thumb|Mặt tiền Mộ Đức Trinh nữ Maria ở thế kỷ thứ 12
Nhà thờ Mộ Đức Trinh nữ Maria, cũng gọi là Mộ Đức Trinh nữ Maria, là một nhà thờ Kitô giáo tọa lạc tại thung lũng Kidron – ở chân núi Olives, phía đông Jerusalem – được giáo hội Kitô giáo Đông phương tin là nơi mai táng Đức Trinh nữ Maria, mẹ chúa Giêsu.
Lịch sử
Theo Truyền thống thiêng liêng của Kitô giáo Đông phương thì Đức Trinh nữ Maria đã trải qua một cái chết tự nhiên (Đức Mẹ an giấc) giống như cái chết thông thường của mọi người; linh hồn của Bà khi lìa khỏi xác đã được Chúa Giêsu tiếp đón; và thân xác của Bà đã được sống lại vào ngày thứ ba sau khi an giấc, lúc đó Bà đã được đưa lên trời - cả hồn lẫn xác - trước khi diễn ra sự phục sinh chung của kẻ chết trong ngày phán xét sau cùng. Ngôi mộ của bà - theo "truyền thống thiêng liêng" này - đã được tìm thấy trống rỗng vào ngày thứ ba sau khi an táng. Giáo huấn của giáo hội Công giáo Rôma cho rằng Đức Maria đã được đưa về trời cùng lúc cả hồn lẫn xác; các câu hỏi về việc thân xác Đức Maria có chết thực sự hay không vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ trong quan điểm của Công giáo; tuy nhiên, hầu hết các nhà thần học tin rằng Đức Maria đã trải qua cái chết trước khi về trời.
Một truyện được gọi là "Euthymiaca Historia" (dường như do Cyril of Scythopolis viết trong thế kỷ thứ 5) nói về việc Hoàng đế Marcianus và vợ ông, bà Pulcheria, đã hỏi Juvenal - thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp của Jerusalem - khi ông tham dự Công đồng Chalcedon (năm 451) về các thánh tích của Đức Trinh Nữ Maria. Theo truyện này, thì Juvenal đã trả lời rằng: vào ngày thứ ba sau khi mai táng, ngôi mộ của Đức Maria được phát hiện là trống rỗng, chỉ có tấm vải liệm của bà được bảo quản trong nhà thờ ở vườn Gethsemani.
Theo một truyền thuyết khác thì đó là dây đai thắt lưng của Đức Maria đã được bỏ lại trong ngôi mộ.
Khảo cổ
thumb|right|Cảnh bên ngoài Mộ Đức Trinh nữ Maria
Năm 1972, Bellarmino Bagatti, một nhà khảo cổ và là tu sĩ dòng Phanxicô, đã khai quật khu vực này và tìm thấy bằng chứng về một nghĩa địa cổ từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Các vật phát hiện của ông chưa có sự bình duyệt của cộng đồng các nhà khảo cổ rộng lớn hơn, và tính hợp thức trong việc xác định niên đại của ông đã chưa được đánh giá đầy đủ.
Bagatti giải thích rằng các di tích tìm thấy cho thấy cấu trúc ban đầu của một nghĩa địa bao gồm 3 phòng (ngôi mộ chính nằm ở gian phòng giữa), đã được phán đoán là phù hợp với phong tục của thời kỳ đó. Sau đó, các Kitô hữu địa phương giải thích là mộ này đã được cách ly với phần còn lại của nghĩa địa, bằng cách cắt bỏ khối đá chung quanh ngôi mộ đi. Một ngôi đền nhỏ (Aedicula) được xây dựng trên ngôi mộ.
thumb|Mộ Đức Maria ở cạnh phía đông của nhà thờ
Lịch sử các nhà thờ
Một nhà thờ nhỏ hình bát giác được Juvenal - Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp của Jerusalem (dưới thời cai trị của hoàng đế Marcianus) - cho xây dựng trên vị trí tìm thấy trong thế kỷ thứ 5, và đã bị phá hủy trong cuộc xâm lược của Ba Tư năm 614.
Trong các thế kỷ sau nhà thờ đã bị phá hủy và xây dựng lại nhiều lần, nhưng hầm mộ vẫn còn nguyên. Đối với các người Hồi giáo khi cai trị vùng Đất Thánh, thì đây là nơi chôn cất người mẹ của tiên tri Isa (tức chúa Giêsu).
Sau đó nhà thờ được quân Thập tự chinh xây dựng lại trong năm 1130, cùng với một tu viện dòng Biển Đức có tường bao quanh gọi là "Tu viện Đức Bà của thung lũng Josaphat". Khu phức hợp tu viện bao gồm các cột theo kiến trúc Gothic, các tranh tường màu đỏ trên màu xanh lá cây, và 3 tòa tháp để bảo vệ. Cầu thang và lối vào cũng là một phần của nhà thờ thời "Thập tự chinh". Nhà thờ này đã bị Saladin phá hủy năm 1187, nhưng hầm mộ vẫn còn được tôn trọng; tất cả những gì còn lại là lối vào ở phía nam và cầu thang. Các phần đá và vữa xây dựng của nhà thờ này được sử dụng để xây các bức tường của Jerusalem.
Trong hậu bán thế kỷ 14, các tu sĩ dòng Phanxicô đã xây dựng lại nhà thờ một lần nữa. Năm 1757 các giáo sĩ Chính thống giáo Hy Lạp đã làm một cuộc tiếp quản các nơi thiêng liêng khác nhau trên Đất Thánh trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, trong đó có tu viện và nhà thờ này, đồng thời trục xuất các tu sĩ dòng Phanxicô. Khi đế quốc Ottoman nắm quyền cai trị vùng Đất Thánh thì họ ủng hộ thỏa thuận "nguyên trạng" (statu quo) ở vùng Đất Thánh giữa các giáo hội khác nhau. Kể từ đó, ngôi mộ Đức Trinh nữ Maria được đặt thuộc quyền sở hữu của Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp, trong khi hang đá ở vườn Gethsemani thuộc quyền sở hữu của dòng Phanxicô.
thumb|Ảnh [[Đức Mẹ an giấc.]]
thumb|Sơ đồ cắt ngang theo mặt bằng và chiều dọc của nhà thờ mộ Đức Trinh nữ Maria
thumb|Tranh tường tại Mộ Đức Maria|thumb|right
thumb|Phần bên trong quách. Nay được bọc bằng kính.
Mô tả nhà thờ
Trước mặt nhà thờ về phía nam là một sân có tường bao quanh, nhà thờ hình thập giá bao trùm trên ngôi mộ đã được khai quật trong một hang đá dưới đất được cắt lìa khỏi khối đá. Lối vào nhà thờ qua một cầu thang rộng đi xuống có niên đại từ thế kỷ 12. Ở phía bên trái của cầu thang (về phía Tây) có nhà nguyện thánh Giuse - chồng của Đức Maria – còn phía bên phải (phía đông) có nhà nguyện của thánh Gioakim và thánh Anna - cha mẹ của Đức Maria – trong đó cũng có ngôi mộ của hoàng thái hậu Melisende của Jerusalem.
Ở cạnh phía đông của nhà thờ là nhà nguyện Mộ Đức Maria. Các bàn thờ của Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp và Giáo hội Tông đồ Armenia cùng đặt ở apse phía đông. Một hốc tường phía nam ngôi mộ là một mihrab chỉ hướng Mecca, được làm khi người Hồi giáo nắm quyền chung nhà thờ này. Ở gian cạnh phía tây có một bàn thờ của giáo hội Coptic.
Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp làm chủ nhà thờ này chung với giáo hội Tông đồ Armenia. Các giáo hội Chính thống giáo Syria cổ, giáo hội Chính thống giáo Coptic và giáo hội Chính thống giáo Ethiopia có một ít quyền nhỏ. Hồi giáo cũng có một mihrab riêng để cầu nguyện.
Tính xác thực
Một truyền thuyết, lần đầu tiên được Epiphanius của Salamis đề cập tới trong thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, cho rằng Đức Maria có thể đã sống những năm cuối đời ở Ephesus. Luận cứ này bắt nguồn từ sự kiện thánh Gioan, Tông đồ Thánh sử đã từng có mặt ở Ephesus, và những lời trăn trối của chúa Giêsu khi bị đóng đinh trên thập giá đã gửi gấm Mẹ Maria cho Gioan chăm sóc sau khi Ngài qua đời. Tuy nhiên, Epiphanius đã chỉ ra rằng, trong Kinh Thánh nói Gioan Tông đồ đã di chuyển sang châu Á, nhưng đã không nói rằng Đức Maria đi cùng Gioan.
Truyền thống Chính Thống giáo Đông phương tin rằng Đức Trinh Nữ Maria đã sống trong vùng lân cận của Ephesus, nơi có một nhà cổ hiện đang được coi như là nhà Đức Trinh nữ Maria và được các người Công giáo và Hồi giáo tôn kính, nhưng lập luận rằng Đức Maria chỉ ở đó một vài năm; giáo huấn này được dựa trên các tác phẩm của các giáo phụ.
Mặc dù nhiều Kitô hữu tin rằng không có thông tin nào về cuối đời Đức Maria hoặc nơi mai táng bà được Tân Ước hoặc Tân Ước ngụy tác cũ đề cập tới, nhưng hiện có trên 50 Tân Ước ngụy tác nói về cái chết của bà (hoặc số phận cuối cùng của bà). Quyển "Book of John about the Dormition of Mary" (Sách của Gioan về việc An giấc của Đức Maria) từ thế kỷ thứ 3 cũng như quyển "Treatise about the passing of the Blessed Virgin Mary" (Luận về cái chết của Đức Trinh nữ Maria) từ thế kỷ thứ 4 đều cho rằng mộ của Đức Mẹ được đặt ở Vườn Gethsemani
Quyển "Breviarius of Jerusalem" (Bản tóm tắt về Jerusalem), một bản văn ngắn được viết khoảng năm 395 sau Công nguyên nói rằng trong thung lũng đó (thung lũng Kidron) có vương cung thánh đường Đức Bà, nơi có ngôi mộ của Người. Sau đó, thánh Epiphanius của Salamis, thánh Gregory thành Tours, thánh Isidore thành Seville, Modestus của Jerusalem, Sophronius của Jerusalem, Thương phụ Germanus của Constantinopolis, Andrew của Kríti và Gioan của Damascus đều nói về ngôi mộ ở Jerusalem, và làm chứng rằng truyền thống này đã được tất cả các Giáo hội Đông và Tây chấp nhận.
Hình ảnh
File:Jerusalem Facade Tourism.jpg|Mặt tiền Mộ Đức Maria.
File:Tomb of the Virgin Mary. Staircase of 47 steps..jpg|Cầu thang gồm 47 bậc dẫn từ lối vào xuống dưới mộ.
Image:4960-20080122-0718UTC--jerusalem-entering-marys-tomb.jpg|Cầu thang lối vào ở giữa 2 nhà nguyện.
File:Tomb of the Virgin Mary. Altar.jpg|Bên trong mộ Đức Maria
File:Mary's tomb PA180062.JPG|Quách trong mộ Đức Maria
File:Mary's tomb,Melisende IMG 0251c.jpg|Nhà nguyện Melisende of Jerusalem
File:Mary and christ,photo frame at Tomb of Mary.JPG| Đức Maria và chúa Kitô, ảnh bọc khung ở mộ Đúuc Maria
File:maria-tomb.jpg|Phía ngoài quách
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Mặt tiền Mộ Đức Trinh nữ Maria ở thế kỷ thứ 12 **Nhà thờ Mộ Đức Trinh nữ Maria**, cũng gọi là **Mộ Đức Trinh nữ Maria**, là một nhà thờ Kitô giáo tọa lạc
thumb|right|Ngôi nhà được phục hồi, nay dùng làm nhà nguyện **Nhà Đức Trinh nữ Maria** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: **_Meryem ana_** hoặc **_Meryem Ana Evi_**) là một nơi linh thiêng của Công giáo và Hồi
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
phải|nhỏ| Nhà thờ Thánh Mary, bức tranh của Bernardo Bellotto, 1770. phải|nhỏ| Nhà thờ Thánh Mary nhìn từ bờ [[Wisła|sông Vistula. ]] **Nhà thờ Thăm viếng Đức Trinh Nữ Maria** (), còn được gọi là
**Nhà thờ chính tòa của giả định Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Andrew** () ở Frombork, Ba Lan, là một nhà thờ Công giáo La Mã tọa lạc tại Đồi Nhà thờ, bên cạnh
**Đức Mẹ Guadalupe** () còn được biết với tên gọi **Đức Trinh Nữ Guadalupe** () là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Hai tài liệu, được xuất
nhỏ|upright|_Madonna với con trẻ_ vào thế kỷ XIII. **Đức Maria trong nghệ thuật** miêu tả về Đức Maria một mình hoặc cùng với con là Chúa Giêsu. Những hình ảnh này là trung tâm biểu
Dona **Maria Amélia** (1 tháng 12 năm 1831 – 4 tháng 2 năm 1853) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là thành viên của nhánh Brasil của Vương tộc Bragança. Cha mẹ cô
nhỏ|phải|180 px|''Hình vẽ bởi [[Francesco Albani. "Làm sao tôi biết điều này xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam?", Luke 1:34]] **Sự đồng trinh của Đức Mẹ Maria** hay **Maria đồng
**Đức Mẹ Thác Mơ** là một trung tâm hành hương cấp giáo phận của người Công giáo dành kính Đức Mẹ Maria, tọa lạc trên một ngọn đồi dưới chân núi Bà Rá thuộc phường
**Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp**, là một danh hiệu của Mẹ Maria được tuyên xưng bởi Giáo hoàng Piô IX, kết hợp với một biểu tượng nghệ thuật Byzantine (Đông La Mã) nổi tiếng cùng
**Đức Mẹ Zahražany** là một tác phẩm điêu khắc về Đức Mẹ và Chúa Hài đồng, có nguồn gốc từ trước năm 1380. Hiện tác phẩm này đang được trưng bày tại Phòng trưng bày
**Cột Đức Mẹ ở Brno** (tên gọi khác: **Cột bệnh dịch**, tiếng Séc: _Mariánský sloup v Brně, Morový sloup_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở
nhỏ|327x327px|Cột Đức Mẹ ở Bělá pod Bezdězem (2010) **Cột Đức Mẹ ở Bělá pod Bezdězem** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Bělé pod Bezdězem_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức
**Cột Đức Mẹ ở Rakovník** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Rakovníku_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở thị trấn Rakovník, vùng Středočeský, Cộng hòa Séc.
**Cột Đức Mẹ ở Plzeň** (tiếng Séc: _Mariánský sloup (Plzeň)_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở trung tâm thành phố Plzeň, Cộng hòa Séc. Tượng
nhỏ|phải|Bức họa ''Đức Mẹ Sầu Thương của, Porto Alegre, Brazil, thế kỷ 19 **Đức Mẹ Sầu Thương** (tiếng Latinh: **Stabat Mater** nghĩa là"người mẹ đang đứng nhìn") là một chủ đề nghệ thuật liên quan
nhỏ|363x363px|Cột có tượng Đức Mẹ Đồng trinh ở Javorník (2021) **Cột có tượng Đức Mẹ Đồng trinh ở Javorník** (tiếng Séc: _Sloup se sochou Panny Marie v Javorníku_) là một trong những tượng đài tôn
nhỏ|317x317px|Cột có tượng Đức Mẹ Đồng trinh ở [[Hodkovice nad Mohelkou (2007)]] **Cột có tượng Đức Mẹ Đồng trinh ở Hodkovice nad Mohelkou** (tiếng Séc: _Sloup se sochou Panny Marie v Hodkovicích nad Mohelkou_) là
nhỏ|321x321px|Cột Đức Mẹ ở [[Telč (2006)]] **Cột Đức Mẹ ở Telč** (tiếng Séc: _Mariánský morový sloup v Telči_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở quảng
nhỏ|317x317px|Cột Đức Mẹ ở [[Třeboň (2020)]] nhỏ|317x317px|Bức tượng Đức Mẹ (2020) **Cột Đức Mẹ ở Třeboň** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Třeboni_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ,
nhỏ|327x327px|Cột Đức Mẹ ở [[Nymburk (2011)]] **Cột Đức Mẹ ở Nymburk** (tên khác: **Cột bệnh dịch**, tiếng Séc: _Mariánský sloup v Nymburce_, _Morový sloup_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về
nhỏ|363x363px|Cột Đức Mẹ ở Litovel (2007) **Cột Đức Mẹ ở Litovel** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Litovli_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở quảng trường
nhỏ|Nhà nguyện Meritxell, Andorra **Đức Mẹ Meritxell** (, ) là một bức tượng Công giáo La Mã ở Andorra mô tả sự hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ Meritxell là vị thánh
nhỏ|304x304px|Cột với tượng [[Đức Mẹ Đồng trinh ở Nové Město nad Metují (2011)]] **Cột Đức Mẹ ở Nové Město nad Metují** (tên đầy đủ: **Cột với tượng Đức Mẹ Đồng trinh ở Nové Město nad
nhỏ|267x267px|Cột Đức Mẹ ở [[Kroměříž|Opava (2009)]] **Cột Đức Mẹ ở Opava** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Opavě_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, tọa lạc ở phía trước
**Maria**, **Đức mẹ Maria**(Công giáo La Mã), hoặc gọi **Mary, mẹ của Chúa Jesus**, **trinh nữ Mary**(Tin Lành), là một phụ nữ người Do Thái quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Đức Mẹ Lộ Đức** là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra
**Đền Thánh Đức Maria** hay Đền Thánh Đức Mẹ dâng cho Maria là một đền Thánh đánh dấu sự hiện ra hoặc một phép lạ khác được quy cho Đức Maria, hoặc một nơi tập
_Đức Mẹ núi Camêlô_ vẽ bởi [[Pietro Novelli, 1641.]] **Đức Mẹ núi Camêlô** còn được biết đến với tên gọi **Đức Mẹ núi Cát Minh** là một danh hiệu dành cho Maria trong vai trò
