✨Antiochos II Theos

Antiochos II Theos

Antiochos II Theos (tiếng Hy Lạp: Αντίοχος Β' Θεός, 286 TCN – 246 TCN) là vị vua thứ ba của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa, cai trị từ năm 261 đến năm 246 TCN. Ông là con trai của Antiochos và công chúa Stratonike, con gái của Demetrios Poliorketes; và thừa kế ngôi vị từ vua cha Antiochos I Soter vào mùa đông 262-261 TCN.

Di sản mà ông được kế thừa bao gồm cả việc tiếp nối cuộc chiến tranh với Ai Cập, cuộc chiến tranh Syria lần thứ hai đã xảy ra chủ yếu dọc theo bờ Tiểu Á và với sự tham gia của các vị vua chuyên chế và các thị quốc ở Tiểu Á. Antiochos cũng thực hiện một số cố gắng để đặt chân lên Thrace. Trong suốt cuộc chiến, ông đã xưng hiệu là Theos (tiếng Hy Lạp: Θεός, "Chúa") được nhân dân Milesia xưng tụng vì đã giết bạo chúa Timarchus.

Trong suốt thời gian vua Antiochos tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Ai Cập, Andragoras, thổng trấn do Seleukos lập lên ở Parthia tuyên bố độc lập. Theo đoạn trích dẫn từ tác phẩm của Justin của Pompeius Trogus, ở Bactria, phó vương của ông, Diodotos, cũng nổi loạn vào năm 255 TCN và thành lập vương quốc Hy Lạp - Bactria, mà xa hơn là xâm lược Ấn Độ vào năm 180 TCN để hình thành một vương quốc Hy Lạp - Ấn Độ (180 TCN - 1 CN). Sau đó khoảng năm 238 TCN, Arsaces đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy lật đổ Andragoras để thành lập đế quốc Parthia. Những sự việc trên đã cắt đứt sự quan hệ của Hy Lạp với Ấn Độ.

Cũng vào khoảng thời gian này, Antiochos đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Ptolemaios II của Ai Cập, kết thúc cuộc chiến tranh Syria lần thứ hai. Antiochos đã bỏ vợ mình là Laodice, đày bà tới Ephesus. Để duy trì hiệp ước, ông đã kết hôn với con gái của Ptolemaios II, Berenice và nhận được của hồi môn rất lớn.

Trong thời gian ở Ephesus, Laodice đã tiếp tục có những mưu đồ để trở lại làm hoàng hậu. Vào năm 246 TCN, Antiochos đã bỏ lại Berenice và đứa con trai sơ sinh ở lại Antioch để đến sống với Laodice ở Tiểu Á. Nhân dịp đó, Laodice đã đầu độc Antiochos và những kẻ ủng hộ bà thì giết chết Berenice và con trai của cô. Bà ta đã đưa con riêng của mình là Seleukos II Kallinikos lên làm vua. Antiochos sau đó đã được chôn cất tại lăng Belevi

Antiochos II và Laodice còn là cha mẹ của Laodice, vợ của vua Mithridates II

Mối quan hệ với Ấn Độ

Antiochos đã được đề cập đến trong Sắc lệnh của vua Asoka, và được quy cho là một trong những chư hầu của đế chế Phật giáo Ấn Độ của Ashoka, mặc dù không có sử gia phương Tây nào đề cập đến chuyện này.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Antiochos II Theos** (tiếng Hy Lạp: **Αντίοχος Β' Θεός**, 286 TCN – 246 TCN) là vị vua thứ ba của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa, cai trị từ năm 261 đến năm 246
**Antiochos Epiphanes I Theos Dikaios Philorhomaios Philhellenos** (Tiếng Armenia: Անտիոքոս Երվանդունի, tiếng Hy Lạp:. Ἀντίοχος ὀ Θεός Δίκαιος Ἐπιφανής Φιλορωμαίος Φιλέλλην, có nghĩa là **Antiochos, người công bằng, xuất sắc như một vị thần, người
**Antiochos II Epiphanes**, còn được gọi là **Antiochos II của Commagene** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, thế kỷ thứ 1 TCN) là một người có huyết thống Armenia và Hy Lạp. Antiochos II là
**Antiochos I Soter** (tiếng Hy Lạp: _Αντίοχος Α' Σωτήρ_, tạm dịch là "Antiochos Vi cứu tinh ") là vị vua thứ hai của vương quốc Seleukos, thời Hy Lạp hóa. Ông cai trị từ năm
**Diodotos II Theos** (Tiếng Hy Lạp: ; qua đời vào khoảng năm 225 TCN) là vị vua thứ hai của vương quốc Hy Lạp-Bactria. Cha của ông là vua Diodotos I, ông ta đã đưa
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Mithridates II Antiochus Epiphanes Philorhomaios Philhellenos Monocritis**, còn được gọi là **Mithridates II của Commagene** (tiếng Hy Lạp: Μιθριδάτης Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής Φιλορωμαίος Φιλέλλην Μονοκρίτης, mất năm 20 TCN) là một vị vua mang huyết
**Antiochos IV Epiphanes **(, _Antíochos D' ho Epiphanḗs_, "Hiện thân của Thượng đế" sinh khoảng 215 TCN; mất 164 TCN) trị vì vương quốc Seleukos từ năm 175 TCN cho đến khi mất năm 164
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Antiochos VIII Epiphanes / Callinicus / Philometor**, biệt danh là **Grypos** (mũi cong) là vua của đế chế Seleucid thời kì Hy Lạp hóa,ông là con trai của Demetrius II Nicator. Hoặc là ông hoặc
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
[[Tập tin:AndragorasCoinHistoryofIran.jpg|tiền của Andragoras.
_Obv_:Bearded ruler wearing the taenia.
_Rev_': Greek legend ΑΝΔΡΑΓΟΡΟΥ ("Andragoras"). Quadriga driven by Nike, together with an armed warrior.]] **Andragoras **(? - 238 TCN) là một tổng trấn tỉnh Parthia (Parthia)
**Ariarathes III** (Tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης, Ariaráthēs; cai trị từ 262 hay 255-220 TCN), con trai của Ariamnes vua của Cappadocia,và là cháu trai của Ariarathes II.Ông kết hôn với Stratonice, con gái của
**Dromichaetes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Δρομιχαίτης, Dromichaites) là vua của người Getae ở cả hai bên bờ của hạ lưu sông Danube (ngày nay là Romania và Bulgaria) khoảng năm 300 trước Công nguyên.
**Agathocles Dikaios** (, " Người Công bằng") là một vị vua Phật giáo của vương quốc Ấn-Hy Lạp, ông đã trị vì trong giai đoạn khoảng từ năm 190 đến năm 180 TCN. Ông có
**Stratonike của Syria ** (Tiếng Hy Lạp: Στρατoνικη) là con gái của vua Demetrios Poliorketes với Phila, con gái của Antipatros. Năm 300 TCN, lúc đó có thể bà chưa đến 17 tuổi, bà đã
**Mithridates I Kallinikos** (tiếng Hy Lạp: Μιθριδάτης ὀ Кαλλίνικος) là một vị vua xuất thân từ triều đại Orontes của Armenia sống vào giữa thế kỷ thứ 2 TCN tới thế kỷ thứ 1 TCN.
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập