và bảo vệ bản thân khi ly dị bằng cách đồng ý hợp đồng hôn nhân, trong đó quy định các nghĩa vụ tài chính của người chồng đối với vợ và con cái khi kết thúc cuộc hôn nhân của họ. So với phụ nữ ở Hy Lạp cổ đại, La Mã, và thậm chí là nhiều nơi trên thế giới vào ngày nay, phụ nữ Ai Cập cổ đại đã có nhiều quyền lợi hơn. Những người phụ nữ như Hatshepsut và Cleopatra VII thậm chí đã trở thành các pharaon, trong khi nhiều người khác nắm giữ địa vị Người vợ thần thánh của Amun. Mặc dù có được nhiều quyền tự do, phụ nữ Ai Cập cổ đại lại không thường xuyên nắm giữ các vị trí chính thức trong chính quyền, họ chỉ giữ vai trò thứ yếu trong các ngôi đền, và không được nhận nền giáo dục như nam giới.

Hình phạt cho những tội lỗi nhỏ có thể là phạt tiền, đánh đập, cắt xẻo khuôn mặt, hay lưu đày, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Những tội nghiêm trọng như giết người và cướp mộ thì bị trừng phạt bằng cách xử tử, có thể bằng cách chém đầu, dìm chết đuối, hoặc đóng cọc đối với người phạm tội. Hình phạt cũng có thể được mở rộng ra đối với gia đình của người phạm tội.

Nông nghiệp

thumb|left|Công tác đo đạc và ghi chép được minh họa trên một bức tranh in tường tại lăng mộ của [[TT69|Menna, ở Thebes, Ai Cập (Vương triều thứ Mười tám)]]

Sự kết hợp các điều kiện địa lý thuận lợi góp phần vào sự thành công của văn hóa Ai Cập cổ đại, quan trọng nhất trong đó là đất đai có độ màu mỡ cao, kết quả từ sự ngập lụt hàng năm của sông Nile. Như vậy, người Ai Cập cổ đại có thể tạo ra một nguồn lương thực dồi dào, cho phép dân cư dành nhiều thời gian và nguồn lực cho các mục đích văn hóa, kĩ thuật, và nghệ thuật. Quản lý đất đai có vai trò rất quan trọng trong thời Ai Cập cổ đại bởi vì số thuế được dựa trên số lượng đất mà một người sở hữu.

Công việc đồng áng ở Ai Cập phụ thuộc vào chu kỳ của sông Nile. Người Ai Cập ghi nhận ba mùa: Akhet (lũ lụt), Peret (trồng trọt), và Shemu (thu hoạch). Mùa lũ lụt kéo dài từ tháng sáu tới tháng chín, bồi đắp hai bên bờ sông một lớp phù sa lý tưởng, giàu khoáng chất cho việc trồng trọt. Sau khi nước lũ rút, mùa gieo trồng kéo dài từ Tháng Mười tới tháng hai. Nông dân cày và trồng hạt giống trên các cánh đồng, được tưới bằng mương, kênh rạch. Ai Cập vốn có lượng mưa hàng năm ít, do đó, nông dân đã dựa vào sông Nile để tưới nước cho cây trồng của họ Từ tháng ba tới tháng năm, nông dân sử dụng liềm để thu hoạch cây trồng của họ, mà sau đó đã đập với một cái đập lúa một để tách riêng rơm khỏi hạt thóc lúa. Sàng lọc loại bỏ trấu khỏi thóc, các hạt thóc lúa sau đó được nghiền thành bột, ủ làm bia, hoặc được lưu trữ để sử dụng sau này.nhỏ|upright|Một bức phù điêu từ ngôi mộ của [[TT52|Nakht mô tả cảnh người lao động đang cày ruộng, thu hoạch mùa vụ, và đập lúa dưới sự chỉ đạo của một quản đốc.]]Người Ai Cập cổ đại trồng lúa mì và lúa mạch, và một số loại ngũ cốc khác, tất cả đều được sử dụng để làm cho hai loại thực phẩm chính là bánh mì và bia Các cây lanh bị nhổ bật gốc trước khi chúng bắt đầu ra hoa, vốn được trồng để lấy sợi. Những sợi này được tách dọc theo chiều dài của nó và xe thành sợi, được sử dụng để dệt vải lanh và may quần áo. Cây cói mọc trên các bờ của sông Nile đã được sử dụng để làm giấy. Rau và hoa quả được trồng ở những mảnh đất vườn, gần các ngôi nhà và trên khu đất cao hơn, và phải được tưới nước bằng tay. Rau bao gồm tỏi tây, tỏi, dưa hấu, bí, đậu, rau diếp, và các cây trồng khác, ngoài ra còn có nho đã được chế biến thành rượu.

