✨Ephesus

Ephesus

Ephesus (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng.

Hoàng đế Constantinus Đại đế đã xây dựng lại phần lớn thành phố và dựng lên các nhà tắm công cộng mới. Theo sắc chỉ Thessalonica của hoàng đế Theodosius I, thì những gì còn lại của ngôi đền đã bị phá hủy trong năm 401 sau Công nguyên bởi một đám đông do thánh Gioan Kim Khẩu lãnh đạo. Thành phố này đã bị phá hủy một phần bởi cuộc động đất năm 614 sau Công nguyên. Tầm quan trọng của thành phố như một trung tâm thương mại đã bị tàn tạ vì hải cảng đã dần dần bị phù sa của sông Cayster (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Küçük Menderes) bồi lên làm nghẽn.

Ephesus là một trong bảy giáo hội Tiểu Á được nêu trong Sách Khải Huyền. Phúc âm Gioan có thể đã được viết tại đây. Thành phố đã là nơi diễn ra nhiều Công đồng Kitô giáo ở thế kỷ thứ 5 (xem Công đồng Ephesus). Ephesus cũng là nơi có một sân lớn dành cho các đấu sĩ. Các phế tích của Ephesus là một điểm thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, một phần do ở gần Sân bay quốc tế Adnan Menderes.

Lịch sử

Thời đại đồ đá mới

Khu vực xung quanh Ephesus đã có người cư ngụ trong thời đại đồ đá mới (khoảng 6.000 năm trước Công nguyên), như đã được tiết lộ bởi các cuộc khai quật ở gần höyük (gò khảo cổ nhân tạo) Arvalya và Cukurici.

Thời đại đồ đồng

Các cuộc khảo cổ trong những năm gần đây đã khai quật các khu định cư từ đầu thời đại đồ đồng ở đồi Ayasuluk. Theo các nguồn của dân tộc Hittites thì thủ đô của Vương quốc Arzawa (một nhà nước độc lập khác ở Tây và Nam Tiểu Á) là Apasa (hoặc Abasa). Một số học giả cho rằng đây là Ephesus của Hy Lạp sau này.

Năm 1954, một nghĩa địa từ thời kỳ Mycenae (1.500-1.400 năm trước Công nguyên) với những chậu gốm được phát hiện gần phế tích của vương cung thánh đường Thánh Gioan. Đây là thời kỳ Mycenae bành trướng khi người Achaean (tức người Hy Lạp, như họ được Homer gọi như vậy) định cư ở vùng Tiểu Á trong thế kỷ 14 và 13 trước Công nguyên. Các học giả tin rằng Ephesus được thành lập trên nơi định cư Apasa (hoặc Abasa), một thành phố ở thời đại đồ đồng được các nguồn ngôn ngữ Hittite ghi nhận trong thế kỷ 14 trước Công nguyên, dưới sự cai trị của người Ahhiyawan, rất có thể là tên của người Achaean được sử dụng trong nguồn Hittite.

Thời kỳ người nhập cư Hy Lạp

thumb|Di tích [[Đền thờ Artemis, phía sau Nhà thờ Hồi giáo Isabey, Nhà thờ Thánh Gioan Tông đồ và Thành Selçuk ở thành phố Selçuk, gần Ephesus.]] Ephesus được thành lập như là một thuộc địa của người Ionia vùng Attic trong thế kỷ 10 trước Công nguyên trên đồi Ayasuluk, cách trung tâm Ephesus cổ 3 km (như đã được chứng thực bởi các cuộc khai quật tại lâu đài của triều đại Seljuq trong thập niên 1990). Nhân vật huyền thoại sáng lập thành phố là một hoàng tử của Athena tên là Androklos, người đã phải rời khỏi đất nước của mình sau cái chết của người cha, vua Kadros. Androklos đã đuổi hầu hết các cư dân bản địa người Carian và Leleges ra khỏi thành phố và hợp nhất người dân của mình với phần còn lại. Ông là một chiến binh thành công, và với cương vị một ông vua, đã có thể tham gia Liên minh Ionia gồm 12 thành phố vùng Ionia. Trong triều đại của ông thành phố bắt đầu phát triển thịnh vượng. Ông qua đời trong một trận chiến chống lại người Carian khi ông đến trợ giúp thành phố Priene, một thành phố khác trong Liên minh Ionia. Androklos và con chó của ông được mô tả ở bức hoành phi trong đền thờ Hadrianus ở Ephesus, có niên đại từ thế kỷ thứ 2. Sau đó, các nhà sử học Hy Lạp như Pausanias, Strabo, nhà thơ Kallinos, và nhà sử học Herodotos lại quy việc thiết lập có tính huyền thoại của thành phố này cho Ephos, nữ hoàng của các chiến binh Amazon.

Nữ thần Hy Lạp Artemis và nữ thần lớn của vùng Tiểu Á Kybele đều được xác định là Artemis của Ephesus. "Lady of Ephesus" có nhiều vú - đồng nhất hóa với Artemis - được tôn kính trong Đền Artemis, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại và theo Pausanias là tòa nhà lớn nhất của thế giới cổ đại. Pausanias cho rằng ngôi đền được xây dựng bởi Ephesus, con trai của thần sông Caystrus trước khi người Ionia tới. Hiện nay kiến trúc này, chẳng còn lại dấu vết gì.

Thời cổ

left|thumb|Cảnh đường phố ở những cuộc khai quật khảo cổ tại Ephesus. Khoảng năm 650 trước Công nguyên, Ephesus bị những người Kimmerian tấn công và tàn phá bình địa, kể cả đền Artemis. Sau khi người Kimmerian bị đuổi đi, thành phố được cai trị bởi một loạt các bạo chúa. Rồi sau một cuộc nổi dậy của nhân dân, Ephesus được cai trị bởi một hội đồng gọi là Kuretes. Thành phố lại trở nên thịnh vượng, sản sinh một số nhân vật lịch sử quan trọng, chẳng hạn như nhà thơ thể loại bi thương Callinus, nhà thơ thể loại Iambus Hipponax, triết gia Heraclitus, đại họa sĩ Parrhasius, nhà ngữ pháp học Zenodotos, các thầy thuốc Soranus và Rufus. right|thumb|Tiền kim loại bằng hợp kim [[electrum của Ephesus năm 620-600 trước Công nguyên.Mặt phải: Phần thân trước của con nai đực.Mặt trái: Dụng cụ rập dấu hình vuông.]] Khoảng năm 560 trước Công nguyên, Ephesus bị những người xứ Lydia dưới sự lãnh đạo của vua Kroisos chinh phục. Kroisos cai trị hà khắc, nhưng đối xử tôn trọng với dân Ephesus, và thậm chí còn là người góp công chủ yếu vào việc tái thiết đền Artemis. Chữ ký của ông ta đã được tìm thấy trên đế của một trong các cột của ngôi đền (nay được trưng bày trong viện Bảo tàng Anh). Kroisos tập hợp (synoikismos) cư dân từ các khu định cư khác nhau chung quanh Ephesus trong vùng lân cận của Đền Artemis, mở rộng thành phố này.

Cuối thế kỷ đó, người Lydia dưới quyền Kroisos xâm lăng Ba Tư. Các người Ionia từ chối một lời đề nghị hòa bình từ Cyrus Đại đế, thay vào đó họ đứng về phía người Lydia. Sau khi người Ba Tư đánh bại Kroisos, các người Ionia đề nghị giảng hòa nhưng Cyrus Đại Đế nhất quyết đòi họ phải đầu hàng và khu vực này trở thành một phần của đế quốc Ba Tư. Họ đã bị đánh bại bởi Harpagos, người chỉ huy quân đội Ba Tư trong năm 547 trước Công nguyên. Sau đó người Ba Tư sáp nhập các thành phố của Hy Lạp ở vùng Tiểu Á vào đế quốc của nhà Achaemenes. Những thành phố này sau đó được cai trị bởi các satrap

Ephesus đã thu hút sự tò mò của các nhà khảo cổ bởi vì đối với thời Cổ không có vị trí nhất định cho nơi định cư. Có rất nhiều nơi cho thấy sự dịch chuyển của một khu định cư giữa thời đại đồ đồng và thời kỳ La Mã, nhưng sự bồi bùn cát lên ở những hải cảng tự nhiên cũng như sự dịch chuyển của sông Cayster có nghĩa là vị trí của một nơi định cư không hề ở nguyên một chỗ.

Thời cổ điển

Ephesus tiếp tục thịnh vượng. Nhưng khi thuế tiếp tục tăng cao dưới thời Cambyses II và Darius, thì người dân Ephesus đã tham gia cuộc nổi dậy của người Ionia chống lại sự cai trị của Ba Tư trong trận Ephesus, một biến cố đã gây nên các cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư. Năm 479 trước Công nguyên, các người Ionia, cùng với người Athena, đã có khả năng đuổi người Ba Tư khỏi các vùng bờ biển của Tiểu Á. Năm 478 trước Công nguyên, các thành phố của Ionia cùng với Athena lập thành Liên minh Delos chống lại người Ba Tư. Ephesus đã không đóng góp tàu bè nhưng đã hỗ trợ tài chính cho Liên minh này.

Trong cuộc Chiến tranh Peloponnesus, ban đầu Ephesus liên minh với Athena nhưng sau đó đã về phe Sparta – phe này cũng đã nhận được sự hỗ trợ của người Ba Tư - trong cuộc chiến được gọi là "chiến tranh Decelean" (hoặc "chiến tranh Ionia"). Kết quả là, việc cai trị trong các thành phố của Ionia đã bị nhượng lại cho Ba Tư một lần nữa.

Những cuộc chiến tranh này đã không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày ở Ephesus. Thật đáng ngạc nhiên là những người Ephesus khá hiện đại trong quan hệ xã hội của họ. Họ cho những người lạ hội nhập. Giáo dục được quý chuộng. Thông qua sự sùng bái nữ thần Artemis, thành phố cũng đã trở thành một cái nôi của nữ quyền. Ephesus thậm chí đã có các nữ nghệ sĩ.

Theo truyền thuyết, năm 356 trước Công nguyên, đền Artemis bị một người điên tên là Herostratus đốt cháy. Cư dân Ephesus đã gần như lập tức xây dựng lại ngôi đền, và thậm chí còn lên kế hoạch xây một đền lớn hơn và nguy nga hơn đền cũ.

Thời cổ Hy Lạp

thumb|left|Bản đồ lịch sử của Ephesus, từ sách [[Meyers Konversationslexikon, 1888]] Khi Alexandros Đại đế đánh bại các lực lượng Ba Tư tại Trận Granicus năm 334 trước Công nguyên, các thành phố Hy Lạp của vùng Tiểu Á được giải phóng. Bạo chúa Syrpax thân Ba Tư và gia đình bị ném đá đến chết, và Alexandros đã được chào đón nồng nhiệt khi ông đi vào Ephesus trong chiến thắng. Khi Alexandros thấy rằng ngôi đền Artemis vẫn chưa hoàn tất, ông đã đề nghị tài trợ cho việc xây dựng và muốn được ghi tên mình trên mặt tiền của ngôi đền. Nhưng các cư dân của Ephesus ngần ngại, cho rằng việc một vị thần xây một đền thờ cho vị thần khác là không phù hợp. Sau khi Alexandros Đại đế qua đời năm 323 trước Công nguyên thì Ephesus được đặt dưới sự cai trị của Lysimachos - một trong những vị tướng của Alexandros Đại đế - từ năm 290 trước Công nguyên.

Vì sông Cayster (tiếng Hy Lạp: Κάϋστρος) đã bồi phù sa làm nghẽn bến cảng, dẫn đến việc các đầm lầy gây ra bệnh sốt rét và nhiều người bị chết. Người dân Ephesus buộc phải di chuyển đến một nơi định cư mới cách đó 2 km, khi nhà vua làm cho thành phố cổ bị ngập lụt bằng cách chặn hệ thống cống rãnh. Nơi định cư mới này được chính thức gọi là Arsinoea ( hoặc Ἀρσινοΐα) theo tên người vợ thứ hai của nhà vua, Arsinoe II của Ai Cập. Sau khi Lysimachos đã phá hủy các thành phố lân cận Lebedos và Colophon trong năm 292 trước Công nguyên, ông ta chuyển cư dân của 2 thành phố này tới thành phố mới.

Dân Ephesus đã nổi dậy sau cái chết của Agathocles (con của Lysimachos), tạo cho vua Hy Lạp của Syria và Lưỡng Hà Seleukos I Nikator một cơ hội để loại bỏ và giết chết Lysimachos, đối thủ cuối cùng của ông ta, trong Trận Corupedium năm 281 trước Công nguyên. Sau cái chết của Lysimachos thành phố lại được đặt tên là Ephesus.

Do đó Ephesus đã trở thành một phần của vương quốc Seleukos. Sau cái chết của vua Antiochos II Theos và bà vợ người Ai Cập, thì pharaon Ptolemaios III Euergetes xâm lược vương quốc Seleukos và hạm đội Ai Cập càn quét bờ biển Tiểu Á. Ephesus bị đặt dưới sự cai trị của Ai Cập từ năm 263 tới 197 trước Công nguyên.

Khi Antiochos III Đại đế của vương quốc Seleukos đã cố gắng đoạt lại các thành phố Hy Lạp ở vùng Tiểu Á, ông đã xung đột với Cộng hòa La Mã. Sau một loạt các trận đánh, ông bị đánh bại bởi Lucius Cornelius Scipio Asiaticus tại trận Magnesia trong năm 190 trước Công nguyên. Kết quả là Ephesus bị đặt dưới sự cai trị của vua Eumenes II (197-133 trước Công nguyên) thuộc nhà Attalos của xứ Pergamum. Khi người cháu trai Attalos III của ông ta chết mà không có con trai nối dõi, ông để lại vương quốc của mình cho Cộng hòa La Mã.

Thời La Mã

left|thumb|Các nhà tại khu bậc thang ở Ephesus, chỉ ra cuộc sống sung túc của người dân dưới thời La Mã. thumb|Nhà hát ở Ephesus. thumb|Đền [[Hadrian.]]

Ephesus, một lãnh thổ theo truyền thống vốn thuộc về Hy Lạp, đã trở thành vùng phụ thuộc của Cộng hòa La Mã. Thành phố cảm thấy ngay ảnh hưởng của La Mã. Thuế má tăng đáng kể, và những kho tàng của thành phố đều bị lấy đi một cách có hệ thống. Năm 88 trước Công nguyên, Ephesus hoan nghênh Archelaus, một viên tướng của Mithradates VI của Pontos, vua xứ Pontos, khi ông ta chinh phục châu Á (tên người La Mã gọi vùng tây Tiểu Á).

Việc này dẫn đến Asiatic Vespers, cuộc tàn sát 80.000 công dân La Mã hoặc mọi người nói giọng Latin ở Tiểu Á, trong đó nhiều người đã sống ở Ephesus. Nhưng khi họ thấy người dân Chios bị Zenobius - một viên tướng của Mithridates VI - đối xử tệ bạc như thế nào, họ đã từ chối gia nhập vào quân đội của ông ta. Zenobius được mời vào thành phố để thăm viếng Philopoemen – (cha của Monime, người vợ được yêu thích của Mithridates VI) – và là đốc công ở Ephesus. Vì dân chúng không trông đợi điều gì tốt ở Zenobius, nên họ đã quẳng ông ta vào nhà giam rồi giết ông ta. Mithridates VI đã trả thù bằng những sự trừng phạt khủng khiếp. Tuy nhiên, các thành phố Hy Lạp đã được tự do và có được một số quyền lợi đáng kể. Ephesus đã được tự quản trong một thời gian ngắn. Khi Mithridates VI bị quan chấp chính La Mã Lucius Cornelius Sulla đánh bại ở chiến tranh Mithridatic lần thứ nhất thì Ephesus trở lại dưới sự cai trị của La Mã từ năm 86 trước Công nguyên. Sulla áp đặt một khoản bồi thường lớn với 5 năm truy thu tiền thuế, khiến cho các thành phố vùng Tiểu Á này bị nợ nần chồng chất trong một thời gian dài.

Khi Augustus trở thành hoàng đế năm 27 trước Công nguyên, ông ta nâng Ephesus lên thành thủ phủ của tỉnh tỉnh châu Á (bao gồm miền tây của vùng Tiểu Á) thay vì Pergamum. Ephesus từ đó bước vào kỷ nguyên của sự thịnh vượng, vừa trở thành trụ sở của thống đốc lẫn trung tâm thương mại lớn. Theo Strabo, Ephesus có tầm quan trọng thứ nhì, chỉ sau Rome.

Cho đến gần đây, dân cư Ephesus trong thời La Mã được ước tính lên đến 225.000 người, thư viện Celsus, và nhà hát lộ thiên có khả năng chứa tới 25.000 khán giả. Nhà hát lộ thiên này ban đầu được sử dụng để diễn kịch, nhưng trong thời La Mã cũng được sử dụng để tổ chức các cuộc đấu của đấu sĩ, với những bằng chứng khảo cổ đầu tiên là một nghĩa trang đấu sĩ tìm thấy trong tháng 5 năm 2007. Cư dân của Ephesus cũng có nhiều phòng tắm phức hợp lớn, được xây dựng tại các địa điểm khác nhau khi thành phố dưới sự cai trị của người La Mã. Thành phố đã có một trong những hệ thống cống dẫn nước tiên tiến nhất trong thế giới cổ đại, với nhiều cống dẫn nước có kích cỡ khác nhau để cung cấp nước cho các khu vực khác nhau của thành phố, trong đó có 4 cống dẫn nước chính. Đã có nhiều máy xay vận hành bằng nước, một trong số đó đã được xác định là một máy cưa đá cẩm thạch.

Thành phố và đền thờ Artemis đã bị phá hủy bởi người Goths trong năm 263 sau Công nguyên. Biến cố này đã đánh dấu sự suy giảm vẻ huy hoàng của thành phố.

Thời đế quốc Byzantine (395–1308)

Hoàng đế Constantinus Đại đế đã xây dựng lại phần lớn thành phố và dựng lên một phòng tắm công cộng mới. Trong thế kỷ thứ 5 và thứ 6 sau Công nguyên, Ephesus vẫn là thành phố quan trọng nhất của đế quốc Byzantine ở châu Á sau thành phố Constantinopolis. Hoàng đế Flavius Arcadius nâng cao đường phố giữa nhà hát và bến cảng. "Vương cung thánh đường Thánh Gioan" đã được xây dựng trong triều đại của hoàng đế Justinian I trong thế kỷ thứ 6.

Năm 614 sau Công nguyên, thành phố một lần nữa bị phá hủy một phần bởi một trận động đất.

Tầm quan trọng của thành phố như trung tâm thương mại bị suy tàn vì bến cảng đã dần dần bị sông Cayster bồi bùn cát phù sa lên (nay là sông Küçük Menderes) mặc dù có các cuộc nạo vét lặp đi lặp lại trong lịch sử của thành phố. (ngày nay, bến cảng ăn sâu vào nội địa 5 km). Sự mất bến cảng khiến cho Ephesus không có lối thông ra biển Aegea, ảnh hưởng nghiêm trọng đối với thương mại. Người dân bắt đầu rời khỏi vùng đất thấp của thành phố lên cư ngụ ở các ngọn đồi chung quanh. Những mảng tàn tích của các ngôi đền đã được sử dụng làm các khối xây dựng cho những ngôi nhà mới. Các tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch được xay thành bột để làm vôi cho thạch cao.

Những cuộc xâm nhập cướp phá bởi người Ả Rập do khalip Muawiyah I lãnh đạo đầu tiên trong năm 654-655, và sau đó trong các năm 700 và 716 đã làm cho Ephesus càng suy sụp nhanh hơn.

Khi người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc triều đại Seljuk chinh phục Ephesus năm 1090, thì Ephesus chỉ còn là một ngôi làng nhỏ. Đế quốc Byzantine chiếm lại quyền kiểm soát Ephesus trong năm 1097 và đổi tên thành phố là "Hagios Theologos". Họ tiếp tục kiểm soát khu vực cho đến năm 1308. Các quân Thập tự chinh đi qua đây đã rất ngạc nhiên vì chỉ có một ngôi làng nhỏ, được gọi là "Ayasalouk", thay vì một thành phố nhộn nhịp với một hải cảng lớn như họ trông đợi. Ngay cả đền thờ Artemis cũng đã hoàn toàn bị người dân địa phương lãng quên. Quân Thập Tự chinh của cuộc Thập tự chinh thứ hai đã chiến đấu với quân của nhà Seljuk trong Trận Ephesus (1147) ngay bên ngoài thành phố trong tháng 12 năm 1147.

Thời Thổ Nhĩ Kỳ

right|thumb| [[Thánh đường Hồi giáo İsa Bey được xây dựng trong các năm 1374–1375, là một trong những công trình lâu đời nhất và ấn tượng nhất của nghệ thuật kiến trúc còn lại từ các công quốc Anatolia.]]

Thành phố đầu hàng Sasa Bey - một lãnh chúa Thổ Nhĩ Kỳ của công quốc Menteşe (1260–1424) - ngày 24.10.1304. Dù vậy, trái với các điều khoản của sự đầu hàng, người Thổ Nhĩ Kỳ đã cướp phá Vương cung thánh đường thánh Gioan và trục xuất hầu hết người dân địa phương khi nghe tin sẽ nổ ra một cuộc nổi dậy. Trong những biến cố này nhiều người dân còn lại đã bị tàn sát.

Ngay sau đó, Ephesus đã được nhượng lại cho công quốc Aydinid và công quốc này đã đưa một lực lượng hải quân mạnh tới đóng ở hải cảng Ayasuluğ (ngày nay là Selçuk, bên cạnh Ephesus). Ayasuluğ đã trở thành một hải cảng quan trọng, để từ đây lực lượng hải quân tổ chức các cuộc tấn công vào những khu vực chung quanh.

Thành phố lại có một thời kỳ hưng thịnh ngắn trong thế kỷ 14 dưới sự cai trị của các triều đại Seljuq mới. Họ đã xây dựng thêm các công trình kiến trúc quan trọng như Thánh đường Hồi giáo Isa Bey, các nhà trọ có sân rộng (caravansaries) và các nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ (hamam).

Thành phố đã được sáp nhập như là chư hầu vào Đế quốc Ottoman lần đầu tiên năm 1390. Lãnh chúa vùng Trung Á Tamerlane đánh bại người Ottoman ở Anatolia năm 1402, và vua Ottoman Bayezid I đã qua đời trong khi bị giam cầm. Khu vực này đã được khôi phục lại thành công quốc Anatolia. Sau một thời kỳ bất ổn, khu vực này một lần nữa được sáp nhập vào Đế quốc Ottoman năm 1425.

Ephesus cuối cùng đã hoàn toàn bị bỏ rơi trong thế kỷ 15. Thị trấn lân cận Ayasuluğ được đổi tên thành Selçuk năm 1914.

Ephesus và Kitô giáo

left|thumb|[[Nhà Đức Trinh nữ Maria]] Ephesus là một trung tâm quan trọng đối với Kitô giáo thời sơ khai từ những năm 50 sau Công nguyên. Từ năm 52-54 sau Công nguyên, sứ đồ Phaolô đã sống ở Ephesus, làm việc với các giáo đoàn và dường như đã tổ chức hoạt động truyền giáo vào sâu vùng nội địa. Ông bị lôi kéo vào một vụ tranh cãi với các nghệ nhân, những người có sinh kế phụ thuộc vào việc bán các tượng nữ thần Artemis trong Đền Artemis (sách Công vụ Tông đồ 19:23-41). Giữa năm 53 và năm 57 sau Công nguyên, ông đã viết Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô từ Ephesus (có thể từ "tháp Phaolô" gần bến cảng, nơi ông bị giam cầm trong một thời gian ngắn). Sau đó Phaolô đã viết Thư gửi tín hữu Êphêsô trong khi ông bị cầm tù ở Rome (khoảng năm 62 sau Công nguyên).

Tỉnh châu Á của La Mã (tức vùng Tiểu Á) có liên quan với thánh Gioan, Tông đồ Thánh sử - một trong những tông đồ trưởng - và Phúc âm thánh Gioan có thể đã được viết ở Ephesus. Ephesus là một trong "bảy giáo hội châu Á" được đề cập tới trong Sách Khải Huyền (Khải Huyền 2.: 1-7), Giáo hội Ephesus được cho là khá mạnh.

Một truyền thuyết, lần đầu tiên được đề cập bởi Epiphanius của Salamis trong thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, cho rằng Đức Maria có thể đã sống những năm cuối đời ở Ephesus. Truyền thuyết bắt nguồn từ luận cứ về việc thánh Gioan Tông đồ có mặt ở thành phố này, và những lời trăn trối của chúa Giêsu khi bị đóng đinh trên thập giá đã gửi gấm Mẹ Maria cho Gioan chăm sóc sau khi Ngài qua đời. Tuy nhiên, Epiphanius đã tinh ý chỉ ra rằng, trong Kinh Thánh nói Gioan Tông đồ đã di chuyển sang châu Á, nhưng đã không nói rằng Đức Maria đi cùng Gioan. Sau đó, ông nói rằng Đức Maria được chôn cất tại Jerusalem Từ thế kỷ thứ 19 - theo truyền thuyết Công gìáo dựa trên những thị kiến của nữ tu sĩ Anne Catherine Emmerich – thì ở khu vực gần Ephesus cách thị trấn Selçuk khoảng 7 km, có một ngôi nhà bằng đá bị hư hỏng được cho là ngôi nhà mà thánh Gioan Tông đồ đã xây cho Đức Maria cư ngụ những năm cuối đời gọi là Nhà Đức Trinh nữ Maria. Ngôi nhà này là nơi thường được các tín hữu Công giáo tới hành hương, và đã từng được 3 vị giáo hoàng tới thăm trong những năm gần đây.

Nhà thờ Đức Bà gần bến cảng Ephesus từng là nơi diễn ra Công đồng Êphêsô trong năm 431, mà kết quả là việc lên án Nestorius. Một "Công đồng Êphêsô thứ hai" được tổ chức năm 449, nhưng các kết luận gây tranh cãi của Công đồng này không bao giờ được Giáo hội Công giáo chấp thuận. Công đồng này đã bị những người chống đối gọi là Công đồng Êphêsô kẻ cướp.

Những di tích

thumb|Cổng [[Augustus.]] thumb|Ngôi mộ [[Gioan Tông đồ Thánh sử ở Vương cung thánh đường thánh Gioan.]] Ephesus là nơi có rất nhiều di tích cổ La Mã ở phía đông Địa Trung Hải. Mới chỉ ước tính có khoảng 15% đã được khai quật. Các di tích hữu hình này cho ta một số ý tưởng về vẻ huy hoàng nguyên thủy của thành phố, và những cái tên gắn liền với các di tích gợi nhiều liên tưởng về sự tồn tại trước đây của chúng. Nhà hát lộ thiên vượt lên cảnh nhìn xuống đường bến cảng, dẫn đến bến cảng đã bị cát bùn phù sa bồi lên.

Thư viện Celsus - mà mặt tiền của nó đã được tái thiết lại một cách cẩn thận từ tất cả các mảng nguyên thủy - đã được xây dựng từ năm 125 sau Công nguyên để tưởng niệm Tiberius Julius Celsus Polemaeanus, một nhân vật Hy Lạp cổ đại, người từng là thống đốc La Mã ở tỉnh châu Á (năm 105-107) trong đế quốc La Mã. Celsus đã trả tiền cho việc xây dựng thư viện này bằng tài sản cá nhân của mình, và được chôn trong một cái quách bên dưới nền thư viện. Thư viện chủ yếu được xây dựng bởi con trai ông là Gaius Julius Aquila và đã từng chứa gần 12.000 cuộn sách. Được thiết kế với một lối vào quá lớn — theo nhiều nhà sử học suy đoán là để tăng cường kích thước nhận thức về nó — tòa nhà quay mặt về hướng đông để phòng đọc có thể tận dụng tối đa ánh sáng buổi sáng.

Vương cung thánh đường Thánh Gioan được xây dựng vào thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên dưới triều hoàng đế Justinian I trên nơi được cho là của ngôi mộ của vị tông đồ này.

Đền Artemis, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, chỉ còn lại một cây cột không dễ thấy, được phát hiện trong cuộc khai quật khảo cổ của viện Bảo tàng Anh trong thập niên 1870. Một số mảnh vỡ của bức hoành phi (không đủ để hình dung ra hình dạng của bức hoành phi gốc) và các vật nhỏ tìm thấy khác, đã được lấy đi - một số mang sang Viện Bảo tàng Anh ở London và một số đến viện "Bảo tàng khảo cổ học" ở Istanbul.

Odeon là một nhà hát nhỏ có mái che được xây dựng bởi vợ chồng Vedius Antonius vào khoảng năm 150 sau Công nguyên. Đó là một phòng nhỏ để diễn kịch và trình diễn âm nhạc, có chỗ ngồi cho khoảng khoảng 1.500 người. Có 22 bậc cầu thang trong nhà hát. Phần trên của nhà hát được trang trí bằng những cây cột đá granite màu đỏ theo phong cách Corinthian. Các lối vào ở cả hai bên sân khấu chỉ một vài bước đi.

Đền Hadrian có từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên nhưng đã trải qua các sửa chữa trong thế kỷ thứ 4 và đã được xây dựng lại từ các mảnh vỡ kiến trúc còn sót lại. Các bức tượng nổi ở các phần trên là tượng đúc, các tượng gốc nay được trưng bày tại nhà Bảo tàng khảo cổ Ephesus. Một số nhân vật được mô tả trong các bức tượng đúc nổi, trong đó có hoàng đế Theodosius I với vợ và người con trai cả và trong tờ tiền giấy 20 lira mới năm 2005-2009

Đền Sebastoi (đôi khi cũng gọi là Đền Domitianus), được cung hiến cho triều đại Flavius, là một trong số những ngôi đền lớn nhất ở thành phố. Đền được dựng lên trên một mặt bằng giả 2 hàng cột (pseudodipteral) với 8 × 13 cột. Ngôi đền và tượng của nó là những di tích ít ỏi còn sót lại có liên quan tới Domitianus., người đã xây dựng các cống dẫn nước Marnas. Nó có một mặt tiền lõm.

Có hai quảng trường (agora), một dành cho việc buôn bán và một dành cho việc kinh doanh của nhà nước.

Bảy người ngủ

Ephesus được cho là thành phố nơi có truyện bảy người ngủ. Câu chuyện về 7 người ngủ - những người được giáo hội Công giáo và Chính thống giáo coi là thánh - và câu chuyện này cũng được đề cập trong Kinh Qur'an, nói rằng họ đã bị bách hại vì niềm tin vào Thiên Chúa và họ ngủ trong một hang động gần Ephesus trong nhiều thế kỷ.

thumb|Hình ảnh Ephesus trên mặt sau của tờ tiền giấy mới 20 lira của Thổ Nhĩ Kỳ (năm 2005–2008)

Khảo cổ

Lịch sử nghiên cứu khảo cổ ở Ephesus được tính từ năm 1863, khi kiến trúc sư người Anh John Turtle Wood - được viện Bảo tàng Anh tài trợ - bắt đầu tìm kiếm Đền Artemis. Năm 1869, ông phát hiện ra mặt lát của ngôi đền, nhưng vì những khám phá được mong đợi thêm nữa đã không xảy ra nên các cuộc khai quật dừng lại vào năm 1874. Năm 1895 nhà khảo cổ người Đức Otto Benndorf, được người Áo Karl Ritter von Mautner Markhof tài trợ 10.000 guilder - đã tái tục các cuộc khai quật. Năm 1898 Benndorf thành lập Viện Khảo cổ Áo, cơ quan đóng một vai trò hàng đầu trong việc khảo cổ ở Ephesus ngày nay.

Các di vật phát hiện từ Ephesus được trưng bày tại viện bảo tàng Ephesos ở Vienne, viện Bảo tàng khảo cổ Ephesus ở thị trấn Selçuk và trong viện Bảo tàng Anh.

Các nhân vật nổi tiếng

*Heraclitus, triết gia

  • Zeuxis, họa sĩ (thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên)
  • Parrhasius, họa sĩ (thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên)
  • Agasias, nhà điêu khắc Hy Lạp (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên) Tiberius Julius Celsus Polemaeanus, người sáng lập thư viện Celsius (khoảng năm 45 sau CN –khoảng năm 120 sau CN) Manuel Philes, thi sĩ Byzantine (khoảng 1275 – 1345)

Tham khảo và Ghi chú

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
Đền thờ thần Artemis, tranh khắc gỗ của Martin Heemskerck năm 1572 Di tích đổ nát của ngôi đền ở Ephesus, phía sau Nhà thờ Hồi giáo Isabey, Nhà thờ Thánh Gioan Tông đồ và
**Công đồng Êphêsô** là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: "_Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị.
phải|nhỏ|300x300px|Mặt tiền của di tích Thư viện Celsus phải|nhỏ|300x300px|Thư viện Celsus vào năm 1905 sau khi khai quật hoàn thành. Bên trong thư viện với các hốc đá dùng cho các kệ sách **Thư Viện
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
thumb|right|Ngôi nhà được phục hồi, nay dùng làm nhà nguyện **Nhà Đức Trinh nữ Maria** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: **_Meryem ana_** hoặc **_Meryem Ana Evi_**) là một nơi linh thiêng của Công giáo và Hồi
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Arsinoë IV** (tiếng Hy Lạp: , khoảng từ 65 đến 58–41 TCN) là con gái út của Ptolemaios XII, em gái cùng cha khác mẹ của Nữ vương Cleopatra VII, chị gái của Ptolemaios XIII, đồng
**Alodia**, còn được biết đến với tên gọi khác là **Alwa** (, _Aroua_; , _ʿAlwa_), là một vương quốc thuộc thời kỳ Trung Cổ của người Nubia, nó nằm ở miền Trung và Nam Sudan
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Thư thứ nhất gởi cho các tín hữu tại Côrintô** (Cô-rinh-tô) là một sách trong Tân Ước. Thư Côrintô thứ nhất là bức thư mà Sứ đồ Phao-lô và Sosthenes gởi cho các Cơ-đốc nhân
**Phaolô thành Tarsus** (còn gọi là **Sao-lơ hoặc Saolê** theo chữ **Saul**, **Paulus**, **Thánh Phaolô Tông đồ**, **Thánh Phaolô** hoặc **Sứ đồ Phaolô**, **Thánh Bảo-lộc** hay **Sao-lộc** (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng
thumb|Mặt tiền Mộ Đức Trinh nữ Maria ở thế kỷ thứ 12 **Nhà thờ Mộ Đức Trinh nữ Maria**, cũng gọi là **Mộ Đức Trinh nữ Maria**, là một nhà thờ Kitô giáo tọa lạc
**Cuộc Thập tự chinh thứ hai** (1145-1149) là chiến dịch lớn thứ hai xuất phát từ châu Âu. Cuộc Thập tự chinh thứ hai được bắt đầu để đáp ứng với sự sụp đổ của
Tranh "Victory over the Grave" (Chiến thắng sự chết), của Bernhard Plockhorst, thế kỷ 19 **Lễ Phục sinh** thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo
**Kitô giáo Đông phương** bao gồm các truyền thống Kitô giáo ban đầu phát triển ở miền Đông vùng Địa Trung Hải và xa hơn nữa về phía Đông và phía Nam trong thời cổ
**Antiochos II Theos** (tiếng Hy Lạp: **Αντίοχος Β' Θεός**, 286 TCN – 246 TCN) là vị vua thứ ba của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa, cai trị từ năm 261 đến năm 246
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Herostratos** (tiếng Hy Lạp: ‘Ηρόστρατος) là một thanh niên, trong hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng, đã phóng hỏa Đền thờ thần Artemis ở Ephesus (nay nằm ở miền Tây Thổ Nhĩ Kỳ) vào
**_Khải Huyền_** (hoặc **_Khải Thị_**, dịch chính xác là **Khởi Huyền, Khai Huyền, Khể Huyền**, do hiện tượng đồng âm khác tự của chữ Hán không thể hiện được trong tiếng việt đương đại nên
thumb|Nước hoa Vintage Atomizer **Nước hoa** hay **dầu thơm** (tiếng Anh: _Perfume_, ) là hỗn hợp của tinh dầu thơm hoặc các hợp chất tạo mùi thơm, chất hãm hương (lưu hương) và dung môi,
**Clarence Jordan** (29 tháng 7 năm 1912 – 29 tháng 10 năm 1969), là học giả Hi văn Tân Ước, và là nhà sáng lập Nông trang Koinonia, một cộng đồng tôn giáo tuy nhỏ
**Lysandros **(qua đời năm 395 TCN, tiếng Hy Lạp: Λύσανδρος, Lýsandros) là một vị tướng người Sparta, và là vị chỉ huy của lực lượng Hải quân Sparta ở biển Hellespont mà đã đánh thắng
Tập tin:TR Pamukkale Laodicea asv2020-02 img08.jpg **Laodicea on the Lycus** ( _Laodikeia pros tou Lykou_; , cũng được chuyển tự là _Laodiceia_ hoặc _Laodikeia_) ( hiện đại) là một thành phố cổ ở Tây Nam
nhỏ|Các em nhỏ diễn kịch Giáng sinh tại nhà thờ [[Giáo hội Trưởng lão|Trưởng lão ở tiểu bang Oklahoma, Hoa Kỳ.]] **Quan điểm của Tin Lành về Mary**, bài viết này xem xét các quan
**Theodosius II** (tiếng Latin: _Flavius Theodosius Junior Augustus_; 401 – 450) thường gọi là **Theodosius Trẻ** hoặc **Theodosius Nhà thư pháp**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết
phải|nhỏ|303x303px|Bản đồ miền Tây vùng [[Tiểu Á, với các chấm đen biểu diễn vị trí của đảo Patmos và bảy Hội Thánh]] **Bảy Hội Thánh Asia**, còn gọi là **Bảy Hội Thánh Tiểu Á** hay
nhỏ|[[Bảy kỳ quan thế giới cổ đại|Bảy Kỳ quan thế Giới Cổ đại (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới): Kim tự tháp Kheops, Vườn treo Babylon, Đền thờ thần Artemis ở Ephesus, Tượng
**Kirilô của Alexandria** (, ; sinh khoảng 376 – mất 444) là Thượng phụ Alexandria từ 412 đến 444. Ông tựu nhiệm khi thành phố đang ở đỉnh cao ảnh hưởng và quyền lực trong
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
phải|nhỏ|Linh ảnh Thánh Ti-mô-thê **Ti-mô-thê** (tiếng Hy Lạp: ; _Timótheos_, nghĩa là "tôn vinh Thiên Chúa" hay "được Thiên Chúa tôn vinh") là một nhà truyền giáo trong Cơ Đốc giáo thời kỳ đầu và
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,
**Công giáo**(Công giáo La Mã) (chữ Anh: _Catholicity of the Church_, chữ Hi Lạp cổ: καθολικός _katholikós_, dịch nghĩa: Tính đại công của Hội Thánh), hoặc gọi **Giáo hội phổ quát**, **Hội Thánh đại công**,
thumb|"sợi" hợp kim electrum tự nhiên trên [[thạch anh, mẫu vật lịch sử từ mỏ Smuggler-Union cũ, Telluride, Colorado, Hoa Kỳ]] thumb|Con sông [[Pactolus, nơi mà người Lydia khai thác được electrum để đúc những
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
nhỏ|[[Đền Parthenon trong khi được trùng tu năm 2008]] nhỏ|Đền thờ Concordia ở [[Thung lũng Đền thờ tại Agrigento ]] **Kiến trúc Hy Lạp cổ đại** ra đời và hình thành trên một vùng đất
Thức cột Ionic miêu tả trong sách "Những tàn tích đẹp nhất của đền đài Hy Lạp" của kiến trúc sư Pháp Julien-David Le Roy **Thức cột Ionic** là một trong ba thức cột cổ
**Pythagoras xứ Samos** (, hoặc ; trong tiếng Hy Lạp Ionia; ), hay **Py-ta-go** theo phiên âm tiếng Việt, là một nhà triết học Hy Lạp Ionian cổ đại, đã có công sáng lập học
**Tân Ước**, còn gọi là **Tân Ước Hi văn** hoặc **Kinh Thánh Hi văn** (Tiếng Anh: _New Testament_) là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác
**Hippocrates** (phiên âm Việt ngữ: _Hi-pô-crat_) được xem là cha đẻ của Y học và là người thầy thuốc vĩ đại nhất lịch sử thời Hy Lạp cổ đại (Pericles). Ông là người Hy Lạp,
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Đại Ly giáo** hay **Ly giáo Đông–Tây** là sự kiện chia rẽ Kitô giáo xảy ra vào thời Trung Cổ mà kết quả là hai hệ phái Kitô giáo được hình thành: phương Đông (theo
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Sân bay quốc tế İzmir Adnan Menderes** là một sân bay phục vụ İzmir, được đặt tên theo nhà chính trị Thổ Nhĩ Kỳ, cựu thủ tướng Adnan Menderes. Sân bay này năm cách thành
**Darius I** (Tiếng Ba Tư cổ: _Dārayava(h)uš_, Tiếng Ba Tư mới: داریوش Dāriush; 550–486 TCN) là vị vua thứ ba của Đế quốc Achaemenes Ba Tư. Được gọi là Darius Đại đế, dưới triều đại
**Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus** (; 31 tháng 8 năm 12 – 24 tháng 1 năm 41), thường gọi theo biệt hiệu **Caligula**, là vị Hoàng đế La Mã thứ ba và là một thành
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|phải|Một hình ảnh tưởng tượng về Lăng mộ Mausolus, từ một bức tranh khắc năm 1572 của [[Martin Heemskerck (1498-1574), ông đã tái hiện nó dựa trên những lời miêu tả]] nhỏ|phải|Di tích của Lăng