Trận Dara diễn ra vào năm 530 giữa Đế quốc Đông La Mã và Đế chế Ba Tư Sassanid. Đây là một trong những trận đánh thuộc Chiến tranh Iberia.
Tác phẩm của Procopius về trận đánh này là một trong những bản mô tả chi tiết nhất về một trận chiến La Mã vào giai đoạn cuối.
Bối cảnh
Từ năm 527, Đế quốc Byzantine bước vào cuộc chiến với Đế chế Sassanid, nguyên nhân ban đầu là do vua Kavadh I xứ Ba Tư cố gắng buộc người dân xứ Iberia (một vùng đất ở khu vực Kavkaz) cải sang Hỏa giáo (Zoroastrian). Trước áp lực này, vua xứ Iberia đã chạy trốn và tìm kiếm sự bảo hộ từ phía Byzantine. Để hòa giải, Kavadh đề nghị hoàng đế Justin I xứ Byzantine nhận con trai ông – Khosrau – làm con nuôi, với hy vọng xây dựng mối quan hệ đồng minh. Tuy nhiên, Justin chỉ đồng ý với điều kiện thực hiện nghi lễ nhận con theo nghi thức dành cho “người man rợ”, điều này khiến Kavadh tức giận và không chấp nhận.
Sau đó, Kavadh bắt đầu tấn công các vùng lãnh thổ và đồng minh của Byzantine. Đáp lại, Justin đã cử các tướng lĩnh Sittas và Belisarius tiến quân vào lãnh thổ Ba Tư, nhưng những chiến dịch đầu tiên này không thành công và quân Byzantine bị đánh bại.
Đến năm 529, sau khi Justin qua đời, hoàng đế mới là Justinian tiếp tục theo đuổi con đường đàm phán nhưng không đạt được thỏa thuận với Kavadh. Kết quả là quân Sassanid huy động một lực lượng lớn gồm khoảng 40.000 binh sĩ tiến về thành phố Dara – một điểm chiến lược trọng yếu của Byzantine ở vùng biên giới. Năm sau, tướng Belisarius được cử quay trở lại khu vực này cùng với Hermogenes và một đội quân để phòng thủ thành Dara. Đáp lại, Kavadh lại cử thêm 10.000 quân dưới quyền tướng Perozes, cho đóng trại tại Ammodius, chỉ cách Dara khoảng 5 km, chuẩn bị cho một trận chiến lớn.
Đây là tiền đề dẫn đến Trận Dara nổi tiếng vào năm 530, một trong những trận chiến được ghi chép kỹ lưỡng nhất trong lịch sử La Mã hậu kỳ, đặc biệt qua tác phẩm của sử gia Procopius.
Triển khai
Quân Ba Tư, với quân số vượt trội hơn quân Byzantine khoảng 15.000 người, đã triển khai lực lượng cách thành phố Dara khoảng 20 stade (gần 3,7 km) và dàn trận chuẩn bị giao chiến. Mặc dù bị áp đảo về quân số, tướng Belisarius của Byzantine vẫn quyết định đánh trận. Belisarius áp dụng một chiến thuật phòng thủ thông minh: cho đào nhiều hào ngang trận địa để ngăn chặn kỵ binh Ba Tư, nhưng chừa các khoảng trống để thuận tiện phản công khi cần. Theo nhà sử học Irfan Shahid, chiến thuật này thực chất được học hỏi từ chính người Ba Tư tại trận Thannuris hai năm trước.
Belisarius triển khai các hào này chủ yếu ở hai bên cánh, trong khi giữ trung tâm đội hình lùi lại phía sau. Tại trung tâm, Belisarius bố trí bộ binh – vốn bị đánh giá là kém tin cậy – sau một tuyến hào chính, đặt gần thành Dara để nhận được hỏa lực hỗ trợ từ trên tường thành. Ở hai cánh, Belisarius bố trí kỵ binh Byzantine – vốn có chất lượng không cao – được hỗ trợ bởi các đơn vị quân Hung nhỏ: 300 kỵ binh Hung dưới quyền Sunicas và Aigan ở cánh trái, và một lực lượng tương tự ở cánh phải do Simmas và Ascan chỉ huy.
Ngoài ra, Belisarius còn bí mật bố trí một đội kỵ binh Heruli dưới quyền Pharas mai phục bên ngoài cánh trái, sẵn sàng tấn công bất ngờ. Ở phía sau trung tâm đội hình là lực lượng dự bị tinh nhuệ – đội bucellarii (kỵ binh cận vệ riêng của Belisarius) – do John xứ Armenia, người bạn thân và cũng là trợ lý đáng tin cậy của Belisarius, chỉ huy.
Chiến thuật bố trí trận địa này cho thấy sự linh hoạt và tính toán kỹ lưỡng của Belisarius khi đối đầu với một đội quân mạnh hơn cả về số lượng lẫn uy danh.
Trận đánh
Vào ngày đầu tiên trận Dara, theo ghi chép sử gia Procopius, không có giao tranh quy mô lớn mà chỉ diễn ra các trận đấu tay đôi giữa những chiến binh tiêu biểu của hai bên. Một sự kiện nổi bật là khi một kỵ sĩ Ba Tư thách đấu Belisarius, nhưng người ra trận lại là Andreas – một nô lệ làm nghề tắm hơi từng được bí mật huấn luyện bởi đội quân cận vệ của Belisarius. Andreas đã giết không chỉ kẻ thách đấu đầu tiên mà cả một chiến binh khác vào cuối ngày hôm đó. Sau loạt đấu này, quân Ba Tư rút về trại tại Ammodius để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, một số học giả nghi ngờ tính xác thực tuyệt đối câu chuyện này. Các học giả cho rằng Procopius đã sử dụng các màn đấu tay đôi như một chi tiết văn học nhằm tăng tính kịch tính, hơn là một miêu tả chính xác về sự kiện. Một nguồn tư liệu khác, được cho là dựa trên tài liệu chính thức, có nhắc đến các trận đấu cá nhân, nhưng không đề cập đến Andreas và cho rằng các cuộc đấu này diễn ra ở giai đoạn khác trận chiến.
Sau ngày giao tranh đầu tiên, Belisarius gửi một bức thư tới tướng Perozes của Ba Tư, đề nghị giải quyết tranh chấp bằng đàm phán thay vì tiếp tục chiến đấu. Trong thư, Belisarius viết: “Phúc lành đầu tiên là hòa bình, điều mà tất cả những người có lý trí đều đồng ý... Vị tướng giỏi nhất là người có thể mang lại hòa bình từ chiến tranh.” Nhưng bức thư hoặc bị phớt lờ, hoặc nỗ lực đàm phán thất bại, và trận chiến tiếp tục. Với lợi thế quân số cùng với việc đánh giá quân Byzantine là yếu kém, Perozes dường như càng thêm tự tin vào chiến thắng.
Sang ngày thứ hai, 10.000 quân tiếp viện Ba Tư từ Nisibis kéo đến. Lúc này, hai bên giao tranh bằng cung tên; trận mưa tên dày đặc đến mức Procopius mô tả nó như một “đám mây khổng lồ”. Cả hai bên đều chịu tổn thất, nhưng gió thổi ngược từ phía Byzantine đã làm giảm sức mạnh tên của Ba Tư. Tùy theo nguồn ghi chép, cục diện trận đấu lúc này được cho là nghiêng về phía Ba Tư, ngang ngửa, hoặc quân Ba Tư chịu thiệt hại nặng hơn.
Quân Ba Tư sau đó chia làm hai cánh: cánh phải do Pityaxes chỉ huy, cánh trái do Baresmanas. Trong cái nóng oi bức khoảng 45°C, họ mở đợt tấn công đầu tiên vào cánh trái quân Byzantine. Dù vượt qua được hào phòng thủ và đẩy lùi được kỵ binh Byzantine, quân Ba Tư đã bị phản công bởi kỵ binh Hung dưới quyền Sunicas từ bên trong và quân Heruli của Pharas mai phục từ phía ngoài. Cánh quân Ba Tư phải rút lui.
Tiếp theo, Perozes tung lực lượng tinh nhuệ nhất – đội Zhayedan hay “Bất tử quân” (Immortals), các kỵ binh thiết giáp – tấn công cánh phải Byzantine. Một lần nữa, kỵ binh và bộ binh Byzantine bị đẩy lùi. Nhưng Belisarius đã tung lực lượng dự bị – đội kỵ binh bucellarii – phản công dữ dội, chia cắt quân Ba Tư làm hai. Một phần quân Ba Tư đuổi theo kỵ binh Byzantine rút lui, phần còn lại bị bao vây và tiêu diệt. Tướng Baresmanas tử trận cùng với khoảng 5.000 quân Ba Tư. Sau đó, kỵ binh Byzantine cũng phục hồi và đánh tan lực lượng đang truy đuổi mình.
Belisarius chỉ cho phép truy kích vài km rồi dừng lại, để phần lớn quân Ba Tư còn sống thoát thân. Chiến thắng tại Dara không chỉ giúp bảo vệ biên giới Đông La Mã, mà còn chứng minh tài năng quân sự kiệt xuất của Belisarius, dù phải đối đầu với kẻ địch đông và mạnh hơn nhiều.
Hệ quả
Sau thất bại tại Dara, quân Sassanid dưới sự chỉ huy của tướng Spahbod Azarethes, cùng với đồng minh Lakhmid, tiến hành một cuộc xâm lược mới, lần này bất ngờ đi qua vùng Commagene. Tuy nhiên, Belisarius đã nhanh chóng điều quân ngăn chặn, buộc quân Ba Tư phải rút lui và sau đó ép quân Ba Tư tham chiến tại trận Callinicum. Dù quân Byzantine bị đánh bại trong trận này, cả hai bên đều chịu thương vong nặng nề. Cuối cùng, người Byzantine buộc phải trả cống nạp để đổi lấy một hiệp ước hòa bình.
Dara tiếp tục là một điểm nóng trong các cuộc chiến sau đó. Năm 540 và 544, thành phố hai lần bị vua Khosrau I của Ba Tư tấn công, nhưng đều không bị chiếm. Mãi đến năm 573, Khosrau mới chiếm được Dara. Sự kiện này được cho là đã khiến hoàng đế Byzantine Justin II phát điên. Sau đó, vợ Justin II là hoàng hậu Sophia cùng người bạn thân Tiberius Constantine đã nắm quyền cai trị cho đến khi Justin qua đời năm 578. Trong thời gian đó, quân Ba Tư tiếp tục tiến sâu vào lãnh thổ Byzantine, nhưng Khosrau I mất năm 579, chấm dứt chuỗi tấn công của Khosrau I.
Năm 586, hoàng đế Maurice của Byzantine đánh bại quân Ba Tư tại Dara và tái chiếm thành, nhưng đến năm 604, dưới thời Khosrau II, người Ba Tư lại giành chiến thắng và phá hủy thành phố Dara. Dù vậy, Byzantine đã tái thiết Dara vào năm 628.
Tuy nhiên, đến năm 639, thành phố bị người Ả Rập Hồi giáo chiếm giữ và ở lại dưới quyền kiểm soát của người Ả Rập Hồi giáo cho đến năm 942, khi Dara bị quân Byzantine cướp phá. Thành phố lại bị cướp phá một lần nữa bởi hoàng đế John I Tzimiskes vào năm 958, nhưng lần này Byzantine không thể giành lại quyền kiểm soát hoàn toàn.
Tóm lại, Dara là một thành trì chiến lược quan trọng, nhiều lần đổi chủ trong suốt các cuộc chiến dài giữa Byzantine và Ba Tư, và sau đó là với người Ả Rập, phản ánh rõ sự bất ổn và khốc liệt của khu vực biên giới Đông La Mã trong suốt nhiều thế kỷ.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Dara** diễn ra vào năm 530 giữa Đế quốc Đông La Mã và Đế chế Ba Tư Sassanid. Đây là một trong những trận đánh thuộc Chiến tranh Iberia. Tác phẩm của Procopius về
**Trận Yarmouk** (, còn được viết là _Yarmuk_, _Yarmuq_, hay trong tiếng Hy Lạp là _Hieromyax_, Ἱερομύαξ, hoặc _Iermouchas_, Ιερμουχάς) là một trận đánh lớn giữa quân đội Hồi giáo Rashidun với quân đội của
**Trần Khả Tân** (tiếng Trung: 陳可辛; tiếng Anh: _Peter Ho-sun Chan_; sinh ngày 28 tháng 11 năm 1962) là một nam nhà làm phim người Hồng Kông. Ông được biết tới nhiều nhất qua các
**Mặt trận Issarak Thống nhất** (viết tắt theo tiếng Anh: _UIF_, tên gốc _Samakhum Khmer Issarak_, nghĩa là _Mặt trận Khmer Issarak_) là phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của Campuchia do các
Các tỉnh Liban Dưới đây là **danh sách các thành phố và thị trấn ở Liban** phân bố theo các tỉnh. Có tổng cộng 686 thành phố. 56.21% dân số sống ở 19 các thị
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
Dung tích: 50mlXuất xứ : PhápKem dưỡng da Neutrogena Hydro Boost Water Gellà một loại kem lý tưởng cho mọi loại da, đặc biệt là da dầu, da hỗn hợp dầu, da nhạy cảm, da
[MADE IN KOREA] Tã dán Mamamy Ultraflow – Ngừa hăm & mẩn đỏ tối đaRa đời tại công ty sản xuất tã cao cấp hàng đầu Hàn Quốc, Tã Ultraflow giải quyết mọi vấn đề
[MADE IN KOREA] Tã dán Mamamy Ultraflow – Ngừa hăm & mẩn đỏ tối đaRa đời tại công ty sản xuất tã cao cấp hàng đầu Hàn Quốc, Tã Ultraflow giải quyết mọi vấn đề
[MADE IN KOREA] Tã dán Mamamy Ultraflow – Ngừa hăm & mẩn đỏ tối đaRa đời tại công ty sản xuất tã cao cấp hàng đầu Hàn Quốc, Tã Ultraflow giải quyết mọi vấn đề
[MADE IN KOREA] Tã dán Mamamy Ultraflow – Ngừa hăm & mẩn đỏ tối đaRa đời tại công ty sản xuất tã cao cấp hàng đầu Hàn Quốc, Tã Ultraflow giải quyết mọi vấn đề
**Chiến dịch Nhành ô liu** (Operation Olive Branch) là một chiến dịch quân sự do Thổ Nhĩ Kỳ khởi xướng tấn công vào các vị trí của Đảng Liên đoàn Dân chủ (PYD) được người
**Flavius Belisarius** (, khoảng. 500 – 565) là một vị tướng của Đế quốc Byzantine. Ông đóng vai trò quan trọng trong kế hoach tham vọng của hoàng đế Justinian I nhằm khôi phục lãnh
Trận **oanh kích Kunduz** diễn ra thứ Sáu, 4 tháng 9 năm 2009 khoảng 2:30 sáng giờ địa phương, 7 cây số hướng tây nam thành phố Kunduz, tỉnh Kunduz ở miền bắc Afghanistan, gần
**Nhà Mihrān** hay **Mehrān** là một gia đình quý tộc Iran (_šahrdārān_), là một bảy đại gia tộc của Đế quốc Sassanid Ba Tư và tự nhận là hậu duệ của nhà Arsaces trước đó.
**Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I**, được biết phổ biến hơn với tên gọi **Aurangzeb** ( (tước hiệu đầy đủ: _Al-Sultan al-Azam wal Khaqan al-Mukarram Abul Muzaffar Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I,
**2NE1** () là một nhóm nhạc nữ của Hàn Quốc được thành lập bởi YG Entertainment vào năm 2009. Nhóm bao gồm 4 thành viên: Bom, CL, Dara, và Minzy. Sau khi xuất hiện cùng
**YG Entertainment Inc.** () là một công ty giải trí đa quốc gia của Hàn Quốc được thành lập vào năm 1996 bởi Yang Hyun-suk. Công ty hoạt động như một hãng thu âm, công
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Nội chiến Syria** là một cuộc nội chiến đang diễn ra ở Syria bắt nguồn từ Cách mạng Syria vào tháng 3 năm 2011 khi hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối Bashar al-Assad
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
**Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc** (chữ Hán: 準噶爾汗國) hay **Hãn quốc Zunghar**, là một đế quốc du mục trên thảo nguyên châu Á. Hãn quốc nằm trên khu vực được gọi là Dzungaria và trải
**Afrin** (; ; ) là một quận cũng như một thành phố ở phía Bắc Syria, nằm trong tỉnh Aleppo. Điều tra dân số năm 2005 ở quận Afrin là 172.095 người, trong đó có
phải|nhỏ|Bản thảo De'ang **Tiếng Palaung** (), còn được biết là **De'ang** (; **, Đức Ngang)**, là một cụm phương ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á, được nói bởi hơn nửa triệu người ở Myanmar (bang
**_America's Next Top Model, Mùa thi 16_** là mùa thi thứ 16 của loạt chương trình truyền hình thực tế _America's Next Top Model_, được trình chiếu trên kênh The CW. Chương trình được trình
**USS _Laffey_ (DD-724)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
Nữ thần Po Nagar hay theo cách gọi của người Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na Đức bà **Thiên Y A Na** (Chữ Hán: 天依阿那) hay **Bà Chúa Ngọc** (婆主玉), **Bà Hồng** (婆紅),
phải|nhỏ|Cảnh cuộc chiến giữa quân đội Ả Rập với quân Ba Tư minh họa trong _Shâhnameh_ **Shāhnāmé** ( _"Liệt vương kỷ"_) là một thiên sử thi do nhà thơ Ba Tư Ferdowsi soạn khoảng năm
**Phác** là họ phổ biến thứ ba của người Triều Tiên (Triều Tiên và Hàn Quốc) sau họ Kim và Lý. Họ này viết theo Hanja là 朴, Hangul là 박, Romaja quốc ngữ: Park,
**_Kẻ hủy diệt 4_** (tiếng Anh: **_Terminator Salvation_**, Dịch nghĩa: _Kẻ huỷ diệt: Cứu rỗi_) là bộ phim điện ảnh thứ tư của dòng phim hành động, khoa học viễn tưởng và được trình chiếu
**_Meet the Robinsons_** là một phim hoạt hình máy tính sản xuất năm 2007 bởi Walt Disney Animation Studios và phát hành bởi Walt Disney Pictures vào ngày 30 tháng 3 năm 2007. Phim được
**Nhà nước Mahdi** (), còn được gọi là **Sudan thời Mahdi** hay **Mahdiyya Sudan**, là một nhà nước dựa trên một phong trào tôn giáo và chính trị được phát động vào năm 1881 bởi
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Sự can thiệp quân sự của Nga tại Syria** nằm trong bối cảnh cuộc nội chiến ở Syria, bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 năm 2015. Nó bao gồm các cuộc không kích của
**Yang Po Inư Nagar** hay **Yang Pô Ana Gar** (Inư, Ana trong tiếng Chăm, Eđê, Jarai theo âm cổ gốc có nghĩa là Mẹ) (tên đầy đủ là **Po Inư Nagar**, hay còn gọi là
**Lon Non** (1930 – 1975) là chính trị gia và sĩ quan quân đội Campuchia từng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng và có những hoạt động chính trị nổi bật trong suốt thời
**Kyle Ann Minogue**, OBE (; sinh ngày 28 tháng 5 năm 1968) hay còn được biết đến với nghệ danh **Kylie**, là một nữ nghệ sĩ thu âm, người sáng tác nhạc kiêm diễn viên
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**_The Witcher_** là một sê-ri phim truyền hình chính kịch kỳ ảo của Mỹ được sản xuất bởi Lauren Schmidt Hissrich. Phim được xây dựng dựa trên bộ sách cùng tên của nhà văn người
**Mir Qamar-ud-din Khan Siddiqi Bayafandi** (20/08/1671 - 01/06/1748) còn được gọi là **Chin Qilich Kamaruddin Khan**, **Nizam-ul-Mulk**, **Asaf Jah** và **Nizam I**, là Nizam đầu tiên của Hyderabad. Ông vốn là một vị tướng có
**Kitarō** (喜多郎, Hỉ Đa Lang) (tên thật sinh ngày 4 tháng 2 năm 1953, tại Toyohashi, tỉnh Aichi, Nhật Bản) là một nhà soạn nhạc và nhạc sĩ biểu diễn đa nhạc cụ người Nhật
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Leon Schlumpf trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Đảo chính của giới quân đội tại Lagos, Nigeria. **Brunei tuyên bố độc lập. Sau khi độc
**_Vì sao đưa anh tới_** (tiếng Triều Tiên: 별에서 온 그대; Romaja quốc ngữ: _Byeor-eseo on geudae_; tiếng Anh: _My love from the star_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt vào
**Natapohn Tameeruks** (tiếng Thái: ณฐพร เตมีรักษ์, phiên âm: Na-tha-pon Te-mi-rác, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1989) còn có nghệ danh là **Taew** (แต้ว), là một nữ diễn viên và người mẫu người Thái Lan