Động vật

Người Ai Cập tin rằng một mối quan hệ cân bằng giữa con người và động vật là một yếu tố thiết yếu của trật tự vũ trụ, do đó con người, động vật và thực vật được cho là thành viên của một tổng thể chung duy nhất . Gia súc là những vật nuôi quan trọng nhất, việc quản lý thuế đánh vào vật nuôi trong những cuộc tổng điều tra thường xuyên, và kích thước của một đàn phản ánh uy tín và tầm quan trọng của điền trang hoặc ngôi đền mà sở hữu chúng. Ngoài ra cho gia súc, người Ai Cập cổ còn nuôi cừu, dê và lợn. Gia cầm như vịt, ngan, ngỗng, chim bồ câu đã bị bắt do mắc bẫy và được nuôi ở các trang trại, nơi chúng đã bị ép ăn với bột để vỗ béo. Ngoài ra sông Nile còn là một nguồn cung cấp cá phong phú. Ong cũng được thuần hóa ít nhất là từ thời Cổ Vương quốc, và chúng đã cung cấp cả mật ong và sáp.

nhỏ|trái|Sennedjem cày ruộng của ông với một cặp bò.Người Ai Cập cổ đại sử dụng lừa và bò để chuyên chở, và chúng còn được sử dụng trong việc cày ruộng và gieo hạt giống. Việc giết mổ một con bò được vỗ béo cũng là một phần trọng tâm trong các nghi lễ thờ cúng.

Tài nguyên

Ai Cập có nguồn tài nguyên đá phong phú dành cho các công trình xây dựng, cùng với đồng và chì, vàng, và đá bán quý. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên này cho phép người Ai Cập cổ đại xây dựng các công trình kiến trúc, tạc tượng, chế tạo các công cụ và đồ trang sức. Quá trình ướp xác sử dụng muối từ Natrun Wadi để làm khô các xác ướp, ngoài ra còn cung cấp nguồn thạch cao cần thiết để làm vữa. Còn có những mỏ vàng lớn Nubia, và một trong những bản đồ đầu tiên được biết đến là bản đồ về một mỏ vàng ở khu vực này. Wadi Hammamat là nơi cung cấp nguồn đá granit nổi tiếng, greywacke, và vàng. Đá lửa là loại khoáng chất đầu tiên được thu thập và sử dụng để làm công cụ, và những chiếc rìu đá là bằng chứng sớm nhất về quá trình định cư ở khu vực thung lũng sông Nile. Những viên đá nhỏ đã được mài một cách cẩn thận để làm lưỡi dao và đầu mũi tên nhờ vào độ cứng vừa phải của chúng và độ bền thậm chí chỉ kém đồng mà được sử dụng để thay thế sau này. Người Ai Cập cổ đại là những người đầu tiên sử dụng các khoáng chất như lưu huỳnh làm mỹ phẩm.