**Đức Mẹ hiện ra** là những lần Đức Mẹ Maria được tin là đã xuất hiện tại một địa điểm nào đó, được Giáo hội Công giáo Rôma công nhận công khai sau khi đã
**Đức Mẹ Beauraing** hay còn được biết đến với tên gọi **Đức Trinh nữ trái tim vàng** là một tước hiệu mà người Công giáo dùng để gọi Đức Maria ám chỉ đến 33 lần
**_Pietà_** (; "_Đức Mẹ sầu bi_"; 1498–1499) là một tác phẩm điêu khắc thời kỳ Phục Hưng của Michelangelo Buonarroti, hiện đang được đặt trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Tòa thánh Vatican. Đây
nhỏ|phải|Trang đầu tổng phổ bản Ave Maria của Franz Schubert **Ave Maria** (Schubert) là tên thường gọi một bài hát được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Áo nổi tiếng Franz Schubert. Tên này
nhỏ|Thiếu nữ mặc đồ trắng thường được xem là biểu hiện cho trinh tiết **Trinh tiết** theo là một khái niệm chỉ một người chưa từng quan hệ tình dục. **Trinh nữ** là từ để
nhỏ|Bức tranh Đức Mẹ Konczycka **Bức tranh Đức Mẹ Konczycka** (tiếng Ba Lan: _Obraz Matki Bożej Kończyckiej_) là bức tranh khuyết danh, rất nổi tiếng vì chứa đựng nhiều ân sủng. Bức tranh được treo
**Nhà thờ đồng sáng tạo của Đức Trinh Nữ Maria** () cũng được gọi là **Nhà thờ Żywiec** Đây là tòa nhà tôn giáo chính của Công giáo tại thành phố Zywiec, Ba Lan, và
nhỏ|283x283px|Cột Đức Mẹ ở [[Phố Hradčany|Hradčany (2008)]] **Cột Marian**, hay **Cột Đức Mẹ** ở Hradčany (tiếng Séc: _Mariánský morový sloup_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ, nằm trên
**Nhà thờ Đức Mẹ Đồng trinh Sầu bi ở Vajnory** (tiếng Slovakia: _Kostol Sedembolestnej Panny Márie v Vajnory_) là một nhà thờ giáo xứ Công giáo La Mã tọa lạc ở quận Vajnory, thành phố
**Thánh Giuse** (hay **Yuse** từ tiếng Ý **Giuseppe**, từ tiếng Do Thái: יוֹסֵף "Yosef"; tiếng Hy Lạp: Ἰωσήφ; từ tiếng Anh: **Joseph**,đôi khi cũng được gọi là **Thánh Giuse Thợ**, hoặc **Thánh Cả Giuse**, **Giuse
nhỏ|_La Visione di San Domenico_ (), tranh của [[Bernardo Cavallino (1640)]] **Kinh Mân Côi** là một phương pháp cầu nguyện phổ biến và quan trọng của Giáo hội Công giáo Rôma. Bài kinh này bao
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
nhỏ|_Đức Mẹ cùng năm thiên sứ_, [[Sandro Botticelli|Botticelli, khoảng 1485.]] **Tôn sùng Đức Maria** trong Kitô giáo là một hoạt động của một người hoặc nhóm người với Maria qua những lời cầu nguyện, việc
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
nhỏ|phải|Một trường cao đẳng nữ sinh [[FD Arts and Commerce College for Women ở Ahmedabad thuộc Ấn Độ]] **Cao đẳng nữ sinh** (_Women's college_) trong giáo dục bậc đại học là các cơ sở đào
[[Tập tin:Thaler.jpg|thumb|Bốn thaler và 1 double thaler (2 thaler), so với đồng 25 cent của Mỹ (ở dưới):Clockwise from top left: Công quốc Saxe-Altenburg 1616 (reverse), Công quốc Saxony 1592, Đại Công quốc Áo 1701
**Đức Maria** được biết đến bởi nhiều _danh hiệu_ (Đức Bà, Đức Mẹ, Trinh Nữ Rất Thánh), các tính ngữ (Sao Biển, Nữ Vương Thiên Đàng), cầu khẩn (Theotokos, Panagia) và các tên khác (Đức
thumb|_[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene_ bởi Simeon Solomon, 1864]] thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào