Konstantinos IV (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là Pogonatos nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến 685. Triều đại của Konstantinos IV đã chứng kiến sự dừng lại nghiêm trọng đầu tiên sau gần 50 năm Hồi giáo bành trướng mà không bị gián đoạn, trong khi lời triệu tập Công đồng Đại kết thứ sáu của ông thì lại xem là sự kết thúc của cuộc tranh cãi thuyết Nhất ý luận tại Đế quốc Đông La Mã.
Sự nghiệp ban đầu
Là con trưởng của Konstans II, Konstantinos IV được cha mình phong làm đồng hoàng đế vào năm 654. Ông phụ trách việc quản lý các công việc ở Constantinopolis khi Konstans II vắng mặt kéo dài ở Ý và trở thành Hoàng đế lớn khi Konstans bị ám sát vào năm 668. Mẹ ông là Fausta, con gái của nhà quý tộc Valentinus. Nhiệm vụ đầu tiên của vị Hoàng đế mới là đàn áp cuộc nổi dậy của quân đội ở Sicilia dưới trướng Mezezios, kẻ tiếm ngôi đã gây ra cái chết của phụ hoàng. Trong vòng bảy tháng kể từ khi lên ngôi, Konstantinos IV đã xử lý cuộc nổi dậy với sự ủng hộ của Giáo hoàng Vitalian. Tuy nhiên, thành công này đã bị lu mờ bởi những rắc rối ở phía đông.
Ngay từ đầu năm 668, Caliph Muawiyah I nhận được lời mời của Saborios, viên tướng chỉ huy quân đội ở Armenia sang giúp lật đổ Hoàng đế ở Constantinopolis. Muawiyah chấp thuận rồi gửi một đội quân dưới quyền hoàng nam Yazid chống lại Đế quốc Đông La Mã. Yazid tiến quân tới Chalcedon và đánh chiếm Amorion, một trung tâm quan trọng của Đông La Mã lúc bấy giờ. Khi thành phố mau chóng được hồi phục, người Ả Rập lại tiếp tục tấn công Carthage và Sicilia vào năm 669. Năm 670, người Ả Rập chiếm được Cyzicus và thiết lập một căn cứ tại đây để phát động nhiều cuộc tấn công hơn nữa vào trung tâm của Đế chế. Cuối cùng vào năm đó, người Ả Rập đã gửi một hạm đội lớn tấn công Constantinopolis bằng đường biển. Trong lúc Konstantinos đang bị phân tâm bởi chuyện này thì người Slav phải chịu thảm bại khi tấn công Thessalonika. trước khi kết thúc năm đấy; trong những tháng mùa đông một số tàu thuyền còn neo đậu tại Smyrna, số còn lại nằm ngoài khơi bờ biển Cilicia. Thêm một hạm đội khác được tăng cường cho lực lượng của Abd ar-Rahman trước khi họ khởi hành tới Hellespontos, từ đây họ đi thuyền trong khoảng tháng 4 năm 674. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 674, đoàn tàu thả neo từ mũi đất Hebdomon, nằm trên Propontis, xa đến tận mũi đất Kyklobion, gần Cổng Vàng, và trong suốt những tháng tiếp theo thì giao chiến với hạm đội Đông La Mã bảo vệ bến cảng từ sáng đến tối.
Biết rằng nó chỉ là vấn đề thời gian trước khi Constantinopolis bị vây hãm, Konstantinos đảm bảo rằng thành phố sẽ được chu cấp đầy đủ. Ông còn cho đóng một số lượng lớn hỏa thuyền và các loại thuyền buồm nhanh được trang bị các ống phun lửa. Đây là trường hợp đầu tiên sử dụng lửa Hy Lạp được biết đến trong chiến đấu, đó là một trong những lợi thế quan trọng mà người Đông La Mã sở hữu. Vào tháng 9, người Ả Rập đã thất bại trong nỗ lực chiếm thành phố của họ, liền dong buồm quay về Cyzicus mà họ đã thực hiện trong suốt mùa đông. Trong năm năm tiếp theo, người Ả Rập đều quay trở lại mỗi mùa xuân để tiếp tục vây hãm Constantinopolis nhưng với kết quả tương tự. Thành phố sống sót và cuối cùng đến năm 678 người Ả Rập đã buộc phải gia tăng cường độ bao vây. Người Ả Rập rút lui và đã gần như đồng thời bị đánh bại trên đất liền ở Lycia tại Anatolia. Việc chấm dứt cuộc vây hãm cho phép Konstantinos điều quân giải vây Thessalonika đang bị người Slav bao vây. Tháng 11 năm 680, Konstantinos cho triệu tập Công đồng Chung thứ sáu (còn được gọi là Công đồng Constantinopolis thứ ba). Công đồng tái khẳng định các học thuyết Chính Thống giáo của Công đồng Chalcedon năm 451. Điều này giải quyết được tranh cãi của thuyết Nhất ý luận; tạo sự thuận tiện cho Đế quốc, nhất là hầu hết khu vực của phái này đều nằm dưới sự kiểm soát của Umayyad Caliphate.thumb|left|Một đồng [[solidus (tiền)|solidus khắc họa hình Konstantinos và anh em của mình, được đúc từ trước năm 681 khi về sau ông này bị tùng xẻo.]]Do các cuộc xung đột đang diễn ra với người Ả Rập trong suốt thập niên 670, Konstantinos đã buộc phải ký kết hiệp ước hòa bình ở phía tây với người Lombard đang chiếm giữ Brindisi và Taranto. Cũng trong năm đó, người Bulgar dưới trướng Asparukh đã vượt qua sông Danube tiến vào lãnh thổ của Đế chế trên danh nghĩa và bắt đầu chinh phục các cộng đồng địa phương và các bộ tộc Slav. Do tình hình sức khỏe xấu dần, Hoàng đế phải bỏ chạy giữa chừng khiến toàn quân hoảng loạn và bị người Bulgar đánh bại hoàn toàn. Năm 681, Konstantinos buộc phải thừa nhận nhà nước Bulgar ở Moesia và trả tiền cống nạp/bảo vệ để tránh họ xâm nhập sâu hơn vào xứ Thracia thuộc Đông La Mã. Do đó mà Hoàng đế mới lập ra Theme xứ Thracia.
Hai anh em Heraclius và Tiberius đã được đăng quang với danh hiệu Augusti dưới thời trị vì của cha mình, và điều này đã được khẳng định bởi yêu cầu của dân chúng, nhưng vào năm 681 Konstantinos đột nhiên sai người tùng xẻo họ để truất quyền trị vì.
Gia đình
Với vợ là Anastasia, Konstantinos IV có hai đứa con trai:
- Justinianus II, kế vị ông làm hoàng đế
- Heraclius
Ảnh hưởng văn hóa
Konstantinos IV do diễn viên Iossif Surchadzhiev đóng trong bộ phim Bulgaria năm 1981 Aszparuh, đạo diễn Ludmil Staikov.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Konstantinos IV** (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là _Pogonatos_ nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Mikhael IV xứ Paphlagonia** (, _Mikhaēl ho Paphlagōn_; 1010 – 10 tháng 12, 1041) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 4 năm 1034 cho tới khi mất vào ngày 10 tháng
**Konstantinos VI** (, _Kōnstantinos VI_; 14 tháng 1, 771 – trước 805) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 780 đến 797. ## Nhiếp chính Konstantinos VI là con trai duy nhất của Hoàng
**Leon IV người Khazar** (Hy Lạp: Λέων Δ΄ ὁ Χάζαρος, _Leōn IV ho Khazaros_) (25 tháng 1, 750 – 8 tháng 9, 780) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 775 đến 780. Leon
**Konstantinos V** (718 – 775) (; kẻ thù hay phỉ báng là _Kopronymos_ hoặc _Copronymus_, nghĩa là _nỗi ô nhục_); là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 741 đến 775. ## Tiểu sử ###
**Romanos IV Diogenes** (, _Rōmanós IV Diogénēs_; khoảng 1030 – 1072), là một thành viên thuộc tầng lớp vũ huân quý tộc kết hôn với vị hoàng hậu góa bụa Eudokia Makrembolitissa, đã đăng quang
**Konstans II** () (7 tháng 11, 630 – 15 tháng 9, 668), còn gọi là **Konstantinos Râu** (_Kōnstantinos Pogonatos_), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 641 đến 668. Ông là vị hoàng đế
**Justinianos II** (, Ioustinianos II, ) (669 – 11 tháng 12, 711), họ là **_Rhinotmetos_** hoặc **_Rhinotmetus_** (, "mũi rọc"), là vị Hoàng đế Đông La Mã cuối cùng của Vương triều Herakleios trị vì
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Mezezius** (; ; , _Mžēž_ hoặc _Mzhezh_) (622 - 669), là một quý tộc Armenia từng là một vị tướng Byzantium, sau đó chiếm đoạt ngôi vị Byzantine ở Sicilia từ năm 668 đến 669.
**Leontios** (, ) (Không rõ năm sinh, mất ngày 15 tháng 2 năm 706) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 695 đến 698. Ông lên nắm quyền bằng cách lật đổ Hoàng đế
**Zoë** (, _Zōē_ nghĩa là "_sinh mệnh_") ( 978 – Tháng 6, 1050) là Nữ hoàng Đông La Mã thuộc nhà Makedonia trị vì cùng với em gái Theodora từ ngày 19 tháng 4 đến
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Irene thành Athena** hay **Irene người Athena** () (752 – 803) là tên thường gọi của **Irene Sarantapechaina** (), là Nữ hoàng Đông La Mã đương vị từ năm 797 đến 802. Trước khi trở
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Theodora** (; 980 – 31 tháng 8, 1056) là Nữ hoàng Đông La Mã sinh ra trong nhà Makedonia nắm quyền cai trị Đế quốc Đông La Mã suốt gần hai trăm năm. Bà tham
**Trận Manzikert** là một trận đánh diễn ra vào ngày 26 tháng 8 năm 1071 ở gần Manzikert (Malazgirt, tỉnh Muş, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) giữa đế quốc Byzantium (Đông La Mã) và đế
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Ioannes VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (, _Iōannēs VIII Palaiologos_, 18 tháng 12, 1392 – 31 tháng 10, 1448), là vị Hoàng đế Đông La Mã áp chót, trị vì từ năm 1425 đến 1448. ## Tiểu
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Manuel II Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (Hy Lạp: Μανουήλ Β΄ Παλαιολόγος, _Manouēl II Palaiologos_) (27 tháng 6, 1350 – 21 tháng 7, 1425) là vị Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1391 đến 1425. ##
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
**Mikhael Psellos** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ψελλός, _Mikhaēl Psellos_) là một tu sĩ, nhà văn, triết gia, chính trị gia và nhà sử học Đông La Mã gốc Hy Lạp. Ông sinh vào năm 1017 hoặc
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Vương quốc Bagratuni** hay **Armenia thời nhà Bagratuni** (tiếng Armenia cổ: , chuyển tự _Bagratuneats Hayastan_) (các tên khác _Vương quốc Ani_, _Armenia Bagratuni_, _Vương quốc Shirak_) là một nhà nước phong kiến Armenia tồn
**Trận Dyrrhachium** (ngày nay gần Durrës ở Albania) là một trận đánh diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 1081, giữa quân đội Đông La Mã do Hoàng đế Alexios I Komnenos chỉ huy
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Isaakios II Angelos** (, _Isaakios II Angelos_; Tháng 9, 1156 – Tháng 1, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1185 đến 1195, và một lần nữa từ năm 1203 đến 1204. Cha ông
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
Ngày **6 tháng 1** là ngày thứ 6 trong lịch Gregory. Còn 359 ngày trong năm (360 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *1066 – Harold Godwinson đăng quang quốc vương của Vương quốc
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Ras** (; ), được biết đến trong lịch sử Serbia hiện đại với tên gọi **Stari Ras** (, có nghĩa là **Ras cổ**) là một pháo đài thời Trung Cổ nằm ở vùng lân cận
thumb|Vương miện của [[Christian IV của Đan Mạch|Vua Christian IV]] Theo _Đạo luật Kế vị_ của Đan Mạch, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 3 năm 1953, quy định ngai vàng Vương thất Đan
**Nikephoros Bryennios Già** (), là một vị tướng Đông La Mã đã cố gắng tự lập làm hoàng đế vào cuối thế kỷ 11. Người đương thời đều xem ông là nhà chiến thuật giỏi
**Ivan III Vasilyevich** () (22 tháng 1 năm 1440, Mátxcơva – 27 tháng 10 năm 1505, Mátxcơva), cũng được gọi là **Ivan Đại đế**, là một Quận công Moskva và Hoàng tử của toàn Nga.
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1806–1812)** là một trong những cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Thổ Osman. Nó diễn ra từ năm 1806 đến năm 1812 và kết
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Sophia Paleologue**, là một hoàng tộc của Đế quốc Đông La Mã. Bà được biết đến là mẹ của **Vasili III Ivanovich**, là bà nội của Ivan IV Lôi đế, trở thành Sa hoàng đầu