Người Ai Cập còn biết tách galen ra khỏi quặng chì tại Gebel Rosas để chế tạo lưới chì, các quả dọi bằng chì, và những bức tượng nhỏ. Đồng là kim loại quan trọng nhất được sử dụng để chế tạo công cụ ở Ai Cập cổ đại và loại quặng malachite dùng để nấu đồng lại được khai thác ở Sinai. Công nhân khai thác vàng bằng cách đãi quặng vàng ra khỏi các lớp đá trầm tích, hoặc thông qua quá trình nghiền và đãi loại quặng vàng lẫn với quartzi vốn tốn nhiều công sức. Quặng sắt được tìm thấy ở thượng Ai Cập đã được sử dụng vào thời Hậu nguyên. Những loại đá xây dựng với chất lượng cao rất dồi dào ở Ai Cập, người Ai Cập cổ đại đã khai thác đá vôi dọc theo thung lũng sông Nile, đá granite từ Aswan, và đá bazan cùng đá sa thạch từ các con sông cạn ở sa mạc phía đông. Những loại đá dùng để chạm khắc như Pocfia, greywacke, thạch cao tuyết hoa, và carnelian nằm rải rác ở sa mạc phía đông và được khai thác từ trước khi triều đại đầu tiên được lập nên. Vào thời kỳ nhà Ptolemaios và La Mã cai trị, người Ai Cập đã tiến hành khai thác đá ngọc lục bảo ở Wadi Sikait và thạch anh tím ở Wadi el-Hudi.

Thương mại

thumb|Cuộc chinh phạt thương mại của Pharaon [[Hatshepsut đến Xứ Punt.]]

Người Ai Cập cổ đại đã tiến hành giao thương với các nước láng giềng ngoại quốc của họ để có được hàng hóa quý hiếm và kỳ lạ vốn không được tìm thấy ở Ai Cập. Trong giai đoạn Tiền triều đại, họ đã thiết lập thương mại với Nubia để có được vàng và hương liệu. Họ cũng thiết lập thương mại với Palestine với bằng chứng là những chiếc bình quai chứa dầu theo phong cách Palestine đã được tìm thấy trong các ngôi mộ của các pharaon thuộc triều đại thứ nhất. Một khu thực dân của người Ai Cập đã được thiết lập ở miền nam Canaan có niên đại vào giai đoạn trước khi triều đại thứ nhất bắt đầu. Vua Narmer còn có các đồ gốm Ai Cập được sản xuất tại Canaan và sau đó xuất khẩu trở lại Ai Cập.

Tới triều đại thứ hai, thương mại giữa Ai Cập cổ đại với Byblos đã giúp cho Ai Cập có được một nguồn cung cấp gỗ chất lượng vốn không có ở Ai Cập. Đến triều đại thứ năm, thương mại với Punt đã đem về vàng, nhựa thơm, gỗ mun, ngà voi và các loài động vật hoang dã như khỉ và khỉ đầu chó. Thương mại giữa Ai Cập với khu vực Anatolia đã mang về một lượng lớn thiếc cần thiết cũng như nguồn cung cấp đồng bổ sung, cả ở dạng kim loại và quặng đồng dùng cho việc chế tạo đồ đồng. Người Ai Cập cổ đại cũng rất coi trọng loại đá lapis lazuli màu xanh, mà phải nhập khẩu từ vùng đất Afghanistan xa xôi. Các đối tác thương mại ở Địa Trung Hải của Ai Cập còn bao gồm cả người Hy Lạp và Crete, họ đã cung cấp cho người Ai Cập nhiều loại hàng hóa khác nhau trong đó có dầu olive. Về phần mình, Ai Cập chủ yếu xuất khẩu ngũ cốc, vàng, vải lanh, và giấy cói, ngoài ra còn bao gồm cả thủy tinh và những đồ vật bằng đá.

Ngôn ngữ

Lịch sử phát triển

Tiếng Ai Cập là một ngôn ngữ Phi-Á phía bắc có mối quan hệ gần gũi với tiếng Berber và ngôn ngữ Semite. Nó là một trong những ngôn ngữ có lịch sử lâu đời nhất (chỉ sau tiếng Sumer), và được viết từ khoảng năm 3200 TCN cho đến thời Trung Cổ và tồn tại là một ngôn ngữ nói còn lâu hơn nữa. Các giai đoạn của tiếng Ai Cập cổ đại là Cổ Ai Cập, Trung Ai Cập (tiếng Ai Cập cổ điển), Hậu kỳ Ai Cập, ngôn ngữ bình dân và tiếng Copt. Những ghi chép của người Ai Cập không cho thấy sự khác biệt về phương ngữ trước giai đoạn Copt, nhưng có thể co sự khác biệt trong cách nói tiếng địa phương ở khu vực xung quanh Memphis và Thebes sau này.

Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại là một ngôn ngữ đa tổng hợp, nhưng nó đã dần trở thành một loại ngôn ngữ đơn lập sau này. Đến giai đoạn Hậu kỳ Ai Cập, nó đã phát triển các tiền tố hạn định và các mạo từ bất định, mà thay thế cho các hậu biến tố cũ. Đã có một sự thay đổi từ thứ tự động từ-chủ ngữ-bổ ngữ cũ thành dạng chủ ngữ-động từ-bổ ngữ. Các ghi chép bằng chữ tượng hình, chữ thầy tu, và ngôn ngữ bình dân Ai Cập đã dần dần bị thay thế bằng bảng chữ cái ngữ âm của tiếng Copt. Tiếng Copt vẫn được sử dụng trong các nghi thức tế lễ của Giáo hội Chính Thống Ai Cập, và dấu vết của nó còn được tìm thấy ở trong ngôn ngữ Ai Cập Ả Rập ngày nay.

Phát âm và ngữ pháp

Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại có 25 phụ âm tương tự với những ngôn ngữ Phi-Á khác. Chúng bao gồm phụ âm đầu và trọng âm, âm tắc, âm xát và âm rung, âm vang và âm ồn. Nó có ba nguyên âm dài và ba nguyên âm ngắn, sau này vào thời Hậu kỳ Ai Cập thì nó được mở rộng lên thành chín. Các từ cơ bản của tiếng Ai Cập tương tự như tiếng Semite và Berber, bao gồm ba hoặc hai gốc phụ âm và bán phụ âm. Hậu tố được thêm vào để tạo thành từ. Việc chia động từ tương ứng với ngôi. Ví dụ, bộ khung ba phụ âm ** là phần cốt lõi ngữ nghĩa của từ 'nghe'; chia động từ cơ bản của nó là ', 'ông ta nghe'. Nếu chủ ngữ là một danh từ, hậu tố không được thêm vào động từ: **', 'người phụ nữ nghe'.

Tính từ được tạo thành từ danh từ thông qua một quá trình mà các nhà Ai Cập học gọi là nisbation vì sự tương đồng so với tiếng Ả Rập. Thứ tự của từ là trong động từ và tính từ, và trong danh từ và phó từ. Chủ ngữ có thể được di chuyển đến đầu câu nếu nó dài và được theo sau bởi một đại từ bổ ngữ. Các động từ và danh từ dạng phủ định thì thêm tiếp đầu ngữ n, còn nn được sử dụng cho các trạng từ và tính từ. Trọng âm rơi vào âm tiết cuối cùng hoặc áp chót, có thể là mở âm (CV) hoặc đóng âm (CVC).

Chữ viết

thumb|trái|[[Phiến đá Rosetta (khoảng năm 196 TCN).]]thumb|Chữ tượng hình Ai Cập trên một tấm bia mộ cất giữ ở [[Bảo tàng Manchester]] Những ghi chép bằng chữ tượng hình có ni

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Nghệ thuật Ai Cập cổ đại** đề cập tới nền nghệ thuật được sản sinh trong thời kỳ Ai Cập cổ đại từ thế kỷ thứ 6 TCN cho tới thế kỷ thứ 4 SCN,
**Tôn giáo Ai Cập cổ đại** bao gồm các niềm tin, nhân vật chính, tôn giáo và nghi thức khác nhau tại Ai Cập cổ đại qua hơn 3.000 năm, từ thời kỳ Tiền Triều
thumb|right|Bức tranh tường thuộc giai đoạn đầu [[Vương triều thứ Mười Chín của Ai Cập|thời đại Ramesses từ ngôi mộ ở Deir el-Medina miêu tả một cặp vợ chồng người Ai Cập đang thu hoạch
nhỏ|Serekh, tên của [[Djet, bức chửa bằng đá này được trưng bày ở Bảo tàng Louvre, Pháp|264x264px]] **Tên hiệu hoàng gia của một pharaon Ai Cập cổ đại** là một hoặc nhiều loại tên được
**Toán học Ai Cập cổ đại** là một nền toán học được phát triển và sử dụng tại Ai Cập cổ đại, từ khoảng 3000 TCN đến 300 TCN, từ Cựu Vương triều Ai Cập
nhỏ|Trang phục của nam và nữ thuộc các giai cấp khác nhau. Ảnh trên tường mộ của tư tế Nakht (thời vua [[Thutmosis IV|Thutmose IV)]] **Trang phục Ai Cập cổ đại** chỉ đến những trang
**Heliopolis** là một thành phố lớn của Ai Cập cổ đại. Đây là thủ phủ của Heliopolite, nome thứ 13 của Hạ Ai Cập và là một trung tâm tôn giáo lớn, hiện bây giờ
**Thời kỳ Hậu nguyên của Ai Cập cổ đại** đề cập đến các triều đại cuối cùng của những nhà cai trị Ai Cập bản địa sau Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba trong Vương
Ba con bò. Đồ gỗ sơn từ thời kỳ [[Trung Vương quốc Ai Cập|Trung Vương quốc, khoảng 2033–1710 TCN, tìm thấy trong nghĩa địa Deir el-Bersheh.]] **Bò Ai Cập cổ đại** (danh pháp hai phần
nhỏ|336x336px|Một người đàn ông đang cày ruộng. Tranh trên tường mộ của Sennedjem (ngôi mộ [[TT1)]] **Nền nông nghiệp Ai Cập cổ đại** đã phải mang ơn rất lớn từ dòng sông Nin vì đây
nhỏ|362x362px|Phù điêu khác họa hình ảnh của việc đưa tang cổ Ai CậpNgười Ai Cập cổ đại có một tập quán chôn cất độc đáo, riêng biệt, được xây dựng từ tập hợp của nhiều
nhỏ|phải|Họa phẩm của John Collier năm 1883 về các tỳ nữ của Pharaoh nhỏ|phải|Biểu tượng hoa văn của Ai Cập **Ai Cập cổ đại** dưới góc nhìn của thế giới phương Tây (_Ancient Egypt in
phải|Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin (Nile) vùng đông bắc châu
**Tôn giáo Ai Cập cổ đại** là một tôn giáo theo đa thần đầu tiên. Nhưng những vị thần phụ chỉ là hỗ trợ cho những thần chính và họ không có trách nhiệm bảo
nhỏ|320x320px|Cỗ quan tài gỗ của Mayet **Mayet** (còn đọc là **Miiut** hoặc **Miit**, nghĩa là "_con mèo_"), là tên của đứa bé gái được chôn trong khu phức hợp đền thờ của pharaon Mentuhotep II
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
right|thumb|Biểu đồ từ [[trần thiên văn của lăng mộ Senemut|lăng mộ của Senemut, triều đại thứ 18]] **Thiên văn học Ai Cập** bắt đầu từ thời tiền sử, trong Ai Cập cổ đại. Vào thiên
**Lam Ai Cập** hay **xanh Ai Cập** là tên gọi để chỉ màu có từ **bột màu lam Ai Cập** hay **calci đồng silicat** (CaCuSi4O10 hoặc CaOCuO(SiO2)4 (calci đồng tetrasilicat)), một bột màu được sử
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Giả thuyết người Ai Cập Da đen** là giả thuyết cho rằng Ai Cập cổ đại là một nền văn minh phần lớn là người Da đen, vì thuật ngữ này hiện được hiểu theo
**Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại** hay **Vương triều thứ 18** (bắt đầu năm 1543 TCN - kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
Thủ đô hiện tại của **Ai Cập** là Cairo. Tuy nhiên, trong lịch sử, thủ đô của Ai Cập đã nhiều lần thay đổi. ## Danh sách thủ đô Ai Cập cổ đại Đây là
thumb|Đền thờ [[Isis ở Philae.]] **Đền thờ Ai Cập** được xây dựng để thờ phụng các vị thần và các vị pharaon Ai Cập cổ đại và trong khu vực dưới sự kiểm soát Ai
**Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất của Ai Cập** hay **Thời kì Trung gian thứ Nhất** là một khoảng thời gian trong lịch sử Ai Cập, thường được mô tả như một "thời kì đen
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
nhỏ|Danh sách các pharaon của Vương triều thứ Hai theo [[Danh sách Vua Saqquara và Danh sách Vua Abydos.]] **Vương triều thứ Hai của Ai Cập cổ đại** (ký hiệu: **Vương triều thứ II**, từ
nhỏ|Ngôi đền tang lễ cổ đại của [[Djoser, ở Saqqara]] **Vương triều thứ Ba của Ai Cập cổ đại** là triều đại thứ ba của lịch sử Ai Cập cổ đại và là vương triều
Trong lịch sử Ai Cập cổ đại, mỗi vương triều là thời kỳ mà các vị pharaon cùng chung dòng tộc hoặc trong cùng gia đình nối tiếp cai trị vương quốc. Ai Cập cổ
**Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 25**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Nubia** hoặc **Đế chế Kush** là vương triều cuối cùng của
thumb|[[Nu (thần thoại)|Nun, hiện thân của mặt nước nguyên thủy, nâng con thuyền mặt của thần Ra vào trong bầu trời vào thời điểm tạo hóa.]] **Thần thoại Ai Cập** là tập hợp các thần
**Vương triều thứ Mười Chín của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 19**) là một trong những triều đại của Tân Vương quốc Ai Cập. Được thành lập bởi tể tướng Ramesses I và
**Vương triều thứ Nhất của Ai Cập** cổ đại (hoặc **vương triều thứ Nhất**, ký hiệu: **Triều I**) bao gồm một loạt các vị vua Ai Cập đầu tiên đã cai trị một vương quốc
**Vương triều thứ Hai Mươi** (**Vương triều thứ 20**) của Ai Cập cổ đại là một vương triều thuộc thời kỳ Tân Vương quốc. Vương triều này cùng với hai Vương triều trước đó là
**Vương triều thứ Mười Bốn của Ai Cập** (**Vương triều thứ 14**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập trong lịch sử Ai Cập cổ đại, nằm trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
**Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 21**) là một triều đại pharaon cai trị Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba. Thời kỳ này cũng
**Vương triều thứ Mười Một của Ai Cập** (**Vương triều thứ 11**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập cổ đại. Vương triều đã tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 2025
trái|nhỏ|173x173px|Một mặt nạ xác ướp thuộc Vương triều thứ 30 **Vương triều thứ Ba Mươi của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 30**) là một vương triều được cai trị bởi các pharaon Ai
**Vương triều thứ Ba Mươi Mốt của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 31**) là một vương triều thuộc Thời kỳ Hậu nguyên và **Thời kỳ Satrap Ai Cập thứ hai** đã tồn tại
**Vương triều thứ Mười Lăm của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 15**) là một triều đại các vua cai trị Ai Cập, kéo dài từ năm 1650 đến năm 1550 trước Công nguyên,
**Vương triều thứ Mười Sáu của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 16**) là một triều đại của các vua cai trị ở Thượng Ai Cập trong vòng 70 năm từ năm 1650-1580 TCN.
**Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập** (**Vương triều thứ 17**) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.
Một mảnh vỡ của tấm bia đá Palermo ghi chép lại sự trở về của đội tàu dưới triều đại của Sneferu - Bảo tàng Petrie, London **Vương triều thứ Tư của Ai Cập cổ
**Vương triều thứ Hai Mươi Tám của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 28**; 404 TCN - 398 TCN) là một triều đại cai trị trong lịch sử Ai Cập cổ đại, thuộc Thời
**Vương triều thứ Hai Mươi Bảy của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 27**) còn được gọi là **Thời kỳ Ai Cập Satrap thứ nhất** là một triều đại trong lịch sử Ai Cập.
**Vương triều thứ Hai Mươi Bốn của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 24**) là một vương triều trong thời đại pharaon Ai Cập thuộc Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba, bao gồm các
**Vương triều thứ Mười Hai của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 12**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập, nằm trong Thời kỳ Trung Vương quốc, bắt đầu từ năm 1991
thumb|Tượng của một người thuộc hoàng gia và người quản lý cao cấp Gebu, vương triều thứ 13, 1700 TCN, lấy từ đền thờ Amun ở Karnak. **Vